• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Thời không thể quên
  3. Trang 41

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 40
  • 41
  • 42
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 40
  • 41
  • 42
  • Sau

Đó là khát vọng hòa bình!

Những năm tháng ấy trong hành trang của mình người lính nào cũng có một quyển sổ tay để ghi nhật ký. Cách ghi nhật ký cũng không ai giống ai. Người thì ghi nhật ký hàng ngày, người thì ghi nhật ký theo sự kiện. Có nghĩa là khi có sự kiện gì đáng nhớ thì mới ghi chép lại. Người thì ghi sự kiện bằng thơ. Còn tôi trên đường ra trận tôi ghi nhật ký vừa bằng thơ vừa bằng văn xuôi. Với người lính ghi nhật ký không chỉ là việc chép lại những gì mình gặp, mình thấy, mình mơ ước khát vọng về tương lai mà là một niềm vui khi gửi gắm tâm hồn mình vào từng con chữ. Bởi thế có những trang nhật ký không phải là thơ nhưng đọc lên ta nghe được thơ và nhạc!

Tôi và anh Bình ở cùng tiểu đoàn với nhau từ khi nhập ngũ cho tới khi kết thúc cuộc chiến tranh giải phóng. Anh Bình là sinh viên khoa Văn Trường Đại học Sư phạm Vinh, và là người rất yêu thích văn học. Suốt chặng đường hành quân trên đường Trường Sơn cho tới những năm tháng chiến đấu trên mặt trận Thừa Thiên - Huế anh luôn cổ vũ tôi viết nhật ký và làm thơ đều đặn. Với kiến thức của mình, khi biết tôi rất yêu thơ anh thường xuyên xem, đọc và góp ý cho tôi những bài thơ vừa viết. Anh thường nói với tôi: “Thơ không phải là những câu chữ bịa ra mà là cảm xúc của trái tim, của tâm hồn người chiến sĩ trước hiện thực cuộc sống, chiến đấu của người lính trên mặt trận!”.

Gần nửa thế kỷ đi qua mà mỗi lần tôi cầm quyển nhật ký của mình cảm xúc của tôi vẫn còn nguyên vẹn. Quyển nhật ký đã phai bìa và sờn mép nhưng giở từng trang vẫn tươi màu mực Cửu Long. Không biết từ đâu khi còn đang huấn luyện chiến sĩ mới ở Nghĩa Hội, tôi đã được xếp vào diện những chiến sĩ “văn hay chữ tốt” cùng với nhiều sinh viên Đại học Sư phạm Vinh trong tiểu đoàn. Vì vậy khi vào chiến trường, biên chế về Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 6 (Thừa Thiên - Huế) ngoài nhiệm vụ chính tôi còn được phân công viết tin, bài, phụ trách báo tường của tiểu đoàn bộ. Anh Bình thì thường xuyên động viên và ủng hộ tôi viết tin bài, thơ gửi cho tờ báo Quân giải phóng Trị - Thiên.

Những bài thơ tôi viết bao giờ anh cũng đọc trước và sửa chữa cho tôi. Các buổi sinh hoạt văn hóa, văn nghệ thứ sáu hàng tuần ở đơn vị tiểu đoàn bộ cũng như thời gian học ở Trường hạ sĩ quan Trung đoàn Phú Xuân anh thường chọn bài thơ của tôi để bình thơ trước đơn vị. Anh đã bỏ công tập hợp những bài thơ tôi viết từ trên đường Trường Sơn cho tới những điểm chốt, những trận chiến đấu tôi góp mặt thành một cuốn “Bình thơ nhật ký”. Bình còn nói rõ ý tưởng của anh là tập hợp, sưu tầm những tư liệu cuộc sống chiến đấu của những người lính trên mặt trận. Và, mai sau nếu còn cơ hội đứng trên bục giảng anh sẽ kể cho học sinh, sinh viên về một thời chúng tôi đã sống và chiến đấu!

Trong một bài thơ của tôi viết trên đường Trường Sơn tháng 5 năm 1972 đề tặng một người bạn anh đã trích một khổ thơ mà anh cho rằng đó là sự giao thoa giữa tâm hồn, bản lĩnh của một người chiến sĩ trên đường ra trận với khát vọng về một tương lai.

Đêm Trường Sơn gió buốt cắt da

Ôm súng dưới chiến hào đứng gác

Mắt quầng thâm xé rừng xanh tìm giặc

Vẫn mơ từng trang sách dưới trời sao

Thời ấy thế hệ chúng tôi dường như không có tình yêu riêng, tình yêu của mỗi con người hòa chung trong tình yêu quê hương đất nước và nghĩa vụ thiêng liêng khi Tổ quốc kêu gọi. Cuối năm 1972, dù đã vào trận rồi nhưng chưa được trực tiếp cầm súng, trong bài thơ “Tôi yêu quê tôi”, tôi đã viết:

… Không lẽ nào tôi lại ngồi yên

Khi quê hương chìm trong khói lửa

Không lẽ nào tôi lại ngồi yên

Khi miền Nam còn đang máu ứa

“Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do”

Lời non nước thấm từng thớ thịt

Vì miền Nam xông lên phía trước

Sức mạnh căm thù sôi sục trong tim…

Vào một ngày cuối năm 1972, chuẩn bị đón tết năm 1973, tại hậu cứ của một đơn vị bộ đội địa phương Thừa Thiên - Huế, tôi được chứng kiến một cuộc gặp gỡ đầy xúc động giữa một người anh trai và cô em gái. Người anh trai trốn nhà lên rừng và gia nhập bộ đội địa phương, người em gái vào du kích. Hôm sau, trước khi dẫn bộ đội đi trinh sát chuẩn bị cho trận đánh mới, cô đã mang được một cành hoa mai tuyệt đẹp lên rừng tặng anh trai chuẩn bị đón tết.

Gặp nhau đừng khóc em ơi

Nước mắt chan lẫn nụ cười hân hoan

Cành mai khoe sắc ong vàng

Gió đưa thoang thoảng một làn hương say

Ồ, mùa xuân đến trong tay

Còn vương giá rét những ngày cuối đông.

Khoảng lặng giữa hai trận đánh trên điểm chốt Ma Soa (Tây Thừa Thiên - Huế) vào một ngày cuối tháng 4 năm 1974, tựa lưng vào vách chiến hào còn khét mùi thuốc súng tôi đã ước:

… Cho ta đi đầu ngọn sóng

Căng cánh buồm nâu gió lộng về khơi

Cho ta đi bốn phương trời

Về những miền quê còn máu chảy

Cho ta làm ngọn lửa cháy

Thiêu đốt quân thù

đạp chúng xuống bùn đen…

Trong cuộc chiến đấu vô cùng ác liệt ấy những người lính sống chiến đấu đã biết nuôi ước mơ khát vọng của mình bằng lý trí, bằng lý tưởng cầm súng. Và lý trí, lý tưởng cầm súng ấy có lúc đã được đẩy lên tận cùng sự lãng mạn hóa những khó khăn gian khổ.

Chính trong những đêm truy kích địch tôi đã nhìn thấy:

Ngôi sao đêm đậu lên nòng súng

Ông Thần Nông ngó xuống mỉm cười

Vuốt nắm cơm bên hông!

Trong một buổi tối sinh hoạt văn hóa, văn nghệ ở Trường hạ sĩ quan Trung đoàn 6 Phú Xuân khi bình bài thơ “Đêm vào trận” của tôi, anh Bình đã thốt lên: “Nếu không cầm súng vì một lý tưởng cao đẹp những người lính chúng ta không thể biến thiên nhiên thành đồng đội cùng chiến hào. Không thể biến một tổ ba người thành sức mạnh của một binh đoàn chủ lực”:

Yêu sao những chiếc lá đêm nay

Che mắt quân thù cho ta đi tới

Yêu sao khẩu súng thép trong tay

Nóng như tim ta hai mươi tuổi

Tổ ba người cũng thành hàng ngang

Và một người cũng thành hàng dọc

Binh đoàn xông lên đạp đầu quân giặc

Những bàn chân dưới bóng cờ sao.

Tại sao cái thời ấy những người lính có thể sống và chiến đấu với một tâm thế như thế! Sức mạnh nào khiến cho đôi chân của họ đạp bằng mọi chông gai để đứng vững trên cái chết… Tôi đọc lại những bài thơ, những trang viết của mình trong quyển nhật ký và bỗng nhớ một câu khi anh Bình thốt lên trong một buổi bình thơ: “Đó là khát vọng hòa bình!”.