• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Thời không thể quên
  3. Trang 34

Có những đêm trinh sát…

Cách trung tâm thành phố Huế chỉ chừng mười cây số nhưng phải gần một năm sau ngày giải phóng tôi mới trở lại thôn Dương Xuân Hạ, một thôn nghèo ngoại thành Huế. Thôn nghèo ấy tôi có một người mẹ, một cô con gái đã cưu mang những chiến sĩ trinh sát chúng tôi vượt qua hiểm nguy giữa những ngày chiến tranh khốc liệt.

Thành phố Huế được giải phóng ngày 26 tháng 3 năm 1975. Sau khi cắm lá cờ nửa đỏ nửa xanh lên đỉnh cột cờ Phu Văn Lâu, trung đoàn chúng tôi tiếp quản thành phố Huế. Những chiến sĩ giải phóng quân hôm qua còn cầm súng nay lại trở thành những chiến sĩ làm công tác vận động quần chúng và giữ gìn an ninh trật tự giúp đỡ nhân dân nhanh chóng ổn định cuộc sống. Riêng đại đội tôi trấn giữ, bảo vệ ba chiếc cầu quan trọng bắc qua sông Hương: cầu Tràng Tiền, cầu Phú Xuân, cầu Bạch Hổ.

*

… Những ngày cuối năm 1973, chúng tôi nhận lệnh trinh sát thực địa phục vụ đơn vị chuẩn bị chiến dịch sẵn sàng chiến đấu tiến công giải phóng thành phố Huế. Mỗi chuyến đi trinh sát có một hoặc hai chiến sĩ biệt động thành hoặc du kích địa phương dẫn đường. Nhiệm vụ chúng tôi phải trực tiếp mắt thấy, tai nghe, chân đi đến, xác định mục tiêu, thông thuộc địa hình phục vụ cho đơn vị xây dựng quyết tâm chiến đấu. Thường thì mờ tối chúng tôi bắt đầu rời rừng giáp ranh và trở lại rừng trước khi trời sáng. Nhưng cũng không ít lần chúng tôi phải nằm lại một hoặc hai ngày để đêm sau lại tiếp tục trinh sát thực địa. Mỗi lần nằm lại như thế mỗi người lính trinh sát thường được giấu dưới một căn hầm bí mật trong nghĩa trang của thôn hoặc chính trong vườn nhà của gia đình. Cũng có lần chúng tôi được “cất giấu” trong khuôn viên lăng Tự Đức, thậm chí giấu mình trọn ngày trong một bụi gai giữa đồng… để chờ đêm xuống. Ai được giấu đâu chỉ biết đó, ai được gia đình nào nuôi giấu thì biết gia đình đó, có thể biết tên nhưng không biết mặt biết người.

Căn hầm tôi được giấu lưng chừng sườn đồi của nghĩa địa thôn và cạnh một ngôi chùa. Nhận cưu mang tôi mỗi lần phải ở lại dưới hầm là một người mẹ và một cô con gái. Anh du kích địa phương chỉ một lần nói với tôi tên mẹ là Thiết và cô con gái là Ngọc Anh. Nghe nói Ngọc Anh là sinh viên văn khoa nhưng theo phong trào sinh viên xuống đường phản đối chiến tranh nên bị đuổi học và về làm thuê cho nhà máy vôi Long Thọ.

Ngày ngày cơm nước được thả xuống theo lỗ thông hơi của căn hầm. Nếu mẹ Thiết thả cơm thì mở hộp cơm ra có mảnh giấy viết chữ “M”, nếu con gái mẹ thả cơm xuống thì viết chữ “NA” (Ngọc Anh). Phần lớn các bữa đưa cơm cho tôi chỉ có chữ “NA”.

Mỗi lần ngồi dưới hầm xúc thìa cơm ăn tôi cứ tưởng tượng ra người mẹ ấy. Không biết mẹ bao nhiêu tuổi, mẹ già hay trẻ, lưng mẹ có còng như mẹ tôi không? Cô con gái “NA” của mẹ hôm nay đi đâu, làm gì, cô có xinh có đẹp không, giọng nói của cô có giống những cô gái Huế đã từng dẫn trinh sát chúng tôi đi thực địa xuyên đêm những ngày trên rừng không…?

Giữa những ngày chiến tranh vào sinh ra tử có lẽ không ai tưởng tượng được rằng có một ngày mình sẽ “đi tìm những người mình chưa bao giờ gặp”. Ngày ấy tôi chỉ biết thôn Dương Xuân Hạ qua những lần đi trinh sát vào ban đêm nên khi trở lại mấy lần vẫn không thể nào hình dung được nơi mình đã từng trú lại dưới lòng đất. May sao lại có anh Thụ. Sau ngày Huế được giải phóng anh Thụ đã cất công về thôn Dương Xuân Hạ nhiều lần và tìm ra được những gia đình đã từng cưu mang mình trong những ngày phải trụ lại sau đêm đi trinh sát.

Tôi không thể tả được cái giây phút gặp lại mẹ Thiết, được ôm mẹ vào lòng. Tôi không thể tả được cái giây phút gặp Ngọc Anh đi làm về, bộ quần áo còn bám bụi lò vôi… Cho đến bây giờ khi cầm bút ghi lại những dòng chữ này tôi vẫn không quên cái cảm giác nghẹn lòng giây phút gặp mặt đầu tiên ấy. Lại hiện lên trong tôi gương mặt tảo tần dày nếp nhăn của mẹ, lại hiện lên trong tôi đôi mắt mơ buồn nhưng thẳm sâu lấp lánh của Ngọc Anh…

*

Năm 2009, nhân một chuyến công tác ở thành phố Huế tôi đưa anh Ngọc Thăng cán bộ kỹ thuật của Báo Quân đội nhân dân về thăm gia đình. Mẹ Thiết, mẹ Hai và các anh các chị dẫn tôi và Ngọc Thăng ra nghĩa địa thôn sau làng. Thời gian trôi qua, dấu tích xưa không còn nữa, mẹ Thiết chỉ cho chúng tôi căn hầm đã từng giấu chúng tôi vượt qua hiểm nguy những ngày chiến tranh dưới một gốc cây vú sữa. Hai người mẹ láng giềng tuổi đã già, chân bước đi không vững vẫn kéo tôi áp chặt ngực vào thân cây vú sữa. Dường như hai người mẹ muốn nói với tôi, cây vú sữa là chứng nhân một thời. Một thời như huyền thoại, một thời như cổ tích. Cảnh vẫn cũ nhưng người xưa ai còn ai mất? Năm tháng trôi qua thời gian xóa mờ đi nhiều ký ức, còn mấy ai như tôi vẫn thẫn thờ đi tìm bóng người xưa…

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 33
  • 34
  • 35
  • More pages
  • 42
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 33
  • 34
  • 35
  • More pages
  • 42
  • Sau