• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Thời không thể quên
  3. Trang 5

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 4
  • 5
  • 6
  • More pages
  • 42
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 4
  • 5
  • 6
  • More pages
  • 42
  • Sau

Phần mộtĐường trường sơn ký ức những bàn chân

att

Kỷ vật trước lúc lên đường

Gần nửa thế kỷ đi qua, bây giờ cứ vào dịp cuối năm, Hội đồng ngũ làng tôi lại gặp nhau một lần. Nói là Hội đồng ngũ nhưng thời gian đi qua, ở làng hiện giờ chỉ còn lại chín người và ba người đang sinh sống làm ăn nơi đất khách. Trong số 22 người lên đường nhập ngũ năm ấy thì 10 người đã hy sinh trong chiến tranh và trong các hoàn cảnh khác ở thời bình. Mỗi lần về thăm quê tôi đều gặp gỡ đồng đội cũ, đặc biệt là với Hồ Quốc Việt. Cứ gặp Việt là câu chuyện như bấm vào cái nút hoài niệm cũ ùa về, cho dù những năm tháng ở chiến trường tôi không sống và chiến đấu cùng với Việt. Việt là người thay mặt 22 anh em chúng tôi lên đọc quyết tâm thư trước quê hương, trước bạn bè người thân tại Lễ tiễn đưa con em lên đường nhập ngũ. Những năm tháng chiến đấu gian khổ ở chiến trường nhiều lúc lời hứa quyết tâm của Việt cứ văng vẳng bên tai tôi…

Trong những dấu mốc quan trọng cuộc hành trình của một người lính trên đường ra trận thì với tôi buổi lễ tại quê hương tiễn đưa con em mình ra trận là một trong những dấu mốc đáng ghi nhớ nhất. 22 anh em chúng tôi và số cán bộ về nhận quân như lọt thỏm trong vòng vây của hàng trăm người thân. Một không gian khuôn viên đình làng tràn ngập xúc động, lưu luyến trước giờ phút chia tay. Thay mặt các tổ chức chính quyền, các hội, đoàn, Hội phụ nữ tặng chúng tôi một chiếc khăn mùi soa trắng; Hội phụ lão tặng mỗi chúng tôi một “chiếc gậy Trường Sơn” bằng cây trúc. Trên chiếc khăn mùi soa có thêu nắn nót hai hàng chữ. Góc trái khăn thêu: “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”; góc phải khăn thêu: “Ra đi giữ trọn lời thề. Đánh tan giặc Mỹ mới về quê hương”.

Bây giờ nói đến chiếc gậy Trường Sơn ai cũng biết làng Hòa Xá, Ứng Hòa, Hà Tây là quê hương của phong trào trao gậy cho con em lên đường nhập ngũ. Chiếc gậy trao cho con em lên đường nhập ngũ như trao lời nhắn nhủ: “Ra đi chân cứng đá mềm”. Năm 1971, khi chúng tôi lên đường thì bài hát “Chiếc gậy Trường Sơn” của nhạc sĩ Phạm Tuyên viết từ năm 1967, nhân một chuyến công tác của ông đã trở thành một hành khúc quen thuộc. Vì vậy cầm trên tay chiếc gậy Trường Sơn của các cụ phụ lão trao cho, 22 anh em chúng tôi đã nắm chặt tay nhau đồng ca bài hát “Chiếc gậy Trường Sơn”. Bài hát hành khúc cất lên giữa sân đình làng hào sảng khiến cho ai cũng hình dung, tưởng tượng như bàn chân của mình đang vượt Trường Sơn đại ngàn ra trận.

Chúng tôi giữ chiếc khăn mùi soa và gậy Trường Sơn như một kỷ vật thiêng liêng trong suốt bốn tháng huấn luyện chiến sĩ mới tại Đại đội 44, Tiểu đoàn 11, Đoàn 22A, Quân khu 4. Trong thời gian huấn luyện, chiếc gậy luôn được đặt ngay ngắn trên giá ba lô đầu giường. Còn chiếc khăn mùi soa đã trở thành “vật bất ly thân” trong bộ quân phục hầu như lúc nào cũng thấm đẫm mồ hôi. Có người dùng thường xuyên chiếc khăn đã ố vàng nhưng dòng chữ thêu màu chỉ vẫn không phai.

Nhớ mãi những ngày gần Tết Nguyên đán năm 1971-1972, một số chiến sĩ đại đội tôi thường tìm cách trốn đơn vị về nhà. Cán bộ khung huấn luyện phải bám sát đơn vị, gần gũi chiến sĩ để làm công tác động viên tư tưởng, nhiều địa phương cử cán bộ lên tận đơn vị thăm hỏi tặng quà, nhiều bậc cha mẹ có con trốn về trực tiếp dẫn con lên giao lại cho đơn vị… 22 anh em làng tôi ở cùng một đại đội không ai bảo ai vào một buổi chiều rủ nhau ra bãi cỏ sau doanh trại bày bánh kẹo của nhà gửi lên đón tết. Đứa nào cũng mang theo chiếc gậy Trường Sơn và chiếc khăn mùi soa ra bãi cỏ bày cùng bánh kẹo trước mặt. Chiếc gậy Trường Sơn thì còn rất mới nhưng chiếc khăn mùi soa đã có chiếc ố vàng. Có đứa vừa giở khăn ra đã đọc lên: “Ra đi giữ trọn lời thề. Đánh tan giặc Mỹ mới về quê hương”. Giọng đọc cậu ta cứ rưng rưng như muốn xua vơi đi nỗi nhớ nhà những ngày cận tết. Chúng tôi nhắc nhau không ai bỏ đơn vị…

Tết ấy cũng là tết đầu tiên trong cuộc đời của những học sinh, thanh niên nông thôn như chúng tôi ăn tết xa nhà. Chính quyền và đoàn thể xã Nghĩa Hội có sáng kiến thật xúc động và thật ý nghĩa. Các gia đình trong xã vào đơn vị đề nghị chỉ huy đại đội cho đón chúng tôi về ăn tết cùng gia đình trong ba ngày tết. Nhà ít nhất thì đón hai chiến sĩ, nhà nhiều thì đón bốn chiến sĩ. Gia đình đón nhận tôi và Hồ Quốc Việt về ăn tết là một gia đình nghèo, neo đơn. Nhà chỉ có một bà mẹ và cô con gái chừng tuổi chúng tôi, chị tên là Thủy. Nhà nghèo nhưng mẹ đón chúng tôi bằng một cái tết ấm cúng và vừa đủ. Dường như không chỉ cái tết gia đình làm cho tôi và Việt đỡ nhớ nhà mà ngược lại sự có mặt của hai chúng tôi đã khiến cho ba ngày tết của hai mẹ con Thủy ấm áp hơn, đỡ cô quạnh hơn. Kể từ cái tết ấy, hơn bốn mươi năm sau trong một lần đi công tác về xã Nghĩa Hội, tôi trở lại nơi đóng quân và tìm thăm gia đình mẹ con chị Thủy. Lối cũ không còn dấu vết xưa nữa, làng xóm đã đổi thay nhiều, mẹ đã mất, người trẻ lớn lên chỉ nhớ có một cô Thủy đã đi lấy chồng xa…

Kết thúc khóa huấn luyện chiến sĩ mới, sau bốn tháng tiểu đoàn tôi có lệnh xuất quân. Những ngày đầu chưa thấm mệt, lại được hành quân ra trận trên chính quê hương mình nên ai cũng háo hức, tuổi trẻ bước chân ra trận thật rạo rực và đậm sắc màu lãng mạn. Cả đội hình hành quân dài hàng kilômét nhưng chỉ có anh em chúng tôi cùng làng được nâng bước bằng chiếc gậy Trường Sơn của quê hương. Khi cuộc hành quân bắt đầu đặt chân vào cửa rừng Trường Sơn ai cũng mới nhận ra lợi ích của chiếc gậy. Chiếc gậy không chỉ nâng bước chân hành quân của chúng tôi mà có lúc đã nâng cả người và trang bị chúng tôi vượt đèo dốc… Vào đến Trường Sơn không ai bảo ai, cả đội hình hành quân ai cũng tìm cho mình một chiếc gậy làm bạn đường. Phải thừa nhận hành quân trên dãy Trường Sơn có chiếc gậy trong tay vô cùng tiện ích. Chiếc gậy kéo tay nhau đu lên từng bậc thang dây treo trên vách đứng; chiếc gậy dắt tay nhau qua suối sâu, qua cầu độc mộc. Những đêm dừng chân trên đường hành quân ở các binh trạm, đêm đêm canh gác không thể thiếu cây gậy trong tay dò đường, đặc biệt những đêm mưa lũ. Tiểu đoàn 11 của chúng tôi có hai đại đội sinh viên Đại học Sư phạm Vinh. Các “nghệ sĩ” sinh viên ra trận, họ đã biến nguồn cảm hứng thi ca, hội họa của họ lên cây gậy trúc bằng những tác phẩm điêu khắc, hội họa… theo cách của họ. Trên chiếc gậy Trường Sơn họ đã chạm khắc tên người yêu, tên bạn gái, vẽ lên những bông hoa, những đôi chim đang tự tình. Còn tôi, tôi đã viết lên chiếc gậy của mình một câu chợt xuất hiện sau khi bước chân lên dãy Trường Sơn: “EM HÃY ĐỢI ANH VỀ!”. Viết câu ấy lên gậy Trường Sơn rồi tôi mới chợt nhận ra hình như câu ấy nghe quen quen, có ai vừa nói với ai lúc chia tay trên chặng đầu ngày hành quân. Bởi tôi đã yêu ai đâu mà hãy đợi!

Những năm tháng ấy tuổi trẻ chúng tôi ra trận như thế. Sự vô tư trong niềm hy vọng lớn lao của cuộc đời là ở phía trước. Ai ra đi cũng gửi lại quê hương, người thân và bạn bè bao kỷ niệm đầu đời. Một kỷ vật trước lúc lên đường như chiếc khăn tay, chiếc gậy Trường Sơn cũng đủ nặng tình quê hương gửi gắm. Đó như một lời nhắn nhủ, như một lời thề, một lời thề giúp đôi chân người lính trên mặt trận lướt qua muôn vàn gian khổ, ác liệt mà sống và chiến đấu quên mình.