• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Thời không thể quên
  3. Trang 39

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 38
  • 39
  • 40
  • More pages
  • 42
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 38
  • 39
  • 40
  • More pages
  • 42
  • Sau

Anh vẫn sống mãi trong tôi

Có lẽ tôi “gắn số phận” của mình với anh suốt những năm tháng cuối cùng của cuộc chiến tranh giải phóng bắt đầu từ một câu nói: “Cậu này trông như một con sóc, biên chế về tiểu đội liên lạc”. Đó là ngày đầu tiên tôi từ một chiến sĩ mới đặt chân đến tiểu đoàn bộ và anh là tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 6.

Sau này khi thực thụ là một chiến sĩ liên lạc tôi thấu hiểu lời anh. Làm chiến sĩ liên lạc trên một chiến trường mưa bom bão đạn, nhất là trong một chiến dịch dài, một trận chiến đấu khốc liệt là không ít thử thách và nguy hiểm. Trong chiến đấu mạng thông tin vô tuyến, hữu tuyến không thể thông suốt liên tục dưới tầm bom pháo, người chiến sĩ liên lạc phải như một con sóc “thế thân” vào khoảng trống thông tin ấy mà truyền lệnh, truyền tin tới mọi vị trí chỉ huy, mọi ngóc ngách chiến hào bất cứ lúc nào.

Đêm 22 tháng 12 năm 1972 là đêm đầu tiên tôi lên chốt Sơn Na cùng anh. Ở chốt với bộ đội những ngày chiến đấu gian khổ ác liệt, có ngày chỉ ăn gạo sấy, uống nước hố bom đương đầu với vài ba cuộc tiến công lên chốt của địch. Trên đầu thì bom, pháo, dưới đất thì bộ binh địch chỉ chờ ngớt tiếng pháo là thúc quân lên. Trong hầm chỉ huy anh nói không ra tiếng, thông tin gián đoạn, nhiều mệnh lệnh anh chỉ giơ tay ra hiệu chỉ về hướng nào là tôi lại lao đến để truyền đạt lệnh chiến đấu của anh. Sau những trận chiến đấu ấy, đêm đến hai anh em ngả lưng trong lòng hầm chữ A chập chờn giấc ngủ chợt đến, chợt đi, trong tiếng pháo cầm canh, trong ánh sáng vàng úa của pháo sáng địch hắt vào cửa hầm… Những lúc ấy tôi ý thức được, tôi không chỉ là một chiến sĩ liên lạc mà còn là một “cận vệ”, một người bạn, một đứa em của anh.

Sau năm ngày ở chốt Sơn Na, tôi và anh trở về tiểu đoàn bộ. Chạng vạng tối chúng tôi lần về theo lối cũ ven các sườn đồi. Bom pháo và cành cây ngổn ngang dường như xóa hết lối mòn, chúng tôi phải dò đường theo trí nhớ để tránh dẫm phải mìn phòng ngự của ta và địch lớp lớp chồng lên nhau. Đi trước là Tiến Hà Nội - chiến sĩ của trung đội trinh sát, sau anh là tôi. Lợi dụng ánh sáng sau mỗi loạt pháo sáng địch bắn lên, chúng tôi lần mò lối mòn để đi. Khi đến một đoạn ngoặt sườn đồi tôi vừa kịp nghe tiếng chân đạp trên cành khô thì một loạt đạn xé rách màn đêm xả về phía chúng tôi. Theo phản xạ, hai anh em lăn xuống sườn đồi. Một lát sau không có động tĩnh gì, hai anh em trườn lên phía trước mới biết Tiến bị trúng đạn vỡ một bên xương vai, khẩu súng AK đứt lìa báng gỗ. Chúng tôi băng tạm vết thương cho Tiến và ba anh em dìu nhau về tiểu đoàn bộ. Về tiểu đoàn bộ mới biết tổ tuần tra của tiểu đoàn đi tuần tra đã bắn nhầm vì tưởng chúng tôi là thám báo địch.

Anh giận lắm, với một người chỉ huy khác thì có lẽ tổ tuần tra bị kỷ luật nặng nhưng tôi chỉ thấy anh nghiêm mặt nói: “Đêm tối các cậu phải mở to mắt ra, áp tai xuống đất mà phán đoán tiếng giày của địch. Bộ đội ta đi dép cao su tiếng chạm đất nó khác…”. Hình như tôi học thêm được ở anh một bài học, bài học ấy với người lính ở chiến trường phải đánh đổi cả bằng máu!

Cuối năm 1973, anh chỉ huy một đại đội ở hướng thứ yếu đánh đồi Bảo An. Hướng đánh thứ yếu của ta nhưng lại tiến công vào hướng phòng ngự chủ yếu của địch với nhiệm vụ nghi binh, thu hút địch cho hướng chủ yếu của ta. Giờ nổ súng điểm, bộ đội vừa ào lên khỏi công sự dã chiến thì hỏa lực địch bắn như mưa không ai ngóc lên được. Hỏa lực địch dừng, đại đội trưởng hô xung phong chỉ thấy vài người xông lên lại bị hỏa lực địch đè xuống. Địch ngừng bắn lại nghe tiếng đại đội trưởng hô xung phong nhưng lại chỉ vài người xông lên, lại bị hỏa lực bắn thẳng của địch đè xuống… Anh quay lại nói với tôi truyền lệnh cho hai khẩu 12,7 ly hạ tầm bắn, khi nghe tiếng xung phong thì tập trung bắn thẳng vào hỏa điểm địch ở lô cốt đầu cầu bịt miệng nó lại, và anh lao lên vị trí chỉ huy của đại đội trưởng. Tiếng hô xung phong của anh chưa dứt thì hai khẩu 12,7 ly của ta chụm hỏa lực bịt lô cốt đầu cầu của địch. Anh bật dậy, cả đại đội xông lên, cùng lúc đó hướng chủ yếu tiếng súng của ta nổ giòn như pháo tết… Lần ấy anh bị thương nhẹ, sượt một bên cánh tay. Ta làm chủ trận địa thì anh rút về tiểu đoàn bộ. Trên đường về anh nói với tôi nhưng có lẽ anh nói với chính mình: “Anh hô xung phong thì anh phải xông lên bộ đội mới xông lên. Người chỉ huy bao giờ cũng là cái đầu tàu, đầu tàu không chạy thì đoàn tàu chạy thế nào được…”. Tôi lại có thêm một bài học, bài học về sự gương mẫu, đầu tàu của người chỉ huy…

Kết thúc chiến tranh tôi đi học và trở thành một người làm báo chuyên nghiệp trong quân đội vậy mà phải đến hơn mười lăm năm sau tôi mới có dịp gặp anh ở đảo Trần. Ngày ấy anh đã là Phó Tham mưu trưởng Quân khu 3. Sau giây phút mừng mừng tủi tủi ôn lại chuyện ngày ở chiến trường, anh kéo tôi xuyên rừng lên đài chỉ huy của đảo Trần. Vẫn tác phong chỉ huy ngày xưa ấy, anh sờ từng khẩu súng, từng mép lô cốt, mép chiến hào. Anh nằm nhoài người trên cửa đài để ngắm tầm quan sát. Gặp một tổ trực chiến anh dừng lại nói: “Trưa nay đoàn công tác của Bộ Tư lệnh Quân khu ra chúc tết trước, các đồng chí về dự liên hoan nhé”. Một chiến sĩ đứng nghiêm trả lời: “Báo cáo thủ trưởng chúng tôi đang trực chiến, có cơm nắm mang theo rồi ạ”. Vừa nói người chiến sĩ vừa lấy nắm cơm trong túi đeo ngang thắt lưng ra. Anh cầm nắm cơm trên tay mở ra xem có thức ăn gì và nhón mấy hạt cơm vê vê trên tay đưa lên miệng nhấm thử. Anh nói: “Cơm này khi xới ra khỏi nồi là chín nhưng để đến trưa, nguội, trời rét là sống lại. Tôi sẽ nhắc mấy cậu nuôi quân chú ý phải nấu mềm hơn nữa…”. Có lẽ người chiến sĩ ấy chưa bao giờ gặp một người chỉ huy như thế!

Mấy năm anh về làm Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Hà Nam, thỉnh thoảng tôi có ghé thăm anh. Lúc nào cũng thấy anh tất bật, lo toan. Cơ quan chuyển tới một địa điểm mới, các công trình xây dựng cũng mới, to đẹp và khang trang hơn. Mỗi lần tôi đến thăm anh đều dẫn đi tham quan, tôi có cảm giác như mỗi viên gạch, mỗi bức tường đều in dấu bàn tay anh!

Bẵng đi một thời gian tôi nghe tin anh chuyển sang công tác Tỉnh ủy Hà Nam nhưng rồi cho đến hôm có cuộc diễn tập cấp tỉnh tôi mới được trực tiếp gặp anh. Lúc đó anh đã là Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam. Hôm ấy trời mưa to, chúng tôi là khách mời được phát mỗi người một cái ô, gặp anh tôi thấy anh vẫn đội cái mũ cứng có ngôi sao vàng. Thấy vậy tôi xòe ô che lên đầu cho anh, anh gạt đi và nói: “Cậu khỏi cần, ngày xưa ở chiến trường anh em mình chỉ có chiếc mũ tai bèo vậy mà ta vẫn sống qua những mùa mưa dằng dặc ở Trường Sơn, bây giờ mình còn phải lội xuống xem diễn tập…”.

*

Khi tôi cầm bút ghi lại những dòng chữ này thì anh đã đi xa. Chục năm qua rồi mà tôi vẫn ngỡ mới là hôm qua. Ngày anh lâm bệnh, một căn bệnh di chứng chiến trường, anh vẫn tới cơ quan làm việc, tôi đi công tác qua lại và thường xuyên vào thăm anh hơn. Mỗi lần gặp tôi anh vẫn hào hứng những kỷ niệm xưa ở chiến trường, những ngày còn mặc áo lính. Quân đội trong anh vẫn sâu nặng và đã trở thành máu thịt dễ gì nguôi được.

Anh đi xa nhưng trong tôi anh vẫn rất gần. Mỗi lúc khó khăn gian khổ trong cuộc đời tôi vẫn gọi nhắc tên anh. Người chỉ huy mưu trí, gan dạ, dũng cảm trong chiến đấu, bao dung, độ lượng yêu thương đồng đội, bạn bè. Những năm tháng rời quân ngũ sang cương vị mới người ta thường kính thưa: “Đồng chí Tăng Văn Phả, Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam”. Còn tôi, tôi chỉ lặng yên nghe thì thầm tiếng lòng mình: “Tăng Văn Phả, người anh yêu quý, người chỉ huy can trường ấy vẫn nguyên vẹn trong tôi!”.