Khi tôi cầm bút ghi lại ký ức cái đêm ấy, đêm hành quân qua Ngã ba Đồng Lộc thì tại Khu di tích Ngã ba Đồng Lộc mỗi ngày đều có hàng trăm, hàng ngàn người khắp mọi miền đất nước tới miền đất thiêng ấy kính cẩn nghiêng mình thắp nén hương thơm tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống để bảo vệ tuyến đường giao thông huyết mạch trong những năm tháng chiến tranh và kỷ niệm nửa thế kỷ sự hy sinh của 10 cô gái thanh niên xung phong đã đi vào lịch sử từ ngày 24 tháng 7 năm 1968.
Bây giờ Ngã ba Đồng Lộc là vùng đất linh thiêng, là điểm đến của các cuộc du lịch xuyên Việt, du lịch tâm linh, là bài học lịch sử, là một bản hùng ca bi tráng đối với thế hệ sinh ra sau chiến tranh. Nhưng tôi cứ nghĩ nếu đêm ấy tôi không hành quân qua Ngã ba Đồng Lộc giữa những ngày chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ thì không thể tưởng tượng được sự khốc liệt của một Ngã ba ngày đêm chìm đắm trong bom đạn.
*
Chúng tôi hành quân đến Ngã ba Đồng Lộc chừng vài cây số thì dừng lại. Để vượt qua trọng điểm thật nhanh gọn, đội hình hành quân của đại đội được đưa lên thùng các xe tải mui trần vừa lao đi, vừa nhảy chập vập qua những hố bom chưa kịp lấp đầy. Trên trời thì pháo sáng địch hầu như không tắt, dưới đất thì xe nối xe hết đợt này đến đợt khác vừa chuyển quân, vừa chuyển lương thực, vũ khí đạn dược hướng vào miền Nam…
Ngã ba Đồng Lộc nằm trọn trong một thung lũng hình tam giác hai bên đều là núi trọc, bởi vậy con đường giao liên, bộ đội hành quân, ô tô vận tải… vào Nam phải đi qua con đường độc đạo này.
Phải ba mươi năm sau chiến tranh, tôi mới có dịp trở lại Ngã ba Đồng Lộc. Cô gái trẻ - hướng dẫn viên Khu di tích - trong bộ quần áo thanh niên xung phong ngày nào cũng thuyết minh cho khách tham quan mà giọng vẫn rơm rớm nước mắt. Theo sử sách ghi lại những năm chiến tranh, mỗi mét vuông đất ở Ngã ba Đồng Lộc gánh ít nhất ba quả bom tấn, chưa kể các loại vũ khí khác. Vào lúc cao điểm nhất tại ngã ba này tập trung đến 16.000 bộ đội, thanh niên xung phong… Nhà bia tưởng niệm liệt sĩ thanh niên xung phong toàn quốc nơi đây ghi danh hơn 4.000 anh hùng, liệt sĩ thanh niên xung phong toàn quốc và các anh hùng, liệt sĩ hy sinh tại Ngã ba Đồng Lộc. Trong chiến tranh để thông suốt mạch máu giao thông, hàng trăm, hàng nghìn chàng trai, cô gái ở tuổi mười tám, đôi mươi trên khắp Tổ quốc đã để lại tuổi xuân tươi đẹp trên Ngã ba này.
Tôi đứng lặng trước phần mộ 10 cô gái nằm gối đầu lên đồi thông của núi Trọ Voi. Nơi các chị nằm yên nghỉ sau loạt bom thứ 15 của giặc Mỹ rải xuống trong ngày 24 tháng 7 năm 1968 ấy được gọi tên “tọa độ chết”. Ai có thể tưởng tượng được nửa thế kỷ sau trên “tọa độ chết” các chị vẫn sống vĩnh hằng trong lòng đất Mẹ…
*
Bốn năm sau sự kiện Ngã ba Đồng Lộc, đêm ấy tôi hành quân qua. Vẫn dưới bầu trời đêm không ngớt pháo sáng của địch, vẫn con đường độc đạo chằng chịt hố bom ấy, vẫn những cô gái thanh niên xung phong hiện ra hai bên đường làm tiêu chắn cho đoàn xe tránh những hố bom chưa kịp lấp. Sự khốc liệt của đạn bom không ngăn được những bàn chân, những đôi tay con gái thanh niên xung phong đêm đêm lấp hố bom. Đêm chiến tranh dường như sự ác liệt không thể nhòa đi trên gương mặt, trên những đôi mắt lấp lánh, những nụ cười tin yêu tiễn đoàn quân chúng tôi ra trận.
Đoàn xe thỉnh thoảng chồm lên, bánh xe ngúc ngoắc qua những hố bom còn đang lấp. Bạn tôi là Khảm, là Diệu, là Chuyên… những đứa thanh niên lớn lên ở miền quê nghèo chưa một lần đặt chân lên ô tô. Vì vậy xe chuyển bánh chưa được bao lâu đã say mèm, có đứa còn nôn thốc tháo xuống sàn xe. Xe lọt vào thung lũng, tôi vỗ vai kéo những đứa bạn say xe tỉnh dậy. Cái giây phút đi qua ngã ba ấy có thể có người không bao giờ được trở lại lần nữa. Thỉnh thoảng chiếc xe tải khựng lại, đèn gầm hắt ánh sáng hai bên đường, chúng tôi vẫn nhận ra những khẩu hiệu viết bằng vôi trắng trên tấm gỗ của các thùng đạn: “Địch phá một ta làm mười”; “Tất cả cho tiền tuyến. Tất cả vì miền Nam ruột thịt”. Trong số những cô gái thanh niên xung phong đứng chắn hố bom bỗng có ai đó ngước lên thùng xe cất giọng hò tinh nghịch: “Hò ơ… anh đi chân cứng đá mềm. Bao giờ trở lại, em đền… cho anh”. Có cô không biết hò thì cứ khuơ cán xẻng lên trời mà: “Chân cứng… đá mềm nhé!”, rồi cười ngặt nghẽo.
Ngã ba Đồng Lộc xa dần sau vòng lá ngụy trang của chúng tôi. Không ai còn say xe nữa, cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với các cô gái thanh niên xung phong trên cung đường ác liệt đêm hành quân ra trận ấy còn đọng mãi trên gương mặt những chàng lính trẻ. Tôi chắc rằng, trong số chúng tôi có những chàng thanh niên xúng xính trong bộ quân phục đêm ấy cho đến khi nằm lại ở chiến trường giữa tuổi đôi mươi vẫn mang theo nụ cười rạng rỡ của các cô gái thanh niên xung phong ở Ngã ba Đồng Lộc.