Đại thần Nguyễn Quang Bích về đến đất Lai Châu, tiết trời đã cuối thu. Núi rừng Tây Bắc lần đầu tiên ngài đặt chân đến, đẹp như bức tranh thủy mặc. Cây cổ thụ bạt ngàn, chim trời ríu ran, sương mây từng chỏm lảng bảng. Những triền núi gối nhau, lại gối nhau, đan chéo. Ngài dừng ngựa hỏi thổ dân đưa đường:
- Đây là núi gì?
- Thưa ngài. Dân chúng con gọi là núi Hoàng Liên Sơn hay còn gọi là núi Rừng Già ạ.
- Núi Hoàng Liên, núi Rừng Già bắt nguồn từ đâu?
- Dạ, từ mạn Thanh Sơn, Yên Lập gì đấy, rồi lên đến Mường Lò, Nghĩa Lộ, chạy theo đất Mù Cang, Than Uyên, lại sang Sơn La, Lai Châu, về Sa Pa. Thưa quan lớn.
Người dân đưa đường hào hứng nói vanh vách đường núi, đường đất, lại tỏ ra có thiện cảm với vị quan xa lạ vừa mới gặp mặt nơi giáp ranh biên giới Vân Nam và Lai Châu.
- Anh bạn là người dân tộc gì, làm gì?
- Dạ, con là người Thái trắng, tên chữ là Táy Khao. Con chỉ làm trưởng bản, gọi là Tạo bản.
Đội Hà, vệ sĩ tháp tùng Quan đại thần tâu thêm:
- Thưa ngài, anh ấy là Đèo Văn Toa, đi làm nương. Hạ vệ gặp được, nhờ đưa đường, Toa vui vẻ nhận lời đấy ạ.
- Ờ. Anh Toa, có làm phiền anh không? Ta đi sứ về, nhờ cậy trưởng bản cho ta gặp được Tri châu.
- Ồ ồ. Quan lớn đừng lo. Tri châu Cầm Văn Thanh vẫn hay về bản con mà. Được ngay thôi, được ngay thôi!
Đêm ấy Tri châu Cầm Văn Thanh giữ chân Quan sứ ở lại châu lỵ. Một bữa tiệc thú rừng, rồi các gái xòe mời rượu. Nhà sàn rập rình, réo rắt tiếng khèn bè, tiếng pí pặp. Quan đại thần đã từng nghe vùng đất Tây Bắc với những các cứ “Vua Mèo”, “Vua Thái”, “Chúa Thổ”, “Chúa Mường”. Mỗi phần đất mỗi dân tộc có một vị thủ lĩnh riêng. Không dễ ai nghe ai, không dễ ai chịu khuất phục ai. Người Pháp đến được đất này, họ sẽ tìm cách chia rẽ các dân tộc, họ sẽ mua chuộc các thủ lĩnh người dân tộc như họ từng làm ở Hưng Hóa để rồi ta phải chịu mất thành phủ...
- Thưa quan lớn. Chén rượu mật gấu này là lòng thành của dân bản mừng cho quan lớn đường xa trở về, và là để nhớ ngày chúng con ở miền rừng núi được gặp gỡ đại quan sứ thần.
Nói rồi Cầm Văn Thanh vẫy hai nàng gái Thái lại dâng. Nguyễn Quang Hoan đứng bên khoát tay:
- Tri châu. Nếu ngài trọng thị, đại quan cho phép ngài uống trước cùng chung chén rượu này. Thế mới là lòng thành!
Cầm Văn Thanh hiểu ý nhưng vẫn dùng dắng:
- Thưa đại quan. Thổ dân chúng con kính trọng khách xa nên mới dâng rượu theo lệ tục. Nếu đại quan cho phép, thì con và hạ quan đây xin cùng cạn chén rượu này.
Nói dứt Cầm Văn Thanh ngửa cổ uống hết nửa chén, đoạn quay sang Võ tướng Nguyễn Quang Hoan, hộ vệ đi sứ.
- Hạ quan, ta là anh em, sống chết có nhau!
Nguyễn Quang Hoan cũng ngửa mặt uống hết số rượu còn lại, rồi nắm chặt tay Tri châu, cùng cúi mình trước Thủ lĩnh. Thấy đã đủ độ tin cậy. Võ tướng quay lại nói với Cầm Văn Hoan:
- Ngài Tri châu chưa biết đấy thôi. Đại quan đây không phải là sứ giả Hưng Hóa, mà ngài là sứ thần Triều đình Huế, là Đại thần Thượng thư Bộ lễ, kiêm Hiệp thống Quân vụ, Tổng Chỉ huy Bắc Kỳ.
Mới nghe nói như vậy Tri châu Cầm Văn Thanh đã run hết người, vội quỳ xuống cúi đầu lạy “Quan đại thần Triều đình”. Nguyễn Quang Bích đưa tay ra đỡ dậy nhẹ nhàng nói:
- Ta là Quan đại thần, nhưng mệnh Chiếu Cần Vương mà mưu việc bài Tây phục quốc. Các ngài cũng vậy thôi, hãy cùng ta làm nghĩa lớn. Nay ta cần dựa vào dân bản, dựa vào núi rừng để kháng chiến, ngài Tri châu Cầm Văn Thanh, cả Trưởng bản Đèo Văn Toa nữa, vận động các thủ lĩnh vùng miền giúp vua Hàm Nghi anh minh phục quốc, để tiếng đời sau.
Tri châu sụp xuống chân Quan đại thần lạy tạ. Đoạn sai người nhà đưa ra năm mươi lạng bạc trắng, mà nói:
- Xin dâng Quan đại thần chút của mọn gọi là lòng thành, nhớ ngày con về bên Thủ lĩnh.
Nguyễn Quang Bích nhẹ nhàng:
- Ta cảm ơn. Một đồng bạc lúc này cũng quý. Tri châu biếu, thì ta cũng góp vào nguồn tài kháng chiến.
Cầm Văn Thanh lại cho chọn con ngựa màu hung nâu to khỏe nhất, giống ngựa lai thồ của người Mèo đã được thuần hóa, đi lại dễ dàng trong mọi địa hình phức tạp. Tri châu Cầm Văn Thanh tự tay thắng hàm thiếc rồi mời Quan đại thần lên yên. Hai vệ binh người Thái, vừa dẫn đường, vừa dắt ngựa, đưa Quan đại thần từ Lai Châu, qua châu Mù Cang, xuống đất Mường Lò1.
Đêm qua, Quan đại thần gần như không ngủ. Phong cảnh Mường Lò hút mắt ngài - vị tướng công có tâm hồn thi sĩ. Ngư Phong Hiệp thống chợt hình dung lại mấy ngày qua mà lòng xốn xang. Ngài cảm tác: Đầu non nhà ở rộng thênh thang/ Dân chúng quây quần cảnh vật an/ Ngoài ngõ hai khe quanh quất chảy/ Trước nhà cụm núi thấp cao dàn/ Tục xưa còn giữ không văn sức/ Đời sống tươi vui thật dễ dàng/ Nghe có quan Triều, vui đón tiếp/ quan Triều đến đấy, lệ tuôn tràn. Ngư Phong Nguyễn Quang Bích mỉm cười tự tại với bài Hán tự tức cảnh, quay lại nói với Võ tướng Nguyễn Quang Hoan:
- Biết đâu nơi này sẽ lại là Hành dinh của ta!
Võ tướng có thời là hộ vệ ngoại giao của Bố chánh Nguyễn Văn Giáp từ ngày ngài làm Tuần phủ Sơn Tây, quen với suy nghĩ hai chiều, nên nhẹ nhàng đáp lại:
- Đất này, anh em ông Tù trưởng Cầm Ngọc Hánh đã giao chiến với quân Cờ Vàng, khó giữ nổi thành. Nay người Tây đến, giao tranh với họ, tất phải dựa vào rừng núi, làng bản, mới mưu đạt việc lớn.
Nguyễn Quang Bích gật đầu:
- Võ binh nói thế, cũng là phải.
Rồi ngài giật cương, hai ngựa chiến thong dong đưa Chủ tướng và đoàn tùy phái vượt dòng suối Thia, đi về phía Thu Cúc.
Trước mặt Quan đại thần lúc này là Bộ tướng Tiên Động, mấy tháng đi xa, Hành dinh không gì thay đổi, chỉ khuôn mặt các tướng lĩnh có vẻ như thiếu đi sự bình thản. Tham tán Hiệp đốc Bắc Kỳ Quân vụ Nguyễn Văn Giáp người được Thủ lĩnh ủy quyền bước lên.
- Thưa Đại thần Hiệp thống. Ngài trở về khỏe mạnh, Bộ tướng an lòng. Nay xin ngài nhận lại sắc quyền.
Hiệp thống đưa tay, gật đầu. Bố chánh lùi bước cúi mình. Văn võ bá quan yên lặng chờ nghe những lời trút lá từ Thủ lĩnh. Quan đại thần nhìn binh tướng khắp lượt rồi nhẹ nhàng:
- Ta cùng Tán tương Quân vụ Khê ông Nguyễn Hội và Thiết Nhai Chu Lăng Thục chấp lệnh Đức vua, hợp nhóm Đại thần Phụ chính Tôn Thất Thuyết đi Côn Minh thuyết chính. Đường xa muôn dặm, trăm điều cản trở. Nay trở về chỉ có mình ta. Thương thay cho Khê ông và Thiết Nhai bạn hữu. Lại cảm thông với Phụ chính Đại thần bị giam chân nơi xứ người.
Ngừng giây lát, Thủ lĩnh nói như chia sẻ trọng trách cùng tướng lĩnh đệ tử.
- Ta thắng trận ngòi Dành, tất làm cho người Pháp cay cú mà lập mưu mô. Tướng quân ta không tính hết được mưu mô ấy để cho tướng Pháp Gia-mông từ hai phía đánh vào Thanh Mai chiếm đóng Gò Mai, cắt mặt Hưng Hóa, Hạ Hòa, khống chế Tiên Động với đường thủy, đường bộ, với cả thủ phủ Bắc Kỳ. Lại còn sai tuần phủ Lê Hoan viết thư dụ ta quy thuận, há chẳng phải quá lắm sao? Người Pháp đang buộc ta phải lấy núi rừng Tây Bắc làm bản doanh? Âu cũng là trời định vậy!
Bộ tướng lòng dạ xốn xang. Bố chánh, Đề Kiều bước lên khoanh tay cúi mình trước Đại thần. Nguyễn Quang Bích đưa bàn tay đỡ hai vị phó tướng rồi nói.
- Nay ta định liệu việc bình Tây ngoài Tiên Động, nên cử Võ tướng Nguyễn Quang Hoan làm Tả tướng, và văn quan cử nhân Trần Ngọc Dư làm Thủ túc. Bố chánh, Đề Kiều sẽ cùng ta sớm tính đường trường.
Bộ tướng lui khỏi hành dinh. Mặt trời vào giờ Thìn, nắng tỏa vàng rừng Tiên Động.
Thủ túc Trần Ngọc Dư đi đi lại lại dưới chân cột cờ nơi lá cờ Tụ Nghĩa vẫn bay phần phật. Phía xa xa trước mặt chếch về tay phải là đồi Hàm Rồng, bên ngoài là gò Thanh Mai. Xa nữa là bờ sông Thao. Dọc theo bờ sông Thao xuống Tứ Mỹ có đồn Cửa Sông và đồn Cửa Bộ của nghĩa binh. Ngược lên trên là đồn Hạ Hòa. Quân Pháp chiếm được Gò Mai chúng lập ngay đồn Tây và lấy mỏm Hàm Rồng dựng đài quan sát. Hỏa lực đồn Gò Mai mạnh tương đương đồn Cửa Phủ. Từ Gò Mai có thể bắn pháo dữ dội lên các đồi thuộc hành dinh Tiên Động.
Thủ túc Trần Ngọc Dư sai hầu vệ thắp ba nén nhang, ngài đọc chú xin đài. Cả ba lần, hai đồng “trinh căng” vẫn cứ ngửa mặt. Rời điểm xin đài sang tay phải mấy chục mét nơi phong thủy đắc địa nhất của ngọn đồi, “trinh căng” vẫn không chịu nhận âm dương. Thủ túc rời đồi “Cột cờ” về tư dinh.
Ngày thứ ba, Thủ túc văn quan lên hành dinh gặp Thủ lĩnh. Hai người đồng hương Thái Bình từng làm quan huyện, quan phủ, rồi đều treo ấn từ quan tìm về nơi Tiên Động dựng cờ tụ nghĩa mà vẫn giữ được trong mình tâm hồn văn sĩ trong con người nghĩa sĩ.
- Ngài Quan Đại. Tiên Động không còn thuận cho ta nữa rồi. “Đài” không được, Thổ công không cho; là trời đã báo phải sớm định liệu - Thủ túc nói.
Thủ lĩnh vuốt nhẹ chòm râu đen:
- Hơn hai năm trước, Khê ông dâng lễ, thần linh mách bảo, Tiên Động là nơi nắng sớm tụ về. Chẳng nhẽ, trời cho ta ngắn vậy thôi sao?
- Đất thiêng ở thế, nay thế không còn, ta định liệu cũng là hợp lòng trời.
Thủ lĩnh nghe Thủ túc nói, tỏ ý thuận tai, liền mời bộ tướng đến bàn.
Bố chánh Nguyễn Văn Giáp:
- Thưa Đại thần Hiệp thống. Sau Chiếu Vương, căn cứ Tiên Động ta vẫn đứng vững ngọn cờ Tụ Nghĩa, bởi thế mà ở Thanh Hóa Tiến sĩ Tống Duy Tân đã khởi sự. Ở Nghệ Tĩnh Nguyễn Xuân Ôn cũng đã động binh. Tán tương Nguyễn Thiện Thuật đã lập được Sơn phòng Bãi Sậy, sẽ có ngày tuyên chiến với người Pháp vùng Hải Dương, Hưng Yên. Còn Phú Thọ, người Pháp lập đồn gò Thanh Mai, bất lợi cho Tiên Động, xin Đại thần xem xét cho rời bản doanh sâu vào rừng già Yên Lập, để xây dựng đạo binh lớn mạnh.
Phó tướng công Đề đốc Đề Kiều đứng lên:
- Thưa Thủ lĩnh. Ngày ngài lên đường công cán việc quốc gia, nhận thấy kháng chiến có thể lâu dài. Bộ tướng đã chủ động dò sát đường trường miền Tây, âu cũng là để có thêm rừng núi, có thêm dân bản làm chỗ dựa cho nghĩa binh.
- Ý tướng quân Nguyễn Quang Hoan thế nào? - Thủ lĩnh bất ngờ hỏi. Võ tướng Nguyễn Quang Hoan bộc bạch:
- Thưa Quan đại thần Thủ lĩnh. Tiểu tướng nghĩ nhiều. Hai mặt Tiên Động quân Pháp đã kiểm soát. Nếu chỉ lấy Rừng Già mà cầm cự thì cũng khó lâu dài. Dân binh, dân phòng không có sẽ bất lợi cho ta. Bố chánh và Đề đốc đã tính toán kỹ lưỡng, xin Quan đại thần chuẩn chỉ.
Quan đại thần đưa tay nâng chòm râu ráp mặt cằm, tư lự. Ngài như nhìn về xa xăm, lại như đảo đi đảo lại vạn vật nơi Tiên Động trong bộ óc Đại thần nặng trọng trách Bắc Kỳ trước triều đình chủ chiến. Nguyễn Quang Bích khẽ gật đầu:
- Ta nay vâng mệnh triều thần mà hành động. Ý tưởng đưa Đức vua ra Sơn phòng Tiên Động, đã bàn trước với Đại thần Tôn Phụ chính ngày trên đường đi sứ. Nay vì lẽ, Phụ chính bị chặn đường về, Tham tán Quân vụ Nguyễn Cao lại sa vào tay giặc, ai người lo toan? Ta tạm lui về miền ngược để tạo thế chân kiềng cũng là phải. Việc lớn này giao cho Đề đốc và Phó đề đốc lo liệu ở hướng cánh tây. Giao cho Bố chánh và Hoàng Đình Cương lo ở hướng cánh bắc. Hạn đến tháng 11 năm Bính Tuất (1886) lập bản doanh ở Mường Lò, Nghĩa Lộ.
Trầm ngâm giây lát. Thủ lĩnh nói tiếp. Giọng ngài ấm và chắc:
- Chiến khu Rừng Già, nay không chỉ Yên Lập, Thanh Sơn, mà bao gồm cả dải Hoàng Liên Sơn.
Nhớ rằng, đến đâu, dựa vào rừng núi, thổ hào, tù trưởng và dân bản, các tướng quân tự chiêu hiền tướng sĩ mà lập cứ đánh giặc.
Đề phòng có kẻ do thám biết được kế hoạch. Bố chánh và Đề đốc giao cho Vương Văn Doãn lo ngay việc rời tư dinh Hiệp thống Đại thần về Hố Gia rồi sang Yên Lập; Võ tướng Nguyễn Quang Hoan và thủ túc Trần Ngọc Dư luôn ở bên ngài. Đạo binh Đề Kiều cũng lặng lẽ rút khỏi Tiên Động. Bố chánh Nguyễn Văn Giáp chờ cho Thủ lĩnh về đến Khả Cửu, Thanh Sơn, mới cho các tướng xuống làng xã động viên dân phòng, dân binh kháng chiến lâu dài và thuyết rằng Thủ lĩnh quan đại tuy ở nơi rừng núi nhưng vẫn điều khiển dân binh, dân phòng đánh lại giặc Pháp giữ làng.
Phó tướng công Bố chánh lại giao cho Tán tương Lê Đình Dật khảo sát, xây dựng căn cứ Đầm Đen - Lạng Sơn, mặt tiền nhìn ra sông Thao, sau lưng là Ao Châu, ngược lên là Hạ Hòa. Từ Lâm Lợi, Hạ Hòa đi qua miếu Tổ mẫu Âu Cơ, có thể ngược ngòi Lao đi về phía tây hợp quân với Đề đốc. Nếu vượt sông Thao là sang Gia Điền, Tây Cốc (Bằng Doãn) lên Đoan Hùng, Tuyên Quang có thể mở rộng, căn cứ kháng chiến Cần Vương đến mạn sông Lô, sông Chảy thuộc phía Bắc án ngữ quân Pháp, giữ thông cửa khẩu với Vân Nam, điều mà Đại thần đã có ý định sau ngày đi sứ. Mặt trận quan trọng này Nguyễn Văn Giáp giao cho Tướng quân Tổng khảm Trịnh Bá Đanh chỉ huy; các tướng: Tán tương Lê Đình Dật, Tán tương Áo Lộc Hà Công Cấn, làm phó chỉ huy căn cứ. Đầm Đen trở thành phòng tuyến chặn đường phía Bắc, bảo vệ cửa hậu Tiên Động hữu hiệu. Riêng mình, Bố chánh lựa chọn binh thuật lưu động chỉ huy, dài rộng, theo trục sông Hồng, tạo nên cánh cung miền Tây.
Dừng chân ở Hố Gia một ngày đêm để ổn định cuộc di chuyển, các trợ thủ, thủ túc được lãnh binh Hoàng Văn Liêng dẫn đường, đưa Thủ lĩnh đi lách qua núi Lưỡi Hái. Bên kia khe núi là đất Yên Lập.
Lãnh Liêng - con trai Đề Kiều, rất thông thạo vùng đất Yên Lập, Thanh Sơn, Thu Cúc, lên Ba Khe, vào Mường Lò. Hai tháng trước được Bố chánh giao việc phụ giúp Đề đốc Hoàng Đình Cương đi khảo sát bản doanh dự phòng. Bây giờ lại là người đưa Quan đại thần về với miền sơn cước Tây Bắc này.
- Quan Đại dừng chân ở tổng Đông Lỗ chúng con, là lấy làm may mắn cho người Mường lắm lắm. - Chánh quản cơ Hoàng Văn Hội hoan hỉ.
Hiệp thống trìu mến nhìn những người dân địa phương rồi ngoảnh sang Trần Ngọc Dư và Nguyễn Quang Hoan:
- Hai thủ túc nghĩ sao?
Cử nhân văn khoát cánh tay:
- Người bản địa nói thật lòng, Thủ lĩnh chấp nhận cho dân làng được vui!
Nguyễn Quang Bích khẽ gật đầu rồi vỗ vai Hoàng Văn Hội:
- Ngày làm Tuần phủ, ta đã đến Đông Lỗ, ngài là người có công, ta cấp bằng Cửu phẩm và thăng chức Chánh Quản cơ. Nay người Đông Lỗ đã dựng cờ Đại, hướng về Chiếu Cần Vương, thế là đã cùng ta “Bình Tây Phục Quốc”.
Chánh Quản cơ Hoàng Văn Hội và các tráng đinh chức sắc Hoàng Kim Tài, Hoàng Bá Trai, Hoàng Nghị Quyền, Đinh Văn Cảnh vội quỳ gối khoanh tay nhận lộc ngôn từ Quan đại thần - Quan đại thần Triều đình chủ chiến.
Thiếu tướng Bri-ê-len từ Hà Nội lên công bố quyết định của Tham mưu trưởng Quân sự Bắc Bộ về việc cử thiếu tướng Boóc-bi-ông thay đại tá Giêm-mô-lanh làm Tổng chỉ huy đạo quân Pháp ở Tây Bắc - Sa Nô.
Cuộc họp của Sa Nô tại thành phủ Hưng Hóa có đủ mặt các sĩ quan Sa Nô và thành phủ: Xác-lăng, chánh thành phủ Hưng Hóa; Xanh-tơ-ni phó chánh thành phủ; đại tá Giêm-mô-lanh, tham mưu trưởng Sa Nô; đại tá Bô-rít tham mưu phó Sa Nô; thiếu tá Bô-xê trợ lý quân bộ; thiếu tá Đơ-biêng-đơ chỉ huy pháo binh; đại úy Béc-beng-ghe tham mưu thành phủ. Duy nhất có một người Việt được quyền tham dự cuộc họp quan trọng của Sa Nô, đấy là Trương Đen, nay đã là đại úy mật thám.
Dù là họp tại thành phủ Hưng Hóa, nhưng vẫn có hai vòng lính gác nghiêm ngặt. Đến cả lễ tân tiếp nước cho buổi họp cũng là một cô gái người Pháp lai Việt, cô Vine Loan, y tá điều dưỡng.
Boóc-bi-ông với tay nhấc chiếc mũ nhà binh trên đầu, đặt xuống bàn để lộ khuôn trán dô, đôi mắt rậm và sâu, bộ râu quai nón chạy từ hai mai tóc ôm lấy cái cằm nhọn. Dù có cố tạo dáng dịu dàng trên nét mặt, nhưng ông ta vẫn không giấu được thần sắc tinh khôn của một thực dân già đời.
- Bộ chỉ huy Bắc Kỳ giao cho tôi và các ngài, trong hai năm phải thống lĩnh được toàn bộ vùng Tây Bắc xa xôi này. Boóc-bi-ông nói, giọng viên tướng Pháp sít lại: Có nghĩa là, quét hết quân binh Tiên Động về lại thổ dân, lập được bộ máy Nhà nước bảo hộ. Ta sẽ cùng nhau trở về Pari hoa lệ trong vòng tay và tiếng nhạc sâm banh!
Tướng Boóc-bi-ông khoát hai bàn tay trước ngực, cười tủm tỉm.
Chánh thành phủ Xác-lăng, từ ngày được thăng đại tá, bây giờ mới có dịp tỏ rõ mình là người có công trấn ải.
- Thưa các ngài. Tôi nghĩ, chúng tôi đã chiến đấu rất ngoan cường mới có được ngày hôm nay. Nghĩa là đã cắm cờ Pháp trên núi Hàm Rồng, lập được đồn Thanh Mai, án ngữ miền Tây cả thủy lẫn bộ. Quân Tiên Động hoặc là phải chui vào rừng chờ chết, hoặc là sẽ bị tiêu diệt ngay trước cửa đồn Gò Mai của Sa Nô - Thành phủ.
Xác-lăng nói hừng hực, nói quả quyết. Đám sĩ quan được dịp ồn ã cười.
Xanh-tơ-ni nghĩ: “Công của ta, mà nó định trắng trợn nẫng trên tay mình? Chúa ơi. Thằng Xác-lăng!”. Máu từ đâu cứ như dồn lên, dồn lên đỉnh đầu. Xanh-tơ-ni “bật” lại:
- Phải. Ngài Xác-lăng. Ngài có biết những trận đánh giáp mặt với quân Tiên Động, thành phủ có bao nhiêu lê dương, khố xanh, khố đỏ bỏ mạng không? Đồn Chợ Bờ, trại binh Cửa Phủ, cả đồn Cửa Bộ của quân Tiên Động, ta bị bọn thổ dân nghi binh dẫn đến thua chạy như chuột, sao ngài không kể ra?
- Thôi, thôi! - Tướng Boóc-bi-ông xua tay. Sa Nô ghi nhận chiến tích của đại tá chánh thành phủ, và tham mưu Sa Nô bây giờ là phó thành. Cầu Chúa phù hộ cho tất cả chúng ta!
Trương Đen nghe mà ngứa ngáy: “Nếu không có “Chuột rừng” do thám thì chúng mày lấy đâu ra chiến tích, dễ chả nộp mạng cho súng thần công rồi à!”. Nhưng là phận đánh thuê, không phải lúc giở lý với quân mắt xanh mũi lõ này, Trương Đen đại úy mật thám nuốt nước bọt, ngồi im.
- Bô-rít. Bây giờ mời ngài trình bày trước các sĩ quan về kế hoạch mới - Boóc-bi-ông vung tay. Đôi mắt rậm sâu, khuôn trán dô hướng cả về các tướng tá Sa Nô.
Đại tá quan năm Bô-rít đứng nhanh, dáng y cao dỏng, liếc mắt tò mò, khẽ gật đầu như chào, lại như cố ý tạo sự bình thản, chững chạc. Viên sĩ quan có nghề tham mưu từ lính lê dương, leo lên làm sĩ quan cao cấp bởi các mề đay tàn phá quân Triều đình Huế suốt từ vùng đất Đà Nẵng, lên Đà Lạt, ra Bắc Ninh, Hưng Hóa. Thằng Tây này không phải là tay vừa. Trương Đen thoáng nghĩ mà không dám coi thường.
- Thưa ngài thiếu tướng, thưa các ngài - Bô-rít hắng giọng - Việc khuất phục quân phiến loạn ở đồng bằng, ở thành thị, thật dễ dàng. Kinh nghiệm của tôi cho thấy, phiến loạn là thổ dân mà thủ lĩnh của họ lại là chiến binh triều đình, khó khăn hơn nhiều.
- Bô-rít, ngài nói thẳng vào kế hoạch trước mắt và lâu dài - Boóc-bi-ông nhắc.
- Vâng, vâng! Thưa các ngài. Đường đất miền núi xa xôi, hiểm trở, lại lắm “giặc cỏ” thổ dân. Trước mắt, Sa Nô cần tăng cường cho đồn Thanh Mai, nhưng tính ngay việc lập đồn binh lực mạnh ở Phú Thọ và ở Yên Bái để chi viện cho hai bên tả hữu thượng nguồn sông Thao.
- Được! Rồi sao nữa? - Tướng Boóc-bi-ông chen ngang câu hỏi.
Bô-rít:
- Ta giao việc cho ngài đại úy Đen, nắm thật chắc hướng đi của quân phiến loạn Tiên Động, để rồi truy lùng chúng đến tận gốc rễ!
- Hay, hay lắm. Tôi đồng tình với ngài tham mưu phó. Ý đại tá tham mưu trưởng Sa Nô, ngài Giêm-mô-lanh, thế nào nhỉ? - Tướng Boóc-bi-ông bất ngờ hỏi.
- Thưa thiếu tướng. Kế hoạch mà ngài Bô-rít vừa nêu sơ qua, chỉ huy tham mưu đã bàn luận kỹ, xin trình ngài tư lệnh Sa Nô.
- Thế, ta nên gọi quân phiến loạn này là gì, là gì được ngài Giêm-mô-lanh?
Giêm-mô-lanh:
- Quân phiến loạn triều đình, thưa ngài!
- Còn ngài Xác-lăng?
- Thưa ngài Boóc-bi-ông. Đấy chỉ là “giặc cỏ” Hưng Hóa mà thôi.
Boóc-bi-ông cười to, rút tẩu thuốc cô táp khỏi miệng, vừa giảng giải, vừa khích lệ.
- Hai ngài nói đều có lý cả. Nhưng... nhưng gọi là phiến loạn triều đình, thì đấy phải là bọn Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường. Còn đây, đây đúng chỉ là quân “giặc cỏ” - Boóc-bi-ông lắc đầu - Giặc cỏ này không chỉ ở Hưng Hóa đâu, mà cả vùng tây bắc An Nam của các ngài - Boóc-bi-ông, tổng chỉ huy Sa Nô gõ gõ lưng ngón tay xuống mặt bàn, dằn giọng nói.
Đám sĩ quan im lặng. Cuộc họp giải tán. Mỗi người đã có một trọng trách, nhưng nặng nề hơn cả là chỉ huy phòng tham mưu Sa Nô. Trương Đen cảm thấy mình lép vế bởi không tạo được cơ hội phát biểu. “Được rồi, chỉ huy phòng tham mưu sẽ phải nghe ta!”. Đại úy Đen tợp nốt ngụm rượu còn đọng đáy ly rồi đứng dậy đi ra cửa.
- Anh, anh Đen!
Đại úy mật thám ngoảnh lại, người đẹp Vine Loan tình tứ cười. Trương Đen bất đắc dĩ tủm tỉm đáp lại, rồi bước xuống bậc thềm.
Tướng Boóc-bi-ông không chậm trễ, và tham mưu trưởng quân Pháp ở Bắc Kỳ cũng chấp nhận ngay đề nghị của tổng chỉ huy Sa Nô Tây Bắc. Chỉ nửa tháng sau, đồn phủ Phú Thọ được công báo bằng một lá cờ Pháp ngạo nghễ bay bên bờ sông Thao. Đồn phủ có nhiệm vụ chặn đứng quân Triều đình Huế đến từ các ngả sông Hồng, sông Chảy, sông Lô, kể cả quân tình nguyện Cờ Đen bên Vân Nam. Trung tá Xanh-tơ-ni được tướng Boóc-bi-ông giao kiêm chức đồn trưởng, và thiếu tá mới phong Béc-beng-ghe làm phó cho Xanh-tơ-ni.
Mạn Yên Bái, thượng nguồn sông Thao, Boóc-bi-ông cho lập trạm binh lính cơ, loại khố đỏ, khố xanh, đặt tại làng Tuần Quán, nhằm lưu động kiểm soát trục đường mòn vào Nghĩa Lộ, và hộ tống đường thủy sông Hồng. Trạm do thiếu tá Bô-xê phụ trách. Mấy ngày sau, Thành phủ Hưng Hóa điều lên trạm Tuần Quán một sĩ quan khố đỏ người Việt, quê ở Sơn Tây. Đại úy Ngô Tuân từ lính dõng giữ làng có công tích chỉ điểm, vào khố xanh, trở thành đội, thành cai. Rồi sĩ quan chỉ huy, Ngô Tuân có tài chống phá tổ chức yêu nước, phát hiện, lật đổ người đối lập chính kiến với mình. Bây giờ thì đại úy họ Ngô đĩnh đạc trên ghế phó chỉ huy trạm, điều hành năm sáu chục lính cơ, có cả tiểu đội lê dương cơ động, thật oách.
Từ ngày Ngô Tuân lên Tuần Quán, cả nhóm lính phục dịch. Trương Đen đã hai lần đến đây với danh nghĩa thám sát địa bàn. Mà đúng, đại úy Đen, đại úy Tuân đều có trọng việc nắm chắc đạo quân Tiên Động, bây giờ chưa rõ chúng ra sao sau vụ đồn Cửa Bộ, đồn Cửa Sông, cứ điểm Gò Mai, Hàm Rồng lọt vào tay người Pháp. Xem ra Trương Đen vẫn hậm hực vì chuyện không được quan Sa Nô nhận xét công tích.
- Này, cứ nói người Pháp thẳng tính, cao đạo, ấy vậy mà cũng biết quên công người Việt ta - Đen vừa nhấp rượu, vừa thổ lộ bức bối.
- Đúng rồi đại úy. Nhưng phận ta, làm sao được. Họ là đạo quân của nhà nước bảo hộ - Tuân nâng ly rượu, cười đáp.
- Bây giờ tôi và ngài cộng tác thăm dò xem quân Tiên Động đang ở đâu, mưu kế chúng thế nào - Trương Đen đề xuất.
- Tôi đồng ý với ngài chánh mật thám.
- Nhưng không phải thông tin nào cũng báo hết với quan Tây. Hai ta cũng phải có những bí mật riêng dành cho đất của người Việt. Ngài đồng ý chứ?
- Ô-kê, ô-kê! Tôi đồng tình với sáng kiến của đại úy Đen - Tuân đáp nhanh.
Hai sĩ quan mật thám đánh thuê sau cuộc nắm chặt tay nhau ở Tuần Quán, đã hành động ngay.
Trương Đen củng cố đội “Chuột rừng” mà y cho là sự lợi hại cả về hai phương diện, nhiệm vụ thám sát đối phương và cánh tay trong của chính đại úy chánh mật thám. Vậy nên, khi Trương Đen xin bổ nhiệm trung úy Quỵch làm phó cho mình, tham mưu phó Sa Nô Bô-rít ký quyết định ngay. Ngô Tuân cũng vậy, không lập đội, nhóm, nhưng trưởng trạm, đại úy Ngô Tuân chỉ định Phung làm tay chân riêng, chuyên việc dò xét.
Bây giờ thì Tuân, Quỵch, Phung đã có trong tay tài liệu mới nhất về “Đạo quân giặc cỏ Tây Bắc”, cái tên, mà chính nhóm “Chuột rừng” cố nghĩ ra, ghi rõ vào báo cáo, gửi tham mưu trưởng Sa Nô đại tá Giêm-mô-lanh.
Cầm tờ trình báo trên tay, Giêm-mô-lanh quay sang Trương Đen:
- Đại úy. Kẻ cầm đầu của đạo quân giặc cỏ Tây Bắc là những ai?
- Báo cáo chỉ huy tham mưu: Nguyễn Quang Bích, từng là tuần phủ Hưng Hóa bỏ chạy, ông ta được sùng ái gọi là Thủ lĩnh. Sau Bích là Nguyễn Văn Giáp, còn gọi là Bố chánh Phó tướng. Ngoài hai cái tên ấy, còn có Đề Kiều, Vương Văn Doãn, Nguyễn Quang Hoan... Đạo quân giặc cỏ này đã làm loạn cả vùng Cẩm Khê mấy năm nay...
Trương Đen liếc nhìn thấy cả Giêm-mô-lanh, Bô-rít, Xanh-tơ-ni điềm tĩnh lắng nghe nên tranh thủ cơ hội:
- Thưa... khi chúng tôi tham mưu cho Sa Nô và thành phủ đánh chiếm Gò Rồng, lập được đồn Mai, thì bọn giặc cỏ này hoảng hốt bỏ trại chạy cả vào rừng rồi ạ.
Bô-rít cười khẩy:
- Thế nghĩa là đã phá được bọn chúng, không còn lo gì nữa chứ đại úy?
- Dạ, không không. Đấy chỉ là hiện tại. Chúng tôi sẽ do thám tiếp ạ - Đại úy Đen chống chế.
Giêm-mô-lanh nhả làn khói thuốc cô táp khỏi chiếc tẩu trong miệng, khích lệ:
- Tham mưu Sa Nô khen ngợi các chiến binh đội do thám đã vì nước Mẹ Đại Pháp mà hành động cùng nhau chống lại người Việt khi chúng là giặc cỏ. Đại úy, hãy tiếp tục nhé! - Giêm-mô-lanh cười nhạt.
- Vâng. Thưa đại tá!
Trương Đen đứng dậy, bụng dạ xốn xang rời phòng tham mưu Sa Nô.
Sau khi tạo cơ sở hộ vệ Tiên Động cho Tổng khảm Trịnh Bá Đanh với mục đích đánh lạc hướng quân do thám của Sa Nô và thành phủ, tạo thời gian càng ổn định càng tốt, càng lâu càng tốt, để bản doanh của Thủ lĩnh di chuyển qua đường Yên Lập được bí mật, Phó tướng công Nguyễn Văn Giáp và Đề đốc Hoàng Đình Cương quyết định mở mặt trận thượng nguồn sông Thao, vừa nhằm gây ảnh hưởng đến toàn vùng phía Bắc, lại vừa nghi binh bản doanh quân Tiên Động di chuyển theo hướng ngược sông Hồng, buộc người Pháp phải chú ý mà dàn quân về hướng bắc.
- Đề đốc! Địa bàn rộng, đường đất xa xôi, ta chưa nắm được dân làng, quân binh lại mỏng. Ngài nghĩ sao?
Hoàng Đình Cương trầm ngâm. Quả thật, đã từ mấy ngày nay, tướng quân suy nghĩ rất lung mà vẫn chưa có cách nào giải được câu tự hỏi, giờ lại là điều làm phó tướng băn khoăn mà Đề đốc phải là người nêu ý kiến tháo gỡ.
Trầm ngâm giây lát, Hoàng Đình Cương ngẩng nhìn Bố chánh:
- Hạ tướng vội nghĩ, ta lập trận địa giả ở Tuần Quán hoặc Bách Lẫm thuộc phủ Trấn Yên. Quân Pháp tất thăm dò rồi đánh úp, ta bày binh ba mặt đánh ập lại. Thắng lớn, sẽ khích động dân binh và nghĩa sĩ. Pháp lo đối phó với hướng bắc, là cơ hội tốt cho Thủ lĩnh và Đề đốc tướng quân vượt qua Yên Lập lên Nghĩa Lộ.
Bố chánh gật đầu cho là hay liền gọi lãnh Hặc, lãnh Đa đến bàn. Hặc và Đa đều là người Hạ Hòa, thường xuyên đi mua tre nứa dọc sông Thao lên Trấn Yên, hai ông thạo nghề sơn tràng, nghề sông nước, hay ngủ tá túc nơi dân bản nên quen biết nhiều, thân hữu lắm. Từ ngày được lãnh binh Đào Văn Toát người Văn Lang, Hạ Hòa dẫn mối về Tiên Động, Hặc và Đa tham gia đánh trận đồn Cửa Bộ, lập công, được Thủ lĩnh phong Lãnh, lãnh Hặc, lãnh Đa thành chỉ huy Đội binh từ đấy.
Lãnh Hặc bàn:
- Đề đốc nên lập trại giả ở Tuần Quán để nhử giặc, còn ngài đặt sở chỉ huy ở Bách Lẫm. Trên đồi Bách Lẫm, nên đặt súng thần công bắn thẳng xuống trại dã chiến của Pháp cũng ở làng Tuần Quán. Lãnh tôi mai phục ở Hào Gia đánh lên. Lãnh Đa mai phục ở bên kia sông Hồng, dùng thuyền dân mà chở đội binh đánh sang, quân Pháp chắc sẽ phải tranh nhau nhảy xuống sông mà trôi.
Hoàng Đình Cương nắm tay Bố chánh thốt lên:
- Hay quá, hay quá Phó tướng công ơi.
Nguyễn Văn Giáp gật đầu.
- Được, được. Giao cho Đề đốc và hai lãnh tướng lập bản kế hoạch. Đừng quên cho người phao tin Thủ lĩnh Tiên Động đang hạ trại ở Tuần Quán.
Bố chánh vừa giao việc vừa bật cười bởi màn nghi binh lừa đám “Chuột rừng” thành phủ.
Lãnh Hặc, lãnh Đa cúi mình chào Phó tướng và Đề đốc. Hai ông rời Bách Lẫm đi về bến miếu Am nơi dừng chân của khách buôn bè đường thủy. Không đợi khách hàng từ Việt Trì lên. Lãnh Hặc, lãnh Đa bán sang tay mấy bè tre gỗ cho thợ sơn tràng. Cuối buổi sáng hôm sau dưới sự chỉ huy của Đề đốc Hoàng Đình Cương, một “trại thủ lĩnh” được dựng lên bên sân miếu Tuần Quán. Lá cờ có chữ “Bình Tây Phục Quốc” chỉ to bằng chiếc chiếu, nhưng cũng đủ cho người ngồi trong tàu thủy trên sông Hồng nhìn rõ. Ban ngày dăm, bảy lính canh khoác súng đi lại; ban đêm những ngọn nến nhựa trám cháy sáng cả trại. Cách trại Tuần Quán chỉ nửa cây số về thượng nguồn sông là sở chỉ huy của Đề đốc. Bên tả sông có lãnh Đa; bên hữu, lãnh Hặc. Mỗi nơi chỉ đủ một trung đội quân binh, tất cả bí mật tập luyện.
Nghe Hoàng Đình Cương báo cáo lại, Bố chánh khẽ gật đầu rồi đưa ngón tay vẽ vẽ trên mặt bàn:
- Sớm muộn ta cũng phải theo đường mòn Vân Hội mà hợp quân với Tướng công; vậy nên, ta tính lập một trại binh mạnh ở phủ Đại Đồng nhằm ngăn chặn sông Lô, sông Chảy, và chi viện thượng nguồn sông Hồng khi cần thiết. Ý Tướng quân thế nào?
Đề đốc khẽ khum năm đầu ngón tay chụp xuống tấm phản gỗ đang ngồi, đoạn ngẩng nhìn Bố chánh:
- Phó tướng công. Ngài xét đoán thật sâu rộng. Lợi thế của quân Pháp hiện nay là đường sông, tàu thủy và tàu pháo; việc hành quân bộ chúng chưa dám làm mạnh. Ta sớm lập đồn Đại Đồng cũng là phải.
Bố chánh trầm ngâm:
- Đồn Đại Đồng, quân binh đâu, dân binh đâu? Vũ khí nữa. Nếu không làm nhanh, không làm kín, thành phủ Hưng Hóa biết được, chúng sẽ trấn áp ngay.
- Vâng, đúng!
Đề đốc hiểu ý Bố chánh, ai là người về Yên Bình xây dựng cơ sở ban đầu? Lướt trong đầu Hoàng Đình Cương lúc này là những tướng quân đã từng có thời ngược xuôi vùng đất sông Lô, sông Chảy: Đề Mạc, lãnh Khanh ở Hạ Hòa, đốc Kình, lãnh Mai ở Lâm Thao, đốc Thục ở Đoan Hùng, lãnh Toát ở Văn Lang, Hạ Hòa. Một tướng giỏi nữa là lãnh Vân - Ma Văn Vân, người làng Mè, Phú Thọ có thể đảm đương việc này; nhưng tất cả các tướng đang ở mặt trận hậu Tiên Động cùng với Tổng khảm Trịnh Bá Đanh, hai vị đang trên đường cùng Đề Kiều tháp tùng Đại thần sang Yên Lập đi Tây Bắc. Việc làm xáo trộn tướng lĩnh lúc này đã thật cần thiết chưa?
Nghĩ gay gắt trong đầu. Chợt khuôn mặt Đề đốc Hoàng Đình Cương trở nên tươi vui. Tướng quân nâng chén nước trà nhấp nhẹ rồi đặt xuống mặt phản:
- Thưa ngài Bố chánh, ta có thể phong “lãnh” vượt cấp cho chánh tổng kiêm thổ hào phủ Yên Bình là Nông Đình Tẩn được không? Nếu được, sẽ rất có lợi cho nghĩa binh Cần Vương ở Tây Bắc.
- Ông ấy là người thế nào? - Bố chánh hỏi.
Thực ra Hoàng Đình Cương cũng chưa được gặp mặt thổ hào Tẩn, nhưng những người làng đi làm ăn ở phủ Bình kể nhiều về ông nên Hoàng Đình Cương cho rằng đó là một tù trưởng tài giỏi và tốt bụng. Nghĩ thế, Đề đốc vội thưa:
- Vâng, từ thổ hào trở thành tù trưởng, rồi mua được chức chánh tổng, không có tiếng làm hại ai. Thế có nghĩa là được lòng dân, lại biết cách trừ loại kẻ xấu.
Phó tướng công gật đầu rồi bất ngờ nói:
- Tướng quân. Ngài mau lên Phủ Bình, gặp tù trưởng, thuyết phục, rồi sớm định liệu bản trại lập đồn.
- Vâng, thưa Bố chánh! - Hoàng Đình Cương đáp gọn.
Ngay sáng hôm sau Đề đốc Hoàng Đình Cương và hậu vệ Tùng trong bộ quần áo tư thương vượt Hương Lý, theo ngòi Loan vào Đại Đồng nơi đặt phủ lỵ Yên Bình. Rồi lại từ phủ lỵ đi ngược lên Ngọc Chấn. Ngọc Chấn là xã ngọn nguồn sông Chảy của phủ Yên Bình. Ngày thứ hai mới gặp một người đàn bà mặc váy, đầu đội nón “tát”.
Đề đốc làm quen:
- Chào chị à! Chị là người dân tộc gì?
- Thổ quá. Thổ qu... á! Ở đây toàn là người Thổ mà!
- Chị có biết ông Nông Đình Tẩn, ông ấy là...
- Biết mà, ông Tẩn cũng người Thổ, nó làm tù trưởng mà!
- Tôi muốn gặp ông tù trưởng nói chuyện mua bán?
- Đi! Nhà nó kia, đang có đám giỗ. Nó là em tao mà!
- Ồ ồ, cám ơn chị. Cám ơn chị!
Đề đốc và hậu vệ đeo túi bước lên cầu thang nhà sàn. Người đàn bà đon đả gọi. Một trung niên tầm tuổi bốn mươi to cao, tươi tỉnh bước ra. Trước mặt anh ta là người khách lạ:
- Hầy. Ông tìm ta việc gì à?
Đề đốc cúi chào gia chủ, rồi cúi chào các khách họ ngồi la liệt dưới sàn nhà gỗ.
- Tù trưởng à. Có việc đấy, việc mua bán thôi. Tôi ở phủ Trấn Yên tìm đến đây mong được ông tù trưởng Ngọc Chấn giúp đấy.
- Hầy. Việc gì cũng giúp nhau được. Nhưng phải ngồi xuống đây làm một chén rượu núi đã mà.
Hoàng Đình Cương nhẹ nhàng nhìn quanh, khách họ còn đang trò chuyện, thầy tào đến cúng chưa thấy đâu, mà gia chủ thì vui vẻ nên đành liều:
- Tù trưởng Nông Đình Tẩn này. Việc bán buôn cần trao đổi trước, ông sắp vào lễ họ, tôi không muốn làm phiền.
- Được, được mà, mời ông thương lái vào gian trong.
Hoàng Đình Cương theo chân Nông Đình Tẩn bước vào gian nhà dành riêng cho gia chủ. Gọi là gian, nhưng thực ra là một phòng khách, bốn bề lịa ván xoan già, những lớp vân xoan lâu ngày ánh lên rất đẹp. Tường nhà dựng đôi ngà voi, trên cột trụ đóng bộ gạc nai, góc nhà là bộ da gấu, da hổ nhồi trấu... tất cả được sắp đặt gọn, đẹp, mà cũng cảm giác rất uy lực.
Tù trưởng Nông Đình Tẩn đã rót xong hai bát rượu sành, cười cười bước lại:
- Ông là thương gia, lần đầu gặp mặt. Ta “kết tồng” được không? - Thấy khách có vẻ ngơ ngác, chưa hiểu. Tẩn nói tiếp - “Kết tồng”, là kết bạn, kết nghĩa anh em ấy mà. Tục của người Thổ tôi đấy.
Đề đốc hiểu ngay, cười to:
- Ha ha ha. Được thế thì còn gì bằng. Tôi xin uống trước, cạn hết bát rượu này.
Nói rồi Hoàng Đình Cương ngửa cổ làm một hơi, bát rượu cạn trơ. Đề đốc ngửa bàn tay trái, úp mặt bát đánh chụp. Đề đốc làm thuần thục, gọn nhẹ đến nỗi tù trưởng người Thổ chưa kịp đặt bát lên môi. Cả hai, khách chủ, cùng úp bát lên mặt bàn tay. Cười ha hả.
Không để mất cơ hội, Đề đốc Hoàng Đình Cương đặt thẳng vấn đề:
- Ngài tù trưởng. Anh em với nhau rồi, tôi không giấu gì nữa. Tôi đây là Đề đốc Triều thần, được Đại thần Hiệp thống Nguyễn Quang Bích và Phó tướng công Nguyễn Văn Giáp phái lên Ngọc Chấn gặp tù trưởng người Thổ Nông Đình Tẩn bàn việc cơ binh Cần Vương... Quan Đại thần quân vụ ở xa, biết tin ngài nhận lời, hẳn Đại thần Tướng công sẽ mừng lắm.
Nghe dẫn tên tuổi và lời lẽ tin cậy về Quan đại thần Triều đình Huế chủ chiến, đến với một tù trưởng người dân tộc miền ngược như mình, Nông Đình Tẩn vội vàng quỳ xuống trước Đề đốc tướng quân:
- Thưa quan Đề đốc, con xin nhận tội thất lễ. Con và dân phủ có thể làm được điều gì bé nhỏ, xin đại quan cứ sai bảo.
Hoàng Đình Cương đưa hai tay đỡ tù trưởng thổ hào:
- Với ta, là anh em kết tồng rồi sống chết sẽ có nhau. Còn tù trưởng đã được Đại thần Nguyễn Quang Bích, và Bố chánh Nguyễn Văn Giáp nhất mực tin cậy, giao cho chức phụng Chiếu Cần Vương mà đứng ra xây dựng đồn Phủ Bình, quyết Bình Tây Phục Quốc vì nghĩa lớn. Kể từ giờ phút này tù trưởng Nông Đình Tẩn đã là Tướng quân Phủ Bình, phẩm hàm Đốc binh, thuộc đạo binh Cần Vương Tây Bắc. Tù trưởng nhận lấy tấm Bài phẩm này và lo hành động.
Nông Đình Tẩn chưa hết bàng hoàng bước tới trước mặt Đề đốc, đưa hai tay nhận tấm thẻ Bài phẩm rồi cúi hai cúi. Đốc binh run run:
- Quan, quan... Đề đốc. Anh... anh... quan... Đốc binh Đình Tẩn này... nguyện sống chết bên Quan đại thần Hiệp thống. Anh, anh... Đề đốc...
Hoàng Đình Cương ôm chặt lấy người em kết nghĩa. Cả hai như cười, lại như muốn khóc.
Chưa đầy mười ngày sau, Hoàng Đình Cương bất ngờ tháp tùng Bố chánh đi thị sát, đã thấy đồn Phủ Bình dã chiến đặt tạm trong khu trang trại của tù trưởng. Ba mặt đồi nhìn xuống có thể quan sát cả đường thủy, đường bộ sông Chảy và vận động nhanh đến trạm sông Lô bằng đường bộ thành nhà Bầu. Bố chánh và Đề đốc, cùng Đốc binh đồn trưởng Nông Đình Tẩn bày đặt trạm gác, điểm đặt súng thần công, khởi động luyện tập quân binh, dân binh. Lại tính cả việc sắp sẵn hàng chục giầm bè tre nứa để sẵn ven sông, nếu tàu Pháp kéo lên nhiều thì bao vây hai đầu sông, phóng hỏa. Phó tướng công Bố chánh thật sự hài lòng với tính toán quân binh vừa nhanh gọn, vừa sáng tạo của Đề đốc Cương và Đốc binh Đình Tẩn, ngài cầm bắp ngô luộc bẻ làm ba, đưa mỗi người một mẩu.
- Hai tướng. Bắp ngô của dân làng, dân làng nuôi ta, ta lo trả ơn bằng việc giữ nước.
Tiễn Phó tướng công xuôi đường sông Chảy trở về phủ Trấn Yên. Hoàng Đình Cương và Đốc binh Đình Tẩn lại vội lên ngựa đi kiểm tra tuyến sông Lô, ven thành Bầu và tính toán việc liên binh với quân Tổng khảm Trịnh Bá Đanh để lập Trạm binh Đoan Hùng. Nông Đình Tần, con trai Đốc binh Nông Đình Tẩn, là lang đạo sông Lô, được cử làm trưởng trạm binh, đưa hai tướng quân đi kiểm tra, cười cười nói nói với Đề đốc Hoàng Đình Cương:
- Thưa quan Đề đốc. Đất này thời Trần oanh liệt lắm, Tả tướng quân Trần Nhật Duật đã chỉ huy đánh quân Mông Nguyên làm cho tướng giặc Na-xa-rút-đin phải chui rừng chạy về Vân Nam.
- Hà, đúng! Nhưng phải nói thêm, Tả tướng quân chiến thắng quân Nguyên một phần là nhờ dân làng Thu Vật. Lại có các tướng lang đạo người dân tộc Hà Bổng, Hà Đặc, Hà Chương đánh vu hồi bên sông Thao. Binh pháp đánh giặc của cha ông, nay ta còn phải học nhiều con ạ.
Đề đốc vừa dứt lời, Trưởng trạm binh liền chắp tay phục xuống. Hoàng Đình Cương đỡ Đình Tần đứng dậy mà nói:
- Ta khen cháu, thổ hào giỏi, lại có đầu óc quân binh, thông hiểu sử chiến, trung thành với Quan đại thần và Phó tướng công. Hiệp đốc phong con làm đội binh, ta mong con giữ vững bản lĩnh người Thổ mình mà chỉ huy đánh giặc.
Nói đoạn Đề đốc sai hộ vệ Tính lấy thanh gươm đầu rồng trao cho Nông Đình Tần. Đội binh Phủ Bình, Trạm trưởng sông Lô đỡ lấy “gươm rồng” mà rơm rớm nước mắt. Tù trưởng Nông Đình Tẩn cũng không khỏi bùi ngùi:
- Con trai Tần của ta. Con nhận gươm báu, cũng như cha, được Phó tướng công Hiệp đốc tự tay trao kiếm rồng. Đấy là lộc trời ban, cũng là mệnh trời chỉ. Cha con mình quyết không hổ thẹn với Tả tướng quân nhà Trần, với Tướng quân Chúa Bầu, và với người Thổ Thu Vật phủ Bình.
Đội binh trẻ Nông Đình Tần nâng gươm rồng lên trước mặt, quay về ngọn núi Ngàng, vái ba vái; rồi cúi đầu trước hai tướng quân, Đề đốc Hoàng Đình Cương và Đốc binh Nông Đình Tẩn. Vùng trời sông Lô bỗng bừng sáng. Đêm đó, ba cha con “bạn tồng” trò chuyện thâu đêm. Tù trưởng thổ hào Nông Đình Tẩn và lang đạo thổ hào Nông Đình Tần quyết định cung tiến Thủ lĩnh và hai Phó tướng công Đạo quân Cần Vương Tây Bắc ba thớt voi chiến. Đội binh lang đạo sai người lên Lục Yên thuần voi và phong họ làm quản tượng quân binh, chờ ngày đưa tượng chiến về bản doanh Đạo binh ở Tây Bắc.
Bố chánh Nguyễn Văn Giáp cùng đội Thái, quân binh liên lạc kiêm hậu vệ, đóng giả dân chài lưới thị sát dọc bờ sông Hồng. Đào Xuân Thái là người làng Bái, phủ Trấn Yên quê gốc Nam Định, gia đình cụ nội ngược sông đi làm ăn rồi hạ gánh tại làng Bái Yên đã bốn đời. Thái có sức khỏe, giỏi sông nước, giỏi xuyên sơn, lại bắn nỏ tài nghệ. Một lần vi hành Trấn Yên, Đề đốc Hoàng Đình Cương vô tình gặp chàng trai ngồi dưới bóng cây dùng nỏ bắn đài hái, quả đài hái to bằng cái bát ăn cơm, treo lơ lửng trên dây tít ngọn cây sồi. Đào Xuân Thái giương nỏ bắn đúng cuống quả. Mười phát, rơi mười, và biếu vị khách buôn cả rổ đài hái tròn vo, chắc nặng. Chỉ sau mấy chặp hỏi han, gợi gợi, trai làng Đào Xuân Thái nhận lời về làm bảo vệ vị “thương gia” họ Hoàng mỗi lần đi xa.
- Này chú. Nếu tàu Pháp bất ngờ đổ quân ở bờ cát này rồi tràn lên đánh chiếm phủ, quân lãnh Hặc, lãnh Đa chống lại thế nào?
Câu hỏi bất ngờ của Bố chánh làm Đào Xuân Thái lúng túng, chỉ lát sau đã trấn tĩnh:
- Hiệp đốc Phó tướng công. Hai tướng xử sự thế nào, đội binh chưa rõ. Nhưng theo ý đội thì nhị lãnh nắm quân binh, tri phủ nắm dân binh, tri phủ phải là người đồng lòng cùng nhị lãnh thì mới chống lại được.
- Thế có nghĩa là ta và Hoàng Đình Cương phải là người nắm quyền chỉ huy?
- Vâng, đúng thế, thưa Bố chánh!
Phó tướng công ngẩng nhìn mây trời, rồi lơ đãng nhìn ra mặt sông Hồng. Đất Bái Yên, phủ Trấn này kéo đến tận Tuy Lộc, rồi mới lên Ngòi Hóp, Đông Cuông, Trái Hút, Phong Dụ, vào Văn Bàn. Nếu Pháp chiếm được dải đất sông Hồng này thì coi như lỵ phủ Lào Cai sớm muộn cũng sẽ rơi vào tay chúng, cánh cung Tây Bắc khó bề giữ nổi. Để mất sông Hồng, để mất Lào Cai, nghĩa là mất Lai Châu, mất Tây Bắc, tội ấy đứng trước Đức vua là tội chém đầu. Nguyễn Văn Giáp thoáng nghĩ mà rùng mình. Không, thân ta thà ngã trước mũi súng giặc Pháp chứ quyết không tự rơi đầu vì việc bất nghĩa.
Tướng quân khẽ gật nhẹ, cười như vô cảm:
- Nhưng... nhưng ta chưa hiểu biết gì về Tri phủ Trấn Yên liệu ông ta có nghe theo?
- Việc này, Phó tướng công yên tâm, đội binh Thái xin lo trước.
Bố chánh vỗ vai Đào Xuân Thái:
- Được, được. Ta cũng cùng lo liệu.
Hai kẻ “dân chài” nhảo bước trên vỉa cát đi về phía miếu Am rồi ngược lên bến Lâu, rẽ vào phủ lỵ.
Dinh Chánh phủ của phủ lỵ Trấn Yên Đặng Liễu là dãy nhà gỗ năm gian nằm lọt trong khu vườn rộng nhìn ra sông Hồng. Những cây cổ thụ trùm mát vườn đồi mà không um tùm rậm rạp, mấy cặp chim bồ câu bay đậu trên cành, trên mái nhà. Mùa tháng chín ta mà hoa phong lan vẫn cứ nở vàng, nở tím, có cả phớt hồng, ăn theo các mảng địa y bám vào thân cây. Một không gian vừa thoáng đãng, bắt mắt, lại vừa ấm áp sắc hương. Bỗng hai con chó béc giê xồ ra trong khuôn viên dành riêng cho chúng. Bố chánh tủm tỉm nói với vệ sĩ:
- Ở Hà Nội, chỉ có nhà giầu, mà chơi thân với Tây mới nuôi chó béc!
Đào Xuân Thái hiểu ngay ý tướng quân: Tìm cách lôi kéo ông Chánh phủ nhưng phải cảnh giác. Cả hai bước nhanh theo trục đường phủ lỵ. Mặt trời phía tây, xuống núi.
Đào Xuân Thái chơi với Đặng Lanh, đội trưởng điếm canh Bến Lâu. Ngày Đặng Liễu mua được chức chánh phủ, bổ ngay người em họ là Đặng Lanh làm trưởng điếm. Điếm canh Bến Lâu nằm trên đồi quan sát ba mặt đường bộ phía đông, phía tây, phía bắc; lại giám sát thuyền bè, thương lái buôn tre gỗ qua cửa sông lên đường bộ. Điếm có tới năm, sáu dõng binh trực suốt ngày đêm. Lái buôn muốn lọt qua cửa điếm nhanh gọn, cách tốt nhất là chạy lên trình diện trưởng phó điếm, rồi lót tay nửa lạng, vài lạng bạc trắng tùy theo lượng hàng hóa, thế là đi. Tất nhiên số bạc trắng, đá đỏ, ngà voi, cao hổ cốt và các thứ lót tay quý hiếm khác, chú em họ Đặng Lanh phải nộp lên anh trai chánh phủ phủ lỵ. Bởi thế nên mang tiếng được lót tay mà cả đội trưởng Đặng Lanh đến các lính dõng vẫn ở nhà tre liếp nứa. Vợ con đi làm thuê ngoài bến bãi hoặc trong đồn điền nhà Chánh thành phủ. Đội trưởng Lanh đã có lúc bất bình mà phàn nàn với Đào Xuân Thái: “Ông anh ấy chỉ biết đến mình thôi, người khác, kệ!”.
Nghe cận vệ kể, Bố chánh thấy đây là điều kiện để lôi kéo đội trưởng Lanh, từ đó tranh thủ chánh lỵ Đặng Liễu.
- Chú Thái này.
- Dạ?
- Đặng Lanh đã quen với việc anh gác cửa sông, hay là ta...
Bố chánh định nói “hay là ta nhờ Lanh biếu Chánh thành phủ trăm lạng bạc”, nhưng kịp dừng lại. Đào Xuân Thái không dám gặng hỏi mà chủ động thổ lộ ý mình.
- Hạ vệ sẽ tổ chức bữa rượu kết nghĩa anh em với Đặng Lanh, mời Chánh thành phủ dự tiệc, nếu ông ta nhận lời thì tướng quân cho Đề đốc cùng có mặt làm quen để thăm dò ý tứ.
- Hay đấy, hay đấy! Ta bàn với Đề đốc rồi chú tiến hành ngay đi - Bố chánh Nguyễn Văn Giáp khuyến khích.
Đề đốc Hoàng Đình Cương và Đội binh Đào Xuân Thái thật khéo. Chỉ hai tuần sau Chánh thành phủ phủ Trấn Yên Đặng Liễu đích thân cho người mang giấy đến mời Bố chánh Nguyễn Văn Giáp thăm dinh thành phủ với tư cách ngài là Tham tán Hiệp đốc Bắc Kỳ quân vụ Tòng nhị phẩm, tướng quân đạo binh Cần Vương Tây Bắc.
Thấy sự hồ hởi của ông Thành phủ giàu có, chơi đồ của Tây. Bố chánh quay sang hỏi Đề đốc:
- Ta nên thế nào?
- Tướng quân Hiệp đốc. Ngài đến, không đem theo khí giới, có Đề đốc tôi và đốc binh phủ Yên Bình tháp tùng.
Lưỡng lự giây lát Hoàng Đình Cương nói tiếp:
- Cũng nên cho lãnh Hặc chỉ huy mấy chục quân binh giỏi võ đóng giả kẻ đi dạo chơi, dàn quanh dinh thự, nếu có bất trắc, leo tường rào mà ứng cứu.
Bố chánh gật đầu, rồi lại hỏi:
- Nên có quà gì biếu ông ta?
Đề đốc:
- Chánh Thành phủ Trấn Yên do người Pháp dựng lên, khác hẳn với tù trưởng thổ hào Yên Bình. Hiệp đốc tặng ông ta thanh gươm đầu rồng có khắc chữ “Phục Quốc”. Đề đốc tôi sẽ nhắc đốc binh tù trưởng mang theo sản vật làm quà giao bang hai phủ.
Bố chánh nắm hai bàn tay Hoàng Đình Cương:
- Tướng quân. Nếu Hiệp thống Đại thần là một “Thần thiêng”, thì ngài là một bộ hạ giỏi!
Hoàng Đình Cương khoanh tay, cúi nhẹ:
- Cảm ơn Hiệp đốc Phó tướng công. Cảm ơn. Cảm ơn ngài!
Việc dàn xếp của hai đội sĩ, bước đầu đạt kết quả. Chánh thành phủ Trấn Yên Đặng Liễu đã từng nghe tăm tiếng chống lại người Pháp của Tuần phủ Hưng Hóa Nguyễn Quang Bích từ ngày ông ta còn là phó lý trưởng. Hai năm gần đây, lại nghe Tuần phủ bí mật lên ngựa, dựng cờ khởi nghĩa “Bình Tây Phục Quốc” ở rừng Tiên Động Cẩm Khê thì lấy làm ngờ vực, mà người Pháp lại thúc ép các hào lý địa phương lập bộ máy điều hành là người bản địa. Giờ thì rõ ràng rồi, Tuần phủ Hưng Hóa trước, nay đã là Quan đại thần triều đình chủ chiến của vua Hàm Nghi thống lĩnh toàn Bắc Kỳ. Ngả theo phe Cần Vương hay người Pháp? Day dứt mấy tháng trời, Chánh phủ Liễu quyết định chuyện “phù thịnh chứ ai phù suy”, nghiêng về người Tây; nhưng lấy tiền của cung cống giữ chỗ, thay cho đem dõng đi đánh quân binh “giặc cỏ”. Bây giờ, chính Chánh phủ anh họ ngồi trong sập lim đợi đón các tướng quân của Đại thần Tuần phủ. Cả hai bên sẽ nói gì, làm gì, và thống nhất mọi việc làm ra sao, đội điếm Đặng Lanh cũng không thể rõ. Nhưng Lanh tin ở lời của Đào Xuân Thái, các ông ấy sẽ chỉ bàn việc giúp vua cứu nước, chứ không ai làm hại ai.
Một chiếc ca-nô xuất hiện phía đầu nguồn sông Thao, nghĩa là nơi giáp ranh đất Hạ Hòa với Trấn Yên ngang mặt sông Hồng. Từ trạm quan sát đồn Tuần Quán, lãnh Hặc cho liên lạc cấp báo đến Đề đốc Cương.
Chiếc tàu thủy chứ không phải ca-nô, ca-nô là của nhà buôn, còn tàu thủy thì phải người Pháp mới có, và chỉ có quân binh Pháp mới có quyền chạy dọc sông Thao, sông Hồng, sông Chảy, sông Lô, sông Đà trên dải đất Tây Bắc này. Sắc lệnh của Sa Nô chỉ định như vậy. Các chánh phủ, chánh tổng, lý trưởng, kể cả cánh phe buôn lậu đều phải biết, phải nhớ, khi thấy một hoặc vài ba tàu thủy cắm cờ Tây thì bất khả xâm phạm. Còn nếu tàu dừng lại ở đâu trên các trục sông, dừng lâu dừng chóng hay ở lại dăm bảy ngày là quyền của họ, chính quyền hào lý địa phương phải cử dõng binh ra bảo vệ. Với lại, nhà tàu đã cắm cờ Pháp đi đến đâu, người nhà tàu yêu cầu gì thì hào lý nơi ấy phải đáp ứng giả như lương thực thực phẩm, nơi nghỉ ngơi du hí...
Nghe Đề đốc nói, lãnh Hặc, lãnh Đa nhăn mặt làu bàu: “Người Tây quá quắt với dân An Nam mình”.
- Đúng là tàu thủy chứ không phải ca-nô thưa Đề đốc.
- Sao chỉ có một chiếc?
- Chúng đi tuần tra? - Hặc phán đoán.
- Ừ, hoặc là tuần tra trên sông, ven sông, thăm dò phát hiện phản ứng của dân chúng, của nghĩa binh - Lãnh Đa đưa thêm ý kiến.
Đề đốc:
- Đó là một lý do. Cũng có thể đồn Hạ Hòa chúng đi khảo sát để nhanh chóng lập đồn Yên Bái, ép buộc ông Chánh phủ phủ lỵ Trấn Yên đấy.
Tiếng động cơ mỗi lúc một gần. Đúng là tàu Pháp, lá cờ Tây, chỉ có một chiếc, đang áp dần vào bờ sông Văn Phú. Hơn nửa tiếng nữa là cập bến Âu Lâu. Chúng sẽ đi tiếp hay ở lại? Ai ra đón hay chỉ ghé lên bờ phủ dạo chơi? Hoàng Đình Cương phán đoán:
- Chú Đa chỉ huy quân binh, không được khiêu khích đề phòng chúng nã thủy pháo. Chú Hặc theo tôi lên xin ý kiến Tướng quân.
- Vâng, Vâng! - Hặc, Đa đáp gọn.
Thoắt cái, hai bóng tướng binh cùng hậu vệ khuất vào bờ soi ngô chuối, lên Bách Lẫm, lãnh Đa dàn quân bảo vệ đồn, nếu quân Pháp đổ lên thì mới bất ngờ đánh giáp mặt.
- Chẳng lẽ chúng biết kế hoạch gặp ông chánh phủ Liễu của ta chăng?
- Chắc là không, thưa Hiệp đốc - Hoàng Đình Cương nói - Nhưng đây lại là lúc khó xử và chưa biết rõ ý đồ của người Pháp.
- Đúng là như vậy! - Bố chánh cố trấn tĩnh.
- Đào Xuân Thái tôi xin hiến kế.
- Chú nói đi - Bố chánh giục.
- Đội hạ sẽ lên trạm gặp ngay Đặng Liễu, xin khất ông Chánh phủ cuộc gặp này vì... - Đào Xuân Thái chần chừ.
- Chú cứ nói đi - Hoàng Đình Cương giục.
- Vì... ta cứ phao tin là tàu Pháp lên sẽ có chuyện đòi lập đồn, chiếm phủ, yêu cầu ông chánh Liễu xin lui lại trả lời chúng sau. Rồi ta sẽ liệu bàn với ông Chánh.
- Hay hay. Đào Xuân Thái sáng kiến. Chú Đội đi ngay, ta dặn này: Nếu tàu Pháp không cho người lên bờ vào gặp chánh phủ Liễu, thì coi như không có chuyện gì. Còn nếu diễn ra như chú Đội nói thì ông Liễu khất Pháp ít nhất một tuần, ta sẽ bàn với ông ấy tương kế tựu kế - Bố chánh huơ tay. - Việc cấp bách chú đi đi.
Một mình đội binh Đào Xuân Thái, tay không xuống đồi Bách Lẫm, rồi đi như chạy.
Đề phòng pháo địch tập kích từ tàu thủy, Hoàng Đình Cương giao lãnh Hặc chỉ huy đội binh Bách Lẫm, nếu gặp quân khố đỏ, khố xanh đánh bộ lên đồi, thì dùng dàn đá lăn dập xuống rồi mới giáp lá cà. Giao việc nhanh, Đề đốc đưa Bố chánh lánh tạm sang ngọn đồi đá vôi bên cạnh quan sát. Ngọn đồi đá vôi có hang rộng mà đã có lần Hoàng Đình Cương cùng mấy quân binh, dân phòng vào sâu lòng hang xem xét thế tiến thủ.
Tàu thủy Pháp áp mặt bờ bến Lâu rồi bỗng ngoắt sang trái, quay đầu xuôi dòng sông Hồng. Không một người nào của nhà tàu bước lên bờ. Lãnh Hặc, lãnh Đa vẫn im lìm dưới lùm cây theo dõi. Tàu dừng giữa mặt sông khoảng mười lăm phút rồi từ từ chạy xuôi. Ba mươi phút sau khuất hẳn tầm nhìn của trạm quan sát Bách Lẫm. Tiếng động cơ cũng im ắng hoàn toàn. Hoàng Đình Cương đưa Bố chánh trở lại Bách Lẫm. Nhóm tướng binh chụm đầu.
Lãnh Hặc:
- Lãnh tôi cho rằng tàu chở tướng Pháp đi xem xét địa bàn để lập mưu tính kế đô hộ ta.
Lãnh Đa:
- Đúng là như vậy, họ vẽ bản đồ địa hình, chụp ảnh, quan sát, thăm dò phản ứng của Chánh thành phủ phủ Trấn Yên và dân làng ven sông.
Hoàng Đình Cương:
- Hai tướng xét đoán đều hợp lý. Nhưng hãy xem, chúng áp sát bờ cát Văn Phú, rồi lại dừng giữa dòng giáp Bến Lâu là cớ gì?
Lãnh Hặc:
- Có thể cũng chỉ để thăm dò, quan sát phát hiện đồn binh quân ta.
- Vì sao họ không lên thành phủ? Chẳng lẽ Sa Nô cho quân lê dương đi chơi sông Hồng sao? - Hoàng Đình Cương vẫn băn khoăn.
Bố chánh chưa kịp có lời lí giải với các tướng thì đội binh Đào Xuân Thái bước vào lán trạm:
- Quan Hiệp đốc, Đề đốc, Lãnh binh. Đào Xuân Thái và Đội điếm Đặng Lanh ở chòi gác thấy tàu Tây quay xuôi nên không đến gặp Chánh thành phủ nữa. Như vậy là kế hoạch buổi gặp ông Chánh vào chiều nay vẫn cứ diễn ra như dự định.
Hoàng Đình Cương hỏi ngay:
- Thế hai anh đội nghĩ sao khi tàu Tây không lên bờ mà lại quay xuôi?
Đào Xuân Thái lắc đầu:
- Chưa rõ ạ, chỉ nghe Đặng Lanh nói lộ ra, ông Chánh sẽ ra lệnh cấm dân buôn bè hạ trại từ miếu Am đến Bến Lâu, ông còn nói, sắp có quan Tây về thăm Thành phủ.
Bố chánh Nguyễn Văn Giáp đang chăm chú nghe, bỗng đứng dậy:
- Tin tức mà chú Đội nói có mối với việc chiếc tàu thủy của Pháp vừa đi. Bây giờ ta ban bố…
Hoàng Đình Cương khoanh cánh tay:
- Xin Hiệp đốc chỉ định!
- Tướng quân Hoàng Đình Cương cùng lãnh Hặc, lãnh Đa theo dõi quân Pháp cả trên đường thủy và đường bộ dọc sông Hồng, các đồn, các trạm binh vừa luyện quân, vừa sẵn đánh.
Hoàng Đình Cương và hai lãnh:
- Xin tuân thủ lệnh Bố chánh.
Nguyễn Văn Giáp nhìn Đào Xuân Thái:
- Việc vào thành phủ chiều nay, giao cho đội binh lo liệu. Tù trưởng Nông Đình Tẩn và ta, cùng gặp Chánh thành phủ Đặng Liễu.
Đào Xuân Thái khoanh cánh tay khẽ cúi:
- Vâng, thưa ngài Hiệp đốc!
Trời vào đông se se lạnh. Ba giờ chiều. Bốn giờ chiều. Đã quá gần hai mươi phút mà vẫn không thấy Bố chánh và tù trưởng đốc binh trở ra. Lãnh Hặc bồn chồn đến bên Đề đốc:
- Lãnh tướng đừng lo. Hiệp đốc là người bản lĩnh và cao kiến, lại có đốc binh và đội vệ tháp tùng. Ta bình tĩnh đợi - Hoàng Đình Cương nói.
Lãnh Hặc và tốp vệ sĩ mặc dân phục lang thang ngồi gốc cây, ngồi quán nước, mà tai mắt vẫn để ý phía tường rào chánh thành phủ, chỉ cần nhìn thấy Đào Xuân Thái vung chiếc áo ra hiệu là nhóm “người nhện” này vượt tường nhảy vào sân ngay.
Có tiếng kẹt cổng. Kia rồi. Bố chánh, Đốc binh phủ Bình, rồi đến người đàn ông cao to, áo dài thâm, khăn xếp sóng bước. Sau cùng có lẽ là Đào Xuân Thái. Đúng là Đào Xuân Thái, đeo túi vải.
Đề đốc Cương vỗ vai lãnh Hặc:
- Chắc không có chuyện gì xảy ra!
- Vâng. Có lẽ thế!
Người đàn ông mặc áo the dài nắm hai tay vào nhau đưa lên ngang mặt. Bố chánh ngoảnh lại, khẽ gật đầu, rồi ra khỏi cánh cổng sắt. Trời đất tự dưng tối lại. Cơn mưa giông trái mùa như đang sắp ập đến.
Chánh phủ Đặng Liễu nằm dài trên chiếc tràng kỷ đan bằng mây song rừng già, chiếc gối cũng được đan bằng những sợi mây chuốt mỏng như chiếc lạt giang, mây song già, lại phơi được nắng, dùng lâu ngày ngả màu óng ánh. Chánh phủ không thiếu gì đồ ngủ nghỉ bằng da, bằng vải, bằng cả đệm mút do người bạn Pháp ở Hà Nội biếu tặng; nhưng ông vẫn thích dùng thứ mây tre đan, cũng như khuôn viên tư dinh rộng có tới hàng nghìn mét vuông có đủ các loại cây dân dã làm cảnh. Cây vam quả vàng suộm, cây dâu da quả hồng tươi, cây vải ngọt dày đặc chùm quả, cây bứa cành tán xòe ngang, cây mít dai có từ thời ông bà đã trở thành cổ thụ... Trên các cây là các loại hoa phong lan. Mùa quả chín, chim rừng từ các nơi kéo về ríu ran suốt ngày. Những tưởng cuộc sống phủ lỵ miền rừng núi cái cảnh thú, có người phục dịch, cứ êm đềm đến tuổi già. Ai ngờ người Pháp đến, mọi thứ vẫn thế nhưng họ lại o ép thêm đủ thứ: cống nộp, sưu thuế, bắt phu, bắt lính, bây giờ lại thêm cái trát gửi từ Hà Nội, khoanh đất cho người Pháp lập tòa sứ, đất cho người Pháp xây nhà thờ, đất cho người Pháp lập đồn nhà binh. Hà Nội lại cử mấy ông Tây lên ăn nằm tại thành lỵ. Đội dõng phủ thêm việc bảo vệ vòng trong vòng ngoài. Ấy là chưa nói phần của quan tỉnh mà triều đình chỉ dụ phải thi hành theo tháng theo ngày. Bây giờ, bây giờ, “Đạo quân binh Cần Vương Tây Bắc” là cái gì nhỉ? Giúp vua, bài Tây, phục quốc? Liệu có làm được không cơ chứ? Mà không khéo lại “đắm đò dập mẹt” cả lũ.
Đang miên man, bỗng con chim vẹt đầu nhà kêu to “có khách, có khách” làm chánh phủ Liễu giật mình tung chiếc chăn mỏng, bật khỏi tràng kỷ mây, bước ra cửa. Ngoài cổng, thằng hầu đang lần chiếc chìa khóa.
- Người Tây! Giữa trưa se lạnh, mày đến nhà làm gì?
Chánh phủ Liễu cảm thấy khó chịu. Mà khó chịu thật. Người Tây lịch sự ở đâu chả biết, chứ đến nhà riêng mà không báo trước thế này thì lịch sự cái gì. Chánh Liễu khoác vội chiếc áo the, bước ra cửa.
- Ngài! Chào ngài thanh sứ!
- Ố ồ. Tôi làm phiền ông Chánh phủ giữa trưa là vì có việc gấp, thế thôi!
- Không sao, không sao. Mời ngài sứ ngồi.
Chánh phủ, sứ Tây, cả hai đều đon đả; xem như thân mật gia đình.
Sứ Tây Méc-răng:
- Tôi đến chào ngài Chánh thành phủ, tôi về Hà Nội mấy ngày.
Chánh Liễu xoa tay:
- Vâng. Thưa ngài!
Méc-răng:
- Nhưng có điều này - thanh sứ liếc ngang - cái việc đất đai, ngài lo đến đâu rồi, ngài Chánh?
- Dạ, cũng đã có ý nhưng chưa thành văn tự, có lẽ...
- Không còn thời gian nữa, thưa ngài.
Nói rồi viên thanh sứ đứng dậy bước qua bước lại, đoạn đặt tay lên đầu bộ da hổ nhồi trấu đặt góc nhà.
- Nước Pháp ví như chúa sơn lâm này. Còn An Nam chỉ nhỏ bé như con chim chích ngoài vườn cây kia. Ngài Chánh phủ chưa kịp làm thì tôi làm thay ngài rồi đây.
Vừa nói, Méc-răng vừa luồn tay vào túi vét-tông lôi ra tập giấy:
- Thưa ngài. Đây là bản vẽ quy hoạch đất đai tại làng Bái Yên thuộc thành phủ Trấn Yên, dành cho người Pháp.
Chánh Liễu giật mình, đưa ngón tay giở giở nhìn lướt vài ba trang: “Ơ, ơ. Sao lại thế này?”. Chợt nghĩ, chưa kịp lời nào, viên thanh sứ đã xen ngang:
- Có gì ngạc nhiên đâu ngài? Đến cả Triều đình Huế còn do Toàn quyền Đông Dương sắp đặt, huống hồ cái phủ của ngài chỉ to bằng con muỗi, Tổng đốc Hà Nội đã phê chuẩn rồi. Tôi hân hạnh thông báo cho ngài như vậy.
Thanh sứ Tây nhìn chằm chằm, cười nửa miệng rồi bất ngờ:
- Ngài Chánh thành phủ. Nước Pháp đang chờ đón một người An Nam như ngài. Chào ngài!
Thanh sứ lại cười, quay mình bước ra cửa. Hầu phủ chạy trước mở cổng. Ngoài đường đất, hai ba khố xanh khố đỏ đứng chờ. Nhóm khách không mời đi nhanh về Nhà Sứ, căn nhà gỗ làm tạm đầu dốc bờ sông.
Chánh phủ lỵ Đặng Liễu không buồn nhìn tập giấy đặt trên bàn trà. Mà không nhìn lại, không đành. Lật từng trang, những khoanh chì đỏ to, nhỏ, nằm gọn trong vòng khoanh to như củ khoai lang, kéo suốt từ đồi Bách Lẫm, đi qua xóm Giếng, ôm chặt đồi Đục, chạy xuống bến Lâu. Vậy là trên có đồi, dưới có sông, phủ lỵ chỉ là một cái chấm bằng hột đỗ nằm trong cái vành khoanh mà người Tây tự ý vạch ra. Chánh thành phủ Trấn Yên Đặng Liễu thấy tức tức trong lồng ngực. Một cơn ho khan bật phát khiến ngài cựu Tri phủ đứng đầu phủ lỵ tối mắt, ngã vật xuống mặt giường:
- Nhục. Thật là nhục cho người Nam. Tưởng là Tuần phủ Hưng Hóa bổ chức Chánh phủ chỉ là để thay cho tri phủ, nào ngờ lại là cái chức của người Pháp ở Hà Nội. Nhục, thật nhục nhã.
Chánh Liễu tỉnh dần. Lại một cơn ho. Ông thấy người nặng trình trịch mà vẫn cố ngồi dậy vẫy hầu nhà, bảo đi gọi Đặng Lanh, ông cần gặp. Lanh đến, Chánh phủ Đặng Liễu chỉ hỏi: “Chú biết những gì về ông Hiệp đốc Nguyễn Văn Giáp, và biết những gì về Đạo binh Cần Vương Tây Bắc?”. Chánh Liễu còn khoe, ông được Hiệp đốc tặng thanh gươm đầu rồng. Với ông, thế là lạ lắm.
Sự chuyện về Chánh phủ Trấn Yên Đặng Liễu hai hôm trước là như thế, mà đội Lanh này cũng chỉ biết được có như thế thôi anh bạn Đào Xuân Thái ạ!
- Biết được như vậy, lại chủ động tìm đến kể về sự việc. Đội trưởng điếm binh Đặng Lanh có công lớn “Cần Vương Phục Quốc” rồi đấy.
Đào Xuân Thái vỗ vai đứng dậy. Hai chàng đội binh cười ha hả.
Tin tức về Chánh phủ Đặng Liễu đến với Bố chánh và Đề đốc Cương ngay sau đó.
Dù phán đoán nhiều hướng, nhiều tình huống xảy ra, nhưng Bộ tướng cánh Bắc của Hiệp đốc Nguyễn Văn Giáp vẫn không tính hết được ý đồ người Pháp ở tuyến trục sông Hồng và sông Chảy.
Sau khi nắm chắc được quân “giặc cỏ Cần Vương” đứng đầu là Nguyễn Quang Bích rời căn cứ Tiên Động di chuyển phân tán, phần vào rừng già, phần ngược tuyến sông Thao. Sa Nô Tây Bắc và thành phủ Hưng Hóa cho đây là thắng lợi và là cơ hội tốt nhất để phát triển đạo quân chiếm lĩnh các vùng đất trọng yếu nhất. Sa Nô nhận chỉ thị của tổng đốc Hà Nội, tập trung đương đầu với “đạo quân Cần Vương ở Tây Bắc”. Hà Nội sẽ cho xây dựng đồn Phú Thọ thành pháo đài quân sự, xây dựng thủ phủ Trấn Yên thành trung tâm dân sự có đồn binh phụ trợ. Chiếc tàu thủy cắm cờ Pháp lần đầu tiên xuất hiện trên Bến Lâu rồi rút xuôi về Phú Thọ là thăm dò, quan sát, chụp ảnh, đo độ nước nông sâu, tìm bãi cập ven bờ. Thành phủ Trấn Yên đặt trên đất làng Bái Yên, rồi khu Bách Lẫm, xóm Giếng, đồi Đục... đã lọt vào ống nhòm, lọt vào bản đồ do thám của đại đồn Phú Thọ. Cũng tàu thủy này, ghé vào ven Văn Phú, hai dân đánh cá “chẳng may” thuyền lưới bị dạt xuống khúc nước Hạ Hòa, được tàu Tây cứu vớt, nay thả họ lên bờ “về quê”. Hai người “dân đánh cá” có cặp mắt lạ ấy là Phung, trung úy, đội trưởng đội do thám cùng Phát, thành viên đội. Trung úy Phung là lính khố xanh trạm binh Tuần Quán của đại úy Ngô Tuân, sau mấy tháng học nghề do thám ở Hưng Hóa, được Trương Đen đưa về Sa Nô, cùng trung úy Quỵch, bí mật xâm nhập Tiên Động thủ phủ của Thủ lĩnh “Bình Tây Phục Quốc” ngay sau ngày có tin báo đạo quân Tiên Động này đã phân chia làm hai hướng đi sông Hồng và đi Yên Lập. Quỵch và Phung cũng bất ngờ trước cảnh trống trơ của Tiên Động, dấu binh quân Tuần phủ Nguyễn Quang Bích vẫn còn rõ mà cả đạo quân đi thoát vào rừng từ khi nào đến người dân Tiên Động cũng không biết.
Báo cáo của Quỵch và Phung được đại úy Trương Đen trưởng phòng mật thám Sa Nô và trung tá Xanh-tơ-ni phó chánh thành phủ Hưng Hóa kiêm đồn trưởng Phú Thọ đánh giá công tích.
Bây giờ thì Quỵch và Phung là đội trưởng hai đội thám báo. Quỵch đi Yên Lập, còn Phung lên Trấn Yên. Làm rõ được tung tích của Hiệp thống Nguyễn Quang Bích, và Hiệp đốc Nguyễn Văn Giáp cùng đạo quân binh của họ, là mục tiêu lên hàm của hai viên trung úy mật thám người Việt chuyên đánh thuê cho giặc Pháp, nhưng dưới sự chỉ huy trực tiếp của đại úy Trương Đen ở Sa Nô.
Phung và Phát thay quần áo định bụng ghé qua trạm binh Tuần Quán, nơi hắn ở mấy tháng trước. Nhưng trạm binh đã tạm thời rút bớt quân số để tăng lượng cho đồn Phú Thọ chỉ còn vài ba lính vệ, Phung thành thạo vùng đất này nên khi biết tin Ngô Tuân trưởng trạm không có ở trại, Phung nhắc Phát đảo bộ quần áo buôn trâu, rồi lên thẳng xóm Giếng ngủ qua đêm chờ sáng mai, ngày rằm, ra nhà đền.
Xóm Tuần Quán có ba quả đồi cây cổ thụ dày đặc, ban đêm lạnh lẽo, u tịch. Lãnh Hặc, lãnh Đa bí mật chiếm cứ đồi Gò Cao gần với Bách Lẫm và lập trại binh, rồi được Bố chánh trang bị quân binh, súng thần công, trại trở thành đồn. Đồn Tuần Quán của đạo binh Cần Vương bắc sông Hồng, cách đồn hai cây số là Sở chỉ huy phía bắc của đạo binh. Hiệp đốc, Đề đốc, và Đốc binh Thái cùng đội hậu vệ ở đây. Cả hai cơ sở vẫn rất bí mật, ngoài đội cận vệ đồn và trại, không một ai biết.
Giáp mặt sông Hồng là đền Tuần. Đền thờ Mẫu Thượng ngàn có từ trăm năm trước, linh thiêng chưa rõ đến đâu nhưng chỉ biết rằng sau ngày chiếm được Tiên Động, rục rịch lập đồn Phú Thọ là người Pháp đưa tàu thủy lên ém sát đền Tuần. Chỉ mấy ngày, lá cờ Tây phần phật, cách cờ Đền chừng năm trăm mét. Dân đi đền tỏ ra thờ ơ với lá cờ Tây kia mà chỉ chăm chăm làm lễ, xong rồi về.
- Bà già này? - Phung hỏi giật một khách đền. - Bà có thích lá cờ Tây kia không?
- Chả thích, mà cũng chả ghét. Tôi chỉ biết có nhà Đền và nhà tôi thôi.
- Thế còn quan thành phủ, dõng binh? - Phung hỏi bám.
- Việc của họ, họ làm, tôi biết được à. Kệ họ chứ!
- Nhưng tôi nghe nếu có quân Cần Vương gì đấy nổi lên ở trên Yên này. Bà có sợ họ không?
Bà nhang đền vừa nhai trầu vừa lắc:
- Không, tôi không nghe. Mà tôi cũng việc gì đâu mà phải sợ họ. Thôi thôi, tôi đi đây.
Bà già quay ngoắt, ôm lễ vật bước lên đền.
Đêm tháng mười ta, dài dặc. Dò la dân phủ về đạo binh Cần Vương mà người dân không ai biết đến, có thể họ đã đi về phía tây. Trung úy Phung tự tìm quyền do thám đối tượng. Hai kẻ thám sát ghé vào quán nước chè bến Lâu.
- Chú dõng, chú dõng binh, vào làm chén chè ngon đã.
- Em không uống nước chè.
- Thì cứ vào quán với các anh, lâu ngày...
Dõng Trình tháo chiếc nón dấu và khẩu hỏa mai khỏi vai, bước vào quán nước quen thuộc.
Sau vài ba câu hỏi han, do thám Phung chợt hỏi:
- Chú canh điếm mà chỉ để trông mấy bè tre nứa, làm sao phát hiện được quân giặc “cỏ” Tây Bắc?
- Giặc cỏ nào? Chánh thành phủ có giao việc ấy cho điếm canh đâu?
- Giặc cỏ Tây Bắc là quân phiến loạn triều đình, chạy theo Hàm Nghi ấy. Đạo này có tên là “Cần Vương”, trú ngụ mấy năm nay ở Tiên Động, Cẩm Khê, bị người Pháp đánh, bây giờ dạt lên Tây Bắc. Coi chừng chúng “làm tổ” ở phủ Trấn này cũng nên.
Phung cứ thao thao như thể người rõ chuyện. Dõng binh há hốc miệng nghe, rồi bỗng ngắc ngư đầu:
- Ờ, à. Hẳn nào, em nghe tin ông chánh Liễu mấy hôm nay phát ốm vì bị người Pháp ép lấy đất, lại phải đứng ra lập các đội dân binh bài Tây phục quốc gì đấy!
- Anh biết rồi. Cái việc lập các đội dân binh là do quân giặc cỏ xúi bẩy đấy. Quân này do Tuần phủ Nguyễn Quang Bích, và Tuần phủ Nguyễn Văn Giáp, thất thủ ở Hưng Hóa, ở Sơn Tây chạy về đây làm loạn!
Do thám Phung cười to, rồi tỏ ra tự tin:
- Người Pháp sẽ dẹp chúng chỉ trong mấy tháng. Ai giúp người Tây sẽ được họ thưởng nhiều tiền, được đi chơi Hà Nội. Còn ai chống lại ấy à? - Phung trợn mắt làm điệu - Lên giàn thiêu, giàn thiêu!
Dõng Trình nghe run hết cả người, đứng dậy:
- Thôi, thôi. Em đi lên điếm canh đây.
Phung bước theo ra ngoài mặt đường.
- Này chú Trình, chú cầm ít tiền tiêu. Chỉ cần dò được tin về quân “Cần Vương”, và ý định của ông chánh Liễu với người Pháp thế nào, rồi tìm gặp anh, nói rõ, nói đúng. Thế là chú được người Tây trọng thưởng rồi. Nhưng nhớ rằng chỉ riêng chú biết việc này. Nhớ đấy!
Trình gật đầu, đút mấy đồng bạc trắng vào túi, bước đi, miệng lẩm nhẩm: “Anh Phu, nơi hẹn gặp, ký hiệu...”.
Quả thật, nhóm thám báo Phung, Phát không uổng công, chỉ dăm sáu ngày nằm lại khu vực phủ lỵ Trấn Yên, Phung đã nắm được ít nhiều tin tức, đại úy trưởng phòng mật thám Trương Đen nhận xét “đều là tin mới, quan trọng, cần cho người Pháp biết ngay”.
Trương Đen còn đang đắn đo việc gửi báo cáo lên Sa Nô thì bất ngờ một đoàn ba chiếc tàu thủy cắm cờ Pháp từ Hà Nội ngược sông Hồng cập bến Lâu, phủ Trấn Yên. Trưởng phòng mật thám hỏi tham mưu trưởng Xanh-tơ-ni thì được trả lời: “Đó là việc của Toàn quyền và thống sứ!”. Trương Đen im.
“Thế có nghĩa là người Pháp tự do đến nước phớt lờ cả phòng mật thám An Nam của chính họ”. Đại úy Đen thấy tức nghẹn cổ mà vẫn cố lặng yên vừa làm vừa theo dõi. Trung úy Phung được giao việc trở lại phủ thành Trấn Yên, nhưng lần này nhiệm vụ chính của anh ta lại là điều tra việc làm của người Pháp ở vùng đất thành thị.
Dõng Trình nghe đám dõng binh điếm Lâu bàn tán về việc người Pháp tự ý vẽ bản đồ khoanh đất lập đồn làng Bái Yên, làm cho ông Chánh phủ thành Đặng Liễu bực tức. Ông chủ cho mời các hào lý khu vực đến họp bàn. Các ý kiến sôi sục cả gian nhà. Người phản đối, kẻ đồng tình.
Giáo học Văn vốn là đồ nho có tiếng, hàng lý dịch cũng phải nể mặt. Đồ Văn khăng khăng:
- Tôi nói không là không! Đất người Việt là của người Việt. Trên có triều đình, có quan tuần phủ, quan tri huyện, chánh thành phủ, rồi chánh tổng, lý trưởng. Đất đai có thổ hào, điền chủ. Hàng binh an dân có đội lễ, dõng binh, dân binh... Trăm năm nay vẫn cứ sống, vẫn cứ hòa thuận đấy thôi.
Đồ Văn nói mạnh, nói có lý có tình, nửa gian nhà họp lao xao đồng tình việc làm văn tự ký đơn tập thể gửi lên Tuần phủ Hưng Hóa nhờ can thiệp.
Một giọng nói to, rõ cất lên:
- Tôi, tôi ủng hộ cụ Đồ Văn.
Mọi người ngoảnh nhìn, thì ra, dõng binh Trần Đình Khắc. Khắc từng là hầu cận của Hoàng Văn Thúy ngày ông làm Chánh tổng Cẩm Khê. Hoàng Văn Thúy về Hưng Hóa với Tuần phủ Nguyễn Quang Bích, Trần Đình Khắc xin về quê Minh Quân chăm sóc mẹ già rồi làm dõng binh Minh Quân đến khi Chánh thành phủ Đặng Liễu biết mặt, vời về làm quản binh cụm Bách Lẫm, xóm Giếng. Trần Đình Khắc rút trong người ra con dao găm giơ lên cao, nói sang sảng:
- Ai theo tôi ra làng Tuần Quán đánh người Pháp?
- Ra Tuần Quán, đánh trại binh Pháp? - Mọi người nhìn nhau, lắc đầu.
- Ôi, ôi. Đừng đụng vào tổ ong!
- Không, ở Tuần Quán còn có quân binh Cần Vương nữa. - Một người lên tiếng.
- Ai ? Cái gì Cần Vương - Mấy người ngơ ngác.
Một thanh niên đứng hẳn lên:
- Quân Cần Vương Bình Tây Phục Quốc chính là Hiệp Triệu chứ còn ai nữa?
- Hiệp Triệu, Quản Triệu ấy à. Chỉ huy quân Cần Vương chống Pháp à? Thế thì ta theo. Hiệp Triệu giỏi, mà thương người. Ta theo Hiệp Triệu.
- Đồng ý. Đồng ý theo Quản Triệu. - Cả phòng họp xôn xao.
Chánh thành phủ Đặng Liễu đứng dậy:
- Điền địa, làng quê là của ta. Tiên tổ ta thờ phụng cớ gì người Tây đến chiếm giữ đòi phải giao cho họ? Cớ gì? Tôi chỉ biết có Triều đình, biết có Tuần phủ. Tôi làm việc của dân tôi.
- Nhưng người Pháp không để cho ta yên đâu. Ta không cho, họ cũng vẫn chiếm đất, cũng vẫn xây đồn. Sức ta không có, nên cùng bàn với Quản Hiệp Triệu chống lại người Pháp. - Ông Đồ Văn vẫn cố thuyết phục.
Chánh phủ Liễu xốc lại chiếc mũ xếp, vuốt vuốt tay áo Triều phục, khẳng khái:
- Tôi đồng ý với các vị. Thành phủ ta sẽ phối hợp với Quản Triệu, lập dân binh chống người Pháp, ủng hộ đạo quân Cần Vương Tây Bắc, Bình Tây Phục Quốc.
- Hoan hô ông Chánh phủ Liễu. Ghi vào, ghi vào văn tự đi.
Cuộc họp lại xôn xao, mấy thư nho hý húi ghi chép. Cụ đồ Văn nắm hai tay Chánh thành phủ:
- Cảm ơn ngài. Cảm ơn ông Chánh. Phải thế, dân tôi mới hả lòng hả dạ.
Đồ Văn cười, cái cười rất nho gia của một người đứng tuổi làm cho Chánh thành phủ Đặng Liễu cảm thấy yên tâm hơn.
- Rồi sao nữa? - Do thám Phung hỏi tiếp dõng Trình.
Trình định nói: “Ngay sau cuộc họp bô lão ấy, chánh thành phủ cho đội Lanh lên Tuần Quán tìm gặp Hiệp Triệu để hẹn ngày bàn việc hiệp sức với quân Hoàng Đình Cương”, chợt nghĩ thế nào, dõng Trình dừng lại, tìm cách nói lảng.
- Sao nữa? - Phung giục.
- Dạ. Xem ra các cụ ấy lo chuyện người Pháp đến, sẽ mất quyền tự do.
- Hừ. Chẳng những mất quyền mà còn phải cống nộp nữa chú mày ạ - Phung nói.
Dừng giây lát. Phung tự nói:
“Còn cái đoàn tàu thủy ba chiếc hôm qua, nó lên đến Lâu, rồi lại đảo về Hà Nội. Chú Trình nắm bắt thông tin xem người Pháp định làm gì, ông Chánh phản ứng thế nào. Vậy nhé. Này, chú cầm mấy đồng trước”. Phung móc túi.
- Vâng. Trình đáp, cầm bạc trắng rồi bước đi.
Nhìn theo sau Trình, Phung nghĩ loáng thoáng: “Ông chánh thành phủ mà chống lại người Pháp thì phải dựa vào ai? Hay là quân binh Nguyễn Quang Bích ở quanh quẩn đâu đây? Hay là có kẻ xúi bẩy dân chúng tự phát bài Tây. Hay là...”. Do thám Phung trở về ngay đồn Phú Thọ nơi phòng mật thám Sa Nô mới chuyển đến đóng tạm tại đây nhằm kiểm soát cả vùng.
Sau khi cơ bản dẹp được quân “giặc cỏ Tiên Động”, thiết lập xong các đồn to, nhỏ dọc dải sông Đà, sông Thao. Toàn quyền Đông Dương chỉ thị cho công sứ Bắc Kỳ tướng Mu-ni-e-giơ điều chỉnh tổ chức Sa Nô Tây Bắc thành Quân khu miền Tây do tướng Bríc-đờ-lin làm thống quản, đồng thời lập ra các đạo binh trực thuộc công sứ. Hệ thống chính quyền dân sự từ trung ương (Triều đình Đồng Khánh) đến châu, tổng đang dần được thay thế nhân sự.
Thống quản Tây Bắc Bríc-đờ-lin tiếp nhận quyền điều hành từ tay tướng Boóc-bi-ông chỉ huy Sa Nô. Dưới quyền của Bríc-đờ-lin một loạt sĩ quan được điều động: Xanh-tơ-ni thôi làm đồn trưởng Phú Thọ, đại tá Xác-lăng không còn làm chánh thành phủ Hưng Hóa, ghế này dành cho dân sự. Đơ-biêng-đơ, thiếu tá đoàn trưởng pháo binh cũng nhường chỗ cho thiếu tá Brê-ăng-ghe một sĩ quan thủy bộ chuyên nghiệp. Các sĩ quan có công trong trận đánh tập kích vào Yên Bái như Mi-bi-en, Gô-danh, Mốt-xti-ông... đều được phong chức chỉ huy đạo quân.
Nhóm sĩ quan người Việt: Trương Đen, Ngô Tuân, Phụng, Quỵch... cũng được nhận “lộc”, mỗi người một chai sâm banh vào bao thuốc lá cô táp.
Thống quản miền Tây, tướng Bríc-đờ-lin, và tổng chỉ huy đạo quân Nhị giang (sông Hồng, sông Chảy) - tướng Gia-mông, âm thầm lên “kế hoạch quét sạch giặc cỏ phiến loạn”. Chiến dịch “Bình an Nhị giang” được trình lên toàn quyền Bắc Kỳ ở Hà Nội, chỉ một tuần sau phủ toàn quyền ra lệnh thực thi.
Đại tá Giêm-mô-lanh tham mưu trưởng miền Tây đưa mắt trên trang báo cáo ngắn do phòng mật thám gửi đến: “Bản doanh Tiên Động đã bị triệt hạ, nơi này chỉ còn nhóm quân trung thành với Tuần phủ do Trịnh Bá Đanh cầm đầu, chủ yếu gây rối. Tuần phủ Nguyễn Quang Bích và bộ tướng của ông ta đang ở đâu, chưa rõ. Tuyến Nhị giang xuất hiện quân tù trưởng địa phương chống lại người Pháp...”.
Giêm-mô-lanh đọc đi đọc lại. Ngôn ngữ An Nam phức tạp, một từ, một ngữ ghi trong từ điển lại có thể hiểu nhiều ý theo nghĩa khác nhau. Người Pháp muốn bảo hộ được dân An Nam, phải hiểu văn hóa, tiếng nói, chữ viết của cái dân xứ này!
Đại tá Giêm-mô-lanh ngồi ghé xuống đi-văng hiên nhà, trầm ngâm: “Có thực Tiên Động đã bị triệt hạ hay chỉ là cách nghi binh của quân phiến loạn chủ chiến? Ông Tuần phủ Hưng Hóa thất thủ bây giờ đã là Đại thần Hiệp thống của triều đình tự xưng Hàm Nghi, mối liên hệ giữa ông ta với các quan Triều này ra sao. Lại còn thành phủ Trấn Yên nữa, người Pháp muốn lập được đồn Làng Bái thì chánh thành phủ và các hào lý phải là người của nhà nước bảo hộ...”.
Bất chợt Giêm-mô-lanh gật gù: “Nhưng mà được, Trương Đen và nhóm “Chuột rừng” của ông ta, thế là được. Rất cần những người An Nam như họ!”.
- Báo cáo đại tá!
Giêm-mô-lanh quay lại. Trung úy điện tín Gioăng đã đứng kề bên.
- Mời ngài nghe vô tuyến điện, tướng Gia-mông đang chờ.
Gioăng đưa máy rồi dập gót chân, lùi lại vài bước.
- Vâng. Vâng. Phương án 2, kế hoạch A. Vâng. Tôi nghe rõ. Tuân lệnh!
Đại tá tham mưu trưởng miền tây Giêm-mô-lanh đưa máy cho trợ lý điện tín, rồi buông nhẹ câu tiếng Tây: “Vậy là cuốn chiếu, chứ không đổ bộ! Nhưng “cuốn chiếu” theo hướng nào? Ngược sông Thao, có chắc chắn quân tướng Nguyễn Quang Bích dạt lên đây không? Quân phiến loạn giỏi rừng núi chứ không giỏi sông nước, nếu họ có ngược sông Thao, sông Chảy, rồi cũng lên lập cứ ở miền rừng chứ không thể là cánh đồng hay ven sông”.
Điều Giêm-mô-lanh suy luận có lý, nhưng không được tướng Gia-mông đồng tình. Trợ lý riêng của Gia-mông khăng khăng “Thủ lĩnh và tay chân của giặc cỏ Tiên Động” đã lên Hạ Hòa, rồi sẽ đi tiếp đến Văn Bàn, Bảo Hà cho gần với Lào Cai nhằm trông chờ vào Vân Nam.
“Chậc! Phương án 2 của kế hoạch A! Vâng. Ngài quyết định, ngài Gia-mông!”.
Đại tá Giêm-mô-lanh bước vào phòng riêng.
Tướng Gia-mông đích thân giao trọng trách cho đại tá Xác-lăng làm chỉ huy trưởng và thiếu tá Đơ-biêng-đơ, thiếu tá Béc-beng-ghe người chỉ huy đánh chiếm Hàm Rồng mới được phong hàm, làm phó chỉ huy, mở cuộc đại càn vào chân núi Tiên Sơn, làng Tiên Động nơi là bản doanh của Quan đại thần.
Đạo quân của Xác-lăng chia làm ba cánh cùng một lúc bất ngờ đổ bộ vào làng Tiên Động.
Tiên Động trống trơ, chỉ có người dân làm ruộng, không thấy bóng dáng quân binh hay dân binh. Quanh chân dãy Tiên Sơn cũng vậy, đạo quân của Đơ-biêng-đơ không vấp phải sự kháng cự nào. Xác-lăng ra lệnh cho quân khố đỏ, khố xanh, không được bắt bớ đánh đập người dân nếu họ không kháng cự.
Chỉ huy Xác-lăng nhận tin đàm điện từ Giêm-mô-lanh tham mưu miền Tây.
“Quân phiến loạn đang co cụm về Đầm Đen, có thể thủ lĩnh của chúng đang ở đó, ngài cho truy kích, bao vây bốn mặt đường đất”.
Giêm-mô-lanh nói thêm:
“Đây là lệnh của tướng Gia-mông!”.
Chỉ huy khu vực Đầm Đen là Tham tán Lê Đình Dật người làng Lang Sơn, Ấm Thượng và lãnh binh Đào Văn Toát ở Văn Lang, Hạ Hòa. Thông hiểu vùng đất, tán Dật và lãnh Toát cho binh quân đắp bờ cao rồi trồng tre gai làm rào tạo phòng tuyến chống giặc.
Công trình “bờ đắp” đang hoàn thiện thì được tin báo, Lê Đình Dật ra lệnh các tổ đội nghĩa quân vào vị trí mai phục chặn đánh từ bến mặt bờ đắp.
Đội trưởng quân Lê Bá nhận được lệnh vội chạy đến:
- Quan Tán, thế giặc mạnh lắm. Ngài nên cho nghĩa binh rút về Ao Châu để bảo toàn binh lực, chiến sự lâu dài?
Tán Dật khảng khái:
- Tôi với đội trưởng quân đã mấy lần đánh nhau với quân Pháp ở Đầm Đen này rồi, họ có làm gì được ta đâu? Người Pháp vào được bản doanh Cây Si tất bước qua xác ta.
Lê Bá khẩn khoản:
- Quan Tán. Việc bảo vệ bản doanh gò Cây Si là phần của Lê Bá này. Xin ngài và đội binh rút lui càng sớm càng tốt.
Lê Đình Dật trầm ngâm, tay nắm chặt đốc kiếm, nhìn Lê Bá, chầm chậm nói:
- Đầm Mực, gò Cây Si, gò Bồ Đề, đầm Vàng, bờ Đắp gắn bó với ta và quân binh đã mấy năm nay. Những trận kịch chiến nơi này làm cho giặc Tây phải tháo chạy. Nay, nếu phải từ giã bản doanh mà lui binh, đội tướng cho ta về Bằng Doãn, đặt bản doanh ở gò Tràn. Bằng Doãn phát triển quân binh rộng ra Đoan Hùng và ngược cả sông Lô, sông Chảy lại vẫn rẽ về Hạ Hòa mà ngược sông Thao. Thế chẳng hay sao?
Lê Bá chắp hai tay cúi mình rồi nắm đốc kiếm:
- Quan Tán. Ngài cứ sẵn theo hướng đã định, đội tướng sẽ quyết chặn chân người Pháp tại Bản doanh Đầm Sen này. Chào Quan tham tán.
Lê Bá tay nâng đốc kiếm cúi đầu rồi vội vã rời dinh tham tán chạy đến lán lãnh Toát truyền lệnh Tán tương.
Bỗng có tiếng vó ngựa. Hậu vệ canh gác bản doanh bước nhanh tới trước mặt Lê Đình Dật:
- Tham tán chủ trại. Ngài có thư của Trịnh Bá Đanh.
- Ngài Tán tương. Thám sát báo tin, đạo binh Pháp có đến ba mũi đang tiến vào vây Đầm Mực. Thủ lĩnh của ta đã qua ải Rừng Già. Khảm tôi và Tán áo sẽ rút lên làng Âu Cơ rồi hướng về đầm Hội. Tán ngài chủ động đường trường. Mong ngày hợp lực.
Lê Đình Dật bần thần: “Mỗi người một phương rồi đây? Vừa đánh, vừa rút. Ngược theo sông Hồng, sông Chảy. Sẽ lại về được Tây Bắc với Thủ lĩnh!”.
Tham tán, Tán tương Lê Đình Dật khoác bao kiếm lên lưng theo chân hai hộ vệ, rời bản doanh Đầm Đen.
Lê Đình Dật và đoàn quân binh chỉ có mã tấu, gươm, súng kíp và cung nỏ lên đến bờ ngòi Lao trên đất Bằng Giã thì chạm nhau với đội quân Pháp. Đội quân Pháp do đại úy Béc-măng-mông-ti chỉ huy đi bằng đường tàu thủy ngược sông Thao đổ bộ vào bờ đất dàn trận phục kích.
- Quân phiến loạn kia rồi. Quân phiến loạn!
Béc-măng-mông-ti rời tay ống nhòm, cười thích chí, rồi bỗng nhăn bộ mặt đầy lông vàng quát lên:
- Tiến đánh. Bắt sống thủ lĩnh tuần phủ phiến loạn!
Quân binh Tán Dật vẫn chưa hề biết đạo quân mình bị một đại đội lính khố đỏ, khố xanh đang đón lõng nên vẫn cứ kéo nhau đi theo đường rút. Phía sau quân binh là tiếng súng hỏa mai, súng kíp, nghe tiếng, biết có cả súng bờ-ra-nô của Tây. Quân của Đội tướng Lê Bá đang kìm chân giặc ở bản doanh Cây Si! Tán Dật nghĩ, vừa thương Lê Bá, vừa lo việc rút lui.
- Đánh! - Một tiếng thét to. Rồi loạt đạn bờ-ra-nô áp đảo.
- Bị phục kích. Bị quân Pháp phục kích rồi. Đánh trả, tử chiến - Tán tương Dật trại trưởng quân binh hét lên.
Quân Đầm Mực không chần chừ xông thẳng vào trận. Mạng giáp mạng người. Tiếng súng nổ xé tai, tiếng gươm giáo va vào súng Tây chan chát.
- Quan Tán. Ngài bơi qua sông Thao đi. Nghĩa binh tôi kìm chân giặc.
Tán tương Lê Đình Dật ngoảnh lại, năm sáu quân binh Đầm Đen có ý hộ tống. Bỗng một tên khố đỏ nhận ra dáng hình quắc thước vạm vỡ, lại xông xáo của Tán Dật, y cho rằng đó là Nguyễn Quang Bích nên kêu to:
- Đây rồi, tên Thủ lĩnh giặc cỏ Tiên Động đây rồi. Bắt, bắt sống, bắt sống!
Tên khố đỏ không bắn mà xô lại vung báng súng đập mạnh. Tán Dật né nhanh. Cú đập của tên khố đỏ bị hụt hẫng, hắn chới với. Trại trưởng Đầm Mực Lê Đình Dật xỉa ngang mã tấu. Tên khố đỏ ngã gục, giãy giãy trên vũng máu.
- Quan Tán. Nhảy xuống sông bơi sang Tây Cốc. Mau lên.
Tướng quân binh Đầm Mực Lê Đình Dật lúc này, như được lệnh cấp trên, liền vung mã tấu ra lòng sông rồi văng mình xuống bờ nước, mười mấy quân binh hộ vệ băng theo. Những con “chạch chấu” từng sống vùng sông trũng, bơi trên sóng mặt sông Thao. Đám khố đỏ khố xanh chạy đến bắn tới tấp xuống dòng sông đục phù sa. Phía tây Đầm Đen, lãnh binh Đào Văn Toát chỉ huy đội binh vừa đánh vừa rút về Ao Châu, bỏ lại Đầm Đen mấy xác giặc. Chỉ sau một ngày đêm, quân Pháp chiếm được hậu cứ Tiên Động, Đầm Mực, toàn vùng Cẩm Khê, Hạ Hòa nằm trong sự kiểm soát của chúng. Tướng Pháp Gia-mông nâng trên tay khẩu súng ngắn, tuyên bố:
- Không tìm thấy Thủ lĩnh quân giặc cỏ Nguyễn Quang Bích và binh tướng của ông ta!
Đại úy Ngô Tuân, cai mật thám đạo quân Nhị giang bước đến:
- Thưa ngài thiếu tướng, tôi đại úy Ngô Tuân, xin cung cấp tin tức mới nhất.
Mắt Ngô Tuân vừa như sáng lên, lại vừa như muốn thăm dò viên tướng Pháp:
- Đại úy. Ngài nói đi. Nhà nước bảo hộ luôn cần những người như ngài.
Ngô Tuân thấy hào hứng liền tâu ngay những gì y dò xét được qua trung úy Phung mà chưa được Trương Đen đồng ý.
- Ông cựu Tuần phủ không đi theo hướng ngược sông Hồng, sông Chảy. Hậu cứ Đầm Mực chỉ là trại binh quân phiến loạn nhằm bảo vệ Tiên Động và cuộc rút lui của Nguyễn Quang Bích. Vệ tướng Đầm Đen này là Trịnh Bá Đanh, Hà Công Cấn, Lê Đình Dật vừa đã tháo chạy. Xin ngài cho truy kích ngay.
- Ồ. Được, được! Nhưng theo hướng nào, ngài có chắc chắn không?
- Tôi đảm bảo với ngài thiếu tướng là đúng.
Gia-mông vỗ vai Ngô Tuân:
- Rất tốt, ngài xứng đáng được trọng thưởng.
Tướng Pháp Gia-mông tổng chỉ huy mặt trận “Nhị giang” quay điện tín đàm thoại với cấp trên. Tướng Bríc-đờ-lin, Thống quản miền Tây khuyên ngăn:
- Ngài thiếu tướng. Thế là tốt, nhưng có phần vội vàng. Toàn bộ Cẩm Khê, Hạ Hòa, đã được kiểm soát, ta sẽ chuẩn bị kỹ hơn rồi quét vùng thượng nguồn sông Thao cũng chưa muộn.
Gia-mông bằng lòng vì mục tiêu cấp trên giao, đã được thực hiện.
Tán tương Lê Dình Dật cùng mười mấy quân binh nghĩa sĩ, lần thứ hai bơi vượt sông Thao sang thủ phủ Hạ Hòa. Thấy ở đây chưa ổn, Lê Đình Dật cùng các nghĩa binh tìm về Bằng Doãn quê hương của một vệ sĩ trung thành. Tại đây, thôn Cổ Tích, Đoan Hùng, Tham tán tương Lê Đình Dật quyết định xây dựng lại căn cứ chiến đấu mà ngài đã từng nhen nhóm và tuyên bố mạnh mẽ: Trung thành với Hiệp thống, bài Tây, phục quốc.
Tổng khảm Trịnh Bá Đanh và Tán tương Hà Công Cấn đưa nhóm quân binh mấy chục người lên đến Tuần Quán, được Phó tướng công Bố chánh và Đề đốc Hoàng Đình Cương thân chinh xuống chân đồi Trại chờ đón. Ai nấy mừng vui, mới gần tháng trời xa nhau mà cảm thấy dài dằng dặc. Không còn giữ được hậu cứ, nhưng đã đánh lạc hướng do thám của người Pháp để Thủ lĩnh Hiệp thống và bộ tướng rút lui về Tây Bắc an toàn. Nắm được kế hoạch tiến đánh, truy đuổi của đạo binh Pháp, Bố chánh Nguyễn Văn Giáp bí mật tổ chức buổi họp bàn cách chống lại.
- Thành phủ Trấn Yên sẽ là nơi tranh chấp giữa ba thế quân mà quân binh ta không có lợi thế - Bố chánh Nguyễn Văn Giáp ngẩng nhìn, rồi nói tiếp - Người Pháp đang có ý đồ lập bộ chánh sứ và đồn chính, ông Chánh thành phủ và các hào lý ra sức giữ đất giữ dân. Chỉ riêng làng Bách Lẫm và Tuần Quán, vừa có đội quân ta, có đội quân Pháp, và Hiệp Triệu, đội quân thành phủ.
Hoàng Đình Cương đứng lên:
- Thủ phủ Bách Lẫm là nơi khó giữ; đại binh Pháp sẽ đánh chiếm để lập Chánh sứ dân sự. Xin ngài Hiệp đốc Phó tướng công giao việc trấn giữ này cho các tướng binh Hiệp Triệu, lãnh Đa, lãnh Hặc. Mặt sông Chảy phủ Bình giao cho Đốc binh Nông Đình Tẩn và Đội binh Nông Đình Tần. Hướng tây, giao cho Tổng khảm và Tán áo. Ngài Bố chánh và bộ sĩ phải gấp rút hợp binh với Thủ lĩnh Hiệp thống như kế hoạch đã định.
Hồ Văn Hặc khép hai nắm tay đưa ngang mặt:
- Thưa quan Bố chánh. Đề đốc Hoàng Đình Cương nói thế là phải lắm. Quân Pháp sớm muộn sẽ đánh chiếm và lập đồn Làng Bái. Xin ngài Bố chánh và Đề đốc cùng Trịnh Bá Đanh và Hà Công Cấn rời đầm Vân Hội vào Văn Chấn hợp binh. Chúng tôi sẽ trụ lại Tuần dinh mà kìm chân giặc. Nhược bằng không nổi, ấy là do trời định vậy.
Lãnh Hặc nói, khiến lãnh Đa, Hiệp Triệu, Hoàng Đình Cương, Tổng khảm Trịnh Bá Đanh như muốn ứa nước mắt.
Bố chánh lặng lẽ, tính ngài kiên nghị, bản lĩnh. Lòng dạt dào mà chí cứng như đá. Ngài đi đi lại lại trên nền lán trại Bách Lẫm rồi bất ngờ nói:
- Mấy tháng nay ta nương nhờ cửa chùa Bách Lẫm, cửa phật Đại Am, nhờ trời phật phù hộ, mà ta kết anh em được với tù trưởng Nông Đình Tẩn ở Phủ Bình, lập đồn sông Chảy. Lại hòa hợp được với Chánh thành phủ Trấn Yên Đặng Liễu, kết tình thân hữu được với Đặng Lanh, Hiệp Triệu, hai ông đã dấn thân Cần Vương Bình Tây Phục Quốc. Thế là nhờ Đức Phật thiêng liêng nơi Bách Lẫm, Ngọc Am và thần thổ làng Bái Dương này. Nay thế giặc như sóng nước, ta lui về Tây Bắc lo kháng chiến lâu dài cũng là phải lòng trời phật. Đội ơn người phù hộ.
Dứt lời. Bố chánh tuốt gươm đầu rồng đặt lên đầu ngón tay cứa mạnh. Dòng máu đỏ tươi bật ra, ngài ngửa cổ để những giọt máu đào tự rơi vào miệng. Hoàng Đình Cương vội lao đến lấy khăn quấn chặt ngón tay đang nhỏ đỏ:
- Phó tướng công. Ngài cắt máu thề, là đã không hổ thẹn với tổ tiên, với Đức vua Hàm Nghi. Chúng tôi nguyện tử chiến với giặc Pháp mà phụng sự Cần Vương.
Hoàng Đình Cương quỳ xuống. Tổng khảm Trịnh Bá Đanh, Tán áo Hà Công Cấn, lãnh Hặc, lãnh Đa, Hiệp Triệu, Đặng Lanh, nắm tay, quỳ gối đồng thanh:
- Chúng tôi nguyện tử chiến với giặc Pháp mà phụng sự Cần Vương!
Ngày mùa đông. Trời sâm sẩm tối. Thành phủ Trấn Yên chìm dần trong làn sương mỏng. Tiếng sóng sông Hồng vỗ nhẹ vào bờ đá Bách Lẫm. Đề đốc Hoàng Đình Cương cho liên lạc đem chỉ lệnh của Hiệp đốc đến phủ Bình ngay trong đêm. Cũng trong đêm mờ sương tháng Chạp ấy. Bố chánh, Đề đốc, Tổng khảm, Tán áo và đoàn binh lặng lẽ rời Bách Lẫm, đi về phía đầm Chín Ngách, Vân Hội. Lãnh Hặc, lãnh Đa, Hiệp Triệu, Đặng Lanh thắp nến, bàn việc rút vào rừng Nam Cường mà vẫn giữ nguyên lá cờ Bình Tây Phục Quốc trên đồi cao, giáp với đền Tuần Quán.
Nhận được thư lệnh của Tướng quân Bố chánh, Đốc binh đồn trưởng Thu Vật đặt tại Đại Đồng giữa nguồn sông Chảy ra lệnh cho Đội binh trạm trưởng sông Lô Nông Đình Tần cho quân canh suốt ngày đêm bám sát chòi gác, phát hiện tàu thủy hay quân bộ của khố đỏ khố xanh đều phải cấp báo.
Từ ngày làm lễ kết tồng với Đề đốc Hoàng Đình Cương, tù trưởng Nông Đình Tẩn nhớ nhung ngày đêm, những chỉ mong trời đất thanh bình, dân lành xuôi ngược chợ Ngà, chợ Ngọc, anh em huynh đệ thường ngày gặp mặt, lúc chén chè xanh, khi trò chuyện về Cao Biền, về Chúa Bầu, về Thượng tướng Trần Nhật Duật; lại có lúc nhâm nhi những truyện cổ dân gian Thác Ông, Thác Bà, Thác Ô Đồ, hay sự tích núi Ngàng, sự tích Hoàng tử Gà bạc vừa ly kỳ, vừa đời thực. Ôi sao mà mong có những ngày anh em bạn bè thân hữu gần xa hợp mặt ấy thế? Nghĩ ngợi lan man, Đốc binh tù trưởng người Tày Nông Đình Tẩn thiếp đi giữa trưa trời lạnh.
Đội binh Hoàng Lai bước vội lên tư dinh đồn trưởng:
- Tướng quân Thu Vật. Ngài...
Hoàng Lai vẫn thân mật gọi Đốc binh Tẩn là “Tướng quân Thu Vật”. Thấy tiếng ngáy đều đều của Đốc binh, đội Lai quay ra. Nghĩ thế nào, liền mạnh bước trở lại, gọi to:
- Đốc binh tướng quân, có việc cấp báo!
Nghe câu gọi lọt tai, Nông Đình Tẩn choàng dậy.
Đội Lai nghiêm trang:
- Đốc binh. Đêm qua người Pháp đã bí mật đổ quân dựng trại khố đỏ ở làng Lạng rồi.
Đốc binh tỉnh táo:
- Có đúng không? Cụ thể thế nào?
Đội Hoàng Lai:
- Đúng ạ. Thám sát của ta còn vẽ được cả hình nhà trại, nói rằng có khoảng năm mươi khố đỏ khố xanh. Trưa nay họ phá đất xây đồn.
- Nông Đình Tần biết chưa?
- Cũng chưa rõ.
Đốc binh trầm ngâm, rồi quả quyết:
- Cho người báo ngay đến đội Tần, rạng sáng mai, lúc gà gáy ba, Tần chỉ huy quân đánh thẳng trại Lạng. Bên sông Chảy, đội Lai cùng ta đánh ập vào, tất phá tan trại giặc.
- Rõ! - Đội Lai quay ra.
Đồn trưởng Thu Vật cho kéo khẩu súng thần công đặt lên bệ rồi đích thân ngài thắp hương tế trời. Các hạ tướng đứng bên vung gươm giáo thề giết giặc Pháp.
Chỉ huy trại lính Phủ Bình là đại úy Mi-bi-en, vừa cho quân khố xanh dựng đồn, vừa cho nhóm khố đỏ phục quanh đề phòng dân binh địa phương quấy rối.
Tướng Gia-mông cho quân Mi-bi-en hành quân bí mật chiếm một quả đồi sát với phủ Đại Đồng, dựng trại. Chỉ một ngày sau Gia-mông lại phái thiếu tá Brê-ăng-ghe dẫn một tiểu đoàn lính chiến tiến thẳng đến Đại Đồng để tuyên bố lập đồn Phủ Bình, Thu Vật.
Đồn trưởng đốc binh Nông Đình Tẩn không hề hay biết quân Pháp đã bổ sung một tiểu đoàn khố đỏ nên vẫn đúng lệnh canh ba, một khối rơm to được tẩm dầu hỏa được đẩy tới trại lính rồi phóng lửa. Ba phía, quân binh do Nông Đình Tẩn, Hoàng Lai, và Nông Đình Tần chỉ huy hò hét vang trời xông vào trại khố xanh. Quân giặc bị đâm chém tới tấp, chết như rạ. Trại khố xanh ngùn ngụt cháy, đại úy Mi-bi-en vừa chạy ra khỏi lán dinh đã bị hai quân binh người Tày dùng miếng võ dân tộc quật ngã. Quan tư Pháp Mi-bi-en bị trói chặt trong đêm tối.
Rủi cho quân binh nghĩa sĩ. Vừa lúc tưởng như chiến thắng thì đạo quân Pháp do thiếu tá Brê-ăng-ghe vô tình tiếp viện. Quân nghĩa binh bị kẹt giữa hai đội lính Tây. Quan tư Mi-bi-en được cứu thoát. Đốc binh Nông Đình Tẩn thấy tình thế nguy cấp liền ra lệnh mở đường máu, chọc thủng hàng rào lính Tây chạy ra ngoài.
Trời tang tảng sáng. Đội binh Nông Đình Tần, đội binh Hoàng Lai đều bị thương nặng, quân binh nhờ việc nhớ rõ đường đất nên đều chạy xuống sông Chảy trốn thoát. Đốc binh đồn trưởng Nông Đình Tẩn ra lệnh đốt ngòi nổ. Ba phát súng thần công từ đồi cao Đại Đồng nổ vang trời phá tung trại lính Tây vừa dựng.
Trời sáng hẳn. Quân nghĩa binh tản hết về các làng bản Đại Đồng châu Thu Vật2.
Trịnh Bá Đanh và Hà Công Cấn vừa đưa Hiệp đốc Nguyễn Văn Giáp, Đề đốc Hoàng Đình Cương và nhóm nghĩa binh chừng trăm người lên bến Chanh, vượt bè tre nứa sang được bên kia sông Hồng, thì cũng là lúc quân Pháp ập đến thành phủ Trấn Yên.
Theo lệnh của thống quản miền Tây Bríc-đờ-lin, tướng Gia-mông phải kiểm soát toàn bộ thành phủ trong hai ngày, sa thải chánh thành phủ Đặng Liễu và đội dõng binh địa phương. Lập xong đất bản doanh chánh sứ và đất đồn làng Bái Dương. Từ Bái Dương sẽ tiến công Lào Cai và Tây Bắc.
- Ngài lãnh Hặc. Quân Pháp đã tràn vào làng Bái Dương rồi, cờ Tây đã treo lên ngọn cây ven đường - Hiệp Triệu vừa nói vừa như thăm dò Chủ tướng Tuần Quán.
- Ý ngài thế nào?
- Thế giặc mạnh lắm, nhưng thế nào chúng cũng tập trung quân ở trại lính Tuần Quán. Ta nên mai phục ngay, rồi đánh một trận...
- Được. Được!
Lãnh Hặc giao cho lãnh Đa, Hiệp Triệu rút hết quân Bách Lẫm, Nam Cường về bí mật phục quanh trại Pháp ở Tuần Quán. Lại cho Đặng Lanh, Đội Thích phục sẵn bên làng Hào Gia khi có lệnh đánh ập vào hoặc chặn đường quân giặc rút xuống Văn Phú.
Đúng như phán đoán của Hiệp Triệu, tướng Gia-mông điều đạo quân Brê-ăng-ghe và Mốt-xti-ông từ Phủ Bình đến, Mi-bi-en từ Đại Đồng sang thành phủ Trấn Yên, tất cả được tập kết về trại Tuần Quán.
Mới đặt chân đến Tuần Quán, đại úy do thám Ngô Tuân đã xun xoe:
- Ngài Brê-ăng-ghe. Chúc mừng ngài được lên lon thiếu tá!
- Cám ơn, cám ơn đại úy. Tuần Quán của ngài hiện nay ra sao?
Ngô Tuân chưa kịp đáp thì trung úy Phung cướp lời:
- Thưa các ngài quan Pháp. Thành phủ Trấn Yên đã được bình định thì làng Bái Dương, làng Tuần Quán cũng sẽ an lành trở lại!
Ngô Tuân:
- Xin ngài thiếu tá ra lệnh càn quét ngay các địa bàn nghi có quân phản loạn để yên ổn lâu dài.
Brê-ăng-ghe trợn mắt:
- Những nơi nào, nơi nào?
Ngô Tuân:
- Dạ. Làng Tuần Quán, làng Bách Lẫm, làng Nam Cường, xa nữa là làng Tuy Lộc.
Thiếu tá Brê-ăng-ghe nói một tràng tiếng Tây với trợ lý điện tín. Phía bên kia, tướng Gia-mông truyền lệnh đáp lại:
- Đồng ý. Ngài thiếu tá cho các mũi tiến công tiêu diệt quân phiến loạn bản xứ này ngay.
Chỉ mười phút, các sĩ quan Pháp và đại đội khố đỏ bảo vệ đã tụ tập tại trại binh Pháp ở Tuần Quán.
Dõng Trình được Đặng Lanh lôi kéo, anh ta bỏ điếm canh, cùng Đặng Lanh về với Hiệp Triệu, được quản Hiệp giao việc thám sát. Biết rõ trại Tuần Quán mấy ngày trước vắng lặng, hôm nay lính thú canh gác bốn bề. Dõng Trình dò la, nắm chắc bọn Pháp đang có mặt vội vã chạy về đồn trại.
- Tướng quân lãnh Hặc! Trại binh Tuần Quán đang có nhiều người Pháp và quân canh khố xanh.
- Chú Trình. - Lãnh Hặc nói một cách thân mật. - Nếu chú biết mặt biết tên một ai đang trong trại đồn ấy, chú đều có thể hỏi tội chúng.
Trình hiểu ngay câu nói của lãnh binh chỉ huy:
- Vâng, con sẽ...
- Chú sẽ là một lãnh binh, nghĩa sĩ Cần Vương, để tiếng lành tiếng tốt cho con cháu - Chỉ huy lãnh Hặc nói.
- Vâng.
Dõng Trình quay ra, gặp Đặng Lanh bước vào:
- Lãnh binh! Đội quân tôi ở Hào Gia chờ lệnh tiếp sức.
- Tốt lắm. Ngài trở lại ngay, khi súng nổ dồn thì đánh ập tới.
Đặng Lanh kéo dõng Trình:
- Ta đi thôi!
Hoàng hôn. Mặt trời ngày đông mờ nhạt đang khuất dần vào cụm tre. Lãnh Đa được lệnh khai hỏa.
Khẩu thần công từ đồi cao Bách Lẫm nhả đạn liên tiếp vào trại đồn Tây cổng làng Tuần Quán.
- Xông lên! - Lãnh Hặc quát to.
Cả trăm quân binh Cần Vương hét vang. Súng kíp, súng săn nổ đoành đoành vào đồn giặc. Bỗng chốc cổng đồn mở tung, quân khố xanh, khố đỏ chạy túa ra. Súng Tây nổ loạn xạ.
Hiệp Triệu hét:
- Giết hết giặc Tây, giết hết giặc Tây!
Quân binh tay gươm, tay giáo mác ào ào xông tới, ba mặt giáp lá cà.
- Có thằng Tây, thằng Tây đang chạy trốn!
Đặng Lanh xô tới. Một nhát kiếm chém thẳng vào vai tên Pháp, máu chảy ròng ròng. Thằng Pháp giơ cánh tay còn lại lên hàng. Đặng Lanh xông lại.
Bỗng có tiếng nổ “bọp bọp”, khô khốc. Đặng Lanh quỵ xuống. Tên sĩ quan Pháp, đại úy Mốt-xti-ông được cứu thoát. Quân khố đỏ, lê dương thẳng tay bắn vào những bóng quân binh tóc đen.
Chợt một tiếng kêu:
- Trung úy Phung.
Phung nâng cánh tay bị thương ngoảnh lại nhận ra dõng Trình. Do thám Phung không hay biết Trình đã về với Hiệp Triệu, nên nói to:
- Dõng Trình, dõng Trình. Mày cứu đại úy Ngô Tuân. Rồi chạy vào vườn chuối.
Trình xoay ngang, Ngô Tuân mà Trình đã gặp, đang bị hai quân binh áp đảo. Không chần chừ, dõng Trình xông lại:
- Đại úy Ngô Tuân nhìn đây.
Tuân chỉ kịp đảo mắt.
“Pọp, pọp, pọp” ba viên đạn súng kíp của dõng Trình làm cho tên phản quốc - đại úy do thám Ngô Tuân ngã gục. Phía ngoài bọn lính khố xanh, khố đỏ tháo chạy.
Trời sẩm tối. Làng Tuần Quán thưa dần tiếng súng.
Trận chiến Tuần Quán làm cho quân Pháp tổn thất nặng nề, đại úy Vốt-xăng và năm lính lê dương trúng đạn súng thần công, đại úy do thám Ngô Tuân bị bắn tại chỗ; quan tư Pháp Mốt-xti-ông, trung úy Phung bị thương nặng. Quân khố đỏ, khố xanh chết đến vài chục. Tướng Gia-mông Tổng chỉ huy đạo binh Nhị giang nghe báo tin, tức điên đầu, liền ra lệnh san phẳng trại quân “giặc cỏ” tại Tuần Quán, thay vào đó là một đồn Pháp đầy ắp quân lính và súng đạn.
Nắm được thông tin từ mấy nghĩa binh bị bắt, Gia-mông ra lệnh cho đại úy Gô-đanh đang đóng trại tại Đức Quân, dẫn một đội lính khố xanh truy kích thủ lĩnh “quân phiến loạn bản địa” đang chạy theo hướng Vân Hội.
- Hiệp đốc, Đề đốc. Quân Pháp đã đuổi đến đầm Vân Hội rồi. Xin Bố chánh cho đánh? - Liên lạc, đội binh Đào Xuân Thái được người dân phi ngựa báo tin, sốt sắng hỏi.
Hoàng Đình Cương, Bố chánh đang lưỡng lự. Tổng Khảm Trịnh Bá Đanh đứng lên:
- Quân giặc đã đuổi theo, tất truy bắt bộ tướng. Xin Hiệp đốc cho Tổng khảm này ra chặn chúng?
Bỗng Tán áo Hà Công Cấn bước tới:
- Bố chánh, Đề đốc, Tổng khảm. Các ngài đi mau đi. Lão Tán này già rồi nhưng đủ sức kìm chân giặc tại gò đầm này.
Nhìn Tán áo Hà Công Cấn râu tóc đã bạc mà người rắn rỏi quả quyết, Hiệp đốc nhớ đến ngày ông làm theo lời con rể Đề Kiều Hoàng Văn Thúy mà lặn lội lên Tây Bắc tìm nơi đặt bản doanh dự phòng cho Thủ lĩnh. Nơi dự phòng ấy là đất Nghĩa Lộ, chỉ mấy tháng sau, đích thân Hiệp thống Thủ lĩnh Nguyễn Quang Bích đã đưa bộ tướng về đây lập căn cứ kháng chiến cho cả vùng Tây Bắc. Bây giờ là lúc vận mạng treo sợi tóc, ai nỡ để nhạc phụ Đề Kiều tướng quân ở lại chặn giặc giữa đường rừng núi.
- Phó tướng công và Đề đốc Cương, cả Tổng khảm nữa. Các ngài đi đi. Đi mau đi! - Tán áo tướng binh nói như ra lệnh.
Trước thái độ quả quyết của Hà Công Cấn. Bố chánh Nguyễn Văn Giáp rơm rớm nước mắt lấy thanh gươm và một lạng bạc, ngài cầm tay Tán áo:
- Nhạc phụ tướng quân Đề Kiều. Chặn được giặc, mong ngài sớm trở về với Thủ lĩnh Hiệp thống và Đề đốc Tướng quân.
Hoàng Đình Cương cũng chọn mười quân binh can đảm ở lại Gò Đầm cùng Tán áo.
Hà Công Cấn và đội quân binh nhanh chóng lên chân đèo Gỗ mai phục.
Đúng như dự đoán của Tán áo. Chỉ ba mươi phút sau, trung đội khố xanh do trung úy Lê Phú Tài đuổi tới. Đốc binh Tán áo ra lệnh đánh gập mặt. Hai mươi phút giao chiến, Lê Phú Tài đang hò hét bắt sống “giặc cỏ”, một ngọn giáo lao trúng ngực trái, tên Đội lảo đảo rồi ngã gục. Đám khố xanh chạy tán loạn. Đốc binh Tán áo Hà Công Cấn bị đạn địch găm vào vai. Quân nghĩa sĩ Cần Vương được lệnh rút ra đầm Vân Hội, xuôi về Âu Cơ đề phòng Pháp đổ quân tiếp viện.
1. Cụ Cầm Văn Thanh, Tri châu (Lai Châu, Sơn La) là cụ nội bốn đời của Nhà dân tộc học Cầm Trọng. Hậu duệ cụ nay ở Mai Châu, Sơn La (tài liệu của Cầm Trọng, Chủ tịch Hội Thái học Việt Nam).
2. Những chuyện về Đốc binh Nông Đình Tẩn do ông Nông Khóa Tinh, cán bộ huyện Yên Bình, chắt nội của cụ Tẩn, cũng là cháu ba đời của ông Nông Đình Tần, kể lại với tác giả (Hà Lâm Kỳ) vào tháng 4 năm 1998. Con cháu Đốc binh Nông Đình Tẩn, nay vẫn ở xã Ngọc Chấn, huyện Yên Bình. Trong đoạn văn trên, nhân vật “Hoàng Lai”, ông Khóa Tinh không nhớ tên nên tác giả tạm đặt.