• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Thời không thể quên
  3. Trang 40

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 39
  • 40
  • 41
  • 42
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 39
  • 40
  • 41
  • 42
  • Sau

Huế ơi, tôi lại đi tìm

Tôi chép lại câu chuyện này, câu chuyện năm 1992. Nghĩa là sau mười bảy năm từ ngày Huế được giải phóng tôi mới có dịp trở lại. Mẹ Triết không còn nhận ra tôi. Mười bảy năm rồi còn gì, mẹ ngước nhìn tôi yếu ớt như cái bóng cuối chiều: “Thắng thật đó hở mày, tao cứ ngỡ mày ra sao rồi chứ? Con Ánh nó cứ nhắc sao mãi không thấy mày về. Tao nói với nó, con chưa sống bằng mẹ, con chưa gặp. Cuộc đời này thiếu gì người bạc nghĩa bạc tình. Nó thề với tao rằng mày không phải là loại người như thế…”.

Tôi ôm lấy đôi vai gầy run rẩy của mẹ Triết mà không thể nào thốt thành lời. Sau ngày Ba mươi tháng Tư năm 1975 ấy, tôi lại đi theo các cuộc chiến tranh biên giới, bằng ấy năm bây giờ mới trở lại…

*

… Đêm ấy là một đêm cuối năm.

Mãi đến giây phút cuối cùng trước khi rời khỏi hậu cứ chúng tôi mới biết rõ người dẫn đường cho trung đội mình đi gùi gạo là ai. Một cô gái Huế mảnh mai như nét vẽ trên bức tranh dân gian. Nghe nói cô bị mật vụ tình nghi trong phong trào sinh viên xuống đường nên đành phải “lên xanh”. Ở rừng giữa cái đám con trai nói toàn giọng Bắc, bất chợt gặp một giọng con gái xứ Huế chẳng khác nào cơn khát trên sa mạc bắt gặp một ngọn suối.

Ánh là tên thật của cô, vậy mà đám lính chúng tôi cứ “Huế ơi” mà gọi.

Khoảng gần nửa đêm, mười người của trung đội tôi tập kết bên bờ sông Hai Nhánh. Mọi người cởi áo quần, tư trang bỏ vào phao bơi (một loại túi gạo bằng nilon mà ngày ấy bất cứ người lính Trường Sơn nào cũng có), quàng khẩu AK báng gập sau lưng và nhoài người xuống nước. Đêm yên tĩnh, chỉ nhận ra tiếng chân đạp nước lúc hối hả, lúc ngập ngừng. Bỗng một quả cối lạc bầy của địch nổ ở mép sông tưởng lật úp mặt nước xuống. Đất đá rơi như hàng ngàn viên đạn xăm xuống mặt sông. Chiếc phao bơi của tôi rách toác, khẩu AK trên lưng lúc này giống như bàn tay sắt níu tôi xuống đáy sông. Giữa lúc tôi đang ngáp trong nước chợt nghe một giọng Huế thì thào: “Cởi súng ra đưa em, anh bám chặt vào phao bơi”. Ánh quàng khẩu súng của tôi vào người, một tay nắm lấy mép phao bơi, cứ thế cô vừa bơi vừa kéo tôi sang bờ.

Đêm ấy chúng tôi đưa được mười gùi gạo của bà con vùng giáp ranh gửi lên về đến căn cứ thì trời cũng rạng sáng. Cả đám chúng tôi gối đầu lên gùi gạo thiếp đi sáng bảnh mắt dậy mới biết Ánh đã về huyện đội rồi…

*

Mẹ Triết nói: “Mày ra Bắc được chừng hai tháng thì nó mới về. Vết thương chưa lành hẳn, bước đi còn khập khiễng. Nó không đi học nữa, nó bảo rằng mẹ đã già rồi con không thể cứ làm khổ mẹ mãi. Những ngày đầu giải phóng thì nó tham gia Ban quân quản, sau đó nó được làm gì trên huyện ấy. Một thời gian tao thấy nó về, tao đoán hình như nó không hợp được với mấy ông cán bộ bằng tuổi cha chú nó. Thế rồi nó xin đi làm công nhân nhà máy vôi, ở đó nó gặp thằng chồng bây giờ. Thằng ấy bị bắt đi lính mấy tháng vừa trốn về thì giải phóng, hắn cần cù, chịu thương chịu khó mà lại hiền như cục đất. Ban đầu nó không ưng nhưng tao nói giải phóng rồi, bầu bí chung một giàn, hận thù nhau mà làm chi. Con gái có lứa có thì, đừng đứng núi này trông núi nọ… Ngày nó về nhà chồng, nó thắp nhang lên bàn thờ bố nó, nó khấn vái, tao nghe như nó nhắc cả tên mày…”.

Ngừng một lúc thật lâu, mẹ Triết lại nói: “Cái số nó không gặp được mày. Mới tháng trước vợ chồng con cái nó dắt nhau vào Sài Gòn rồi. Không biết vợ chồng nó tính sao chứ tao thấy kiếm được miếng ăn bằng mồ hôi nước mắt của mình thì ở đâu cũng vất vả thế…”.

*

Tôi chỉ nhớ rõ lần cuối cùng gặp Ánh là trận chiến đấu tiến công điểm cao Mỏ Tàu vào tháng 12 năm 1974. Không hiểu sao người dẫn đường đại đội tôi tiếp cận vào chân điểm cao lại vẫn là Ánh. Quá nửa đêm đại đội tôi mới chạm vào mép hàng rào thứ nhất. Sau khi kiểm tra đội hình và đặt xong giá mìn định hướng tôi ghé sát tai Ánh:

- Em đã hoàn thành nhiệm vụ, quay lại đi!

Ánh nhìn tôi với đôi mắt cầu xin ở lại. Tôi nghiêm nét mặt. Ánh hiểu rõ ở nơi trận mạc người ta không thích nhiều lời. Cô đặt vào tay tôi một mảnh giấy dài bằng ngón tay trỏ. Sau này tôi mới nhận ra đó là mảnh giấy ghi họ tên và địa chỉ cần thiết của mỗi chiến sĩ thường may vào gấu áo trước khi vào trận.

Cho mãi tới khi tiểu đoàn tôi hoàn toàn làm chủ điểm cao Mỏ Tàu tôi mới biết tin Ánh không quay lại mà được các chiến sĩ giấu vào đội hình chiến đấu của mình. Và, cô bị thương, đã được chuyển về trạm xá trung đoàn. Cứ thế chúng tôi đánh hết trận này đến trận khác trong hào khí của mùa Xuân 1975. Khi đặt chân lên thành Huế rồi mà tôi vẫn còn tưởng như mơ trên rừng…

*

Huế chiều heo may, sương bàng bạc. Mặt sông Hương phẳng như ai tráng gương. Thấp thoáng mười bảy năm cố đô bao đổi thay mà trong tôi vẫn vẹn nguyên thế. Thỉnh thoảng một tốp khách phương Tây đi vãn cảnh lăng tẩm về, mặt mày hớn hở. Dòng người trên phố lướt qua tôi vội vã và trầm tư. Có còn ai như tôi thơ thẩn nhớ về một thời?

Bất giác tiếng chuông chùa sóng sánh mặt gương. Loang loáng trắng đàn nữ sinh ùa ra từ các cổng trường, nụ cười hồn nhiên vô tư hát. Tôi tựa vào thành cầu trông vời lên thượng nguồn xa xanh núi. Gần thế mà xa, tôi giật mình ngoảnh lại như sợ dòng người trên phố kia nhận ra câu tôi vừa thảng thốt: “Huế ơi… tôi lại đi tìm!”.