Muốn giảm bớt quả khổ thì phải trừ bỏ nghiệp và hoặc.
Đối với ác nghiệp đã gây tạo thì phải làm sao để hạt giống của nghiệp đó không trổ quả? Bồ đề đạo thứ đệ quảng luận quyển 5 nêu ra bốn loại sức mạnh để đối trị: “Năng phá hoại hiện hành lực”, “Đối trị hiện hành lực”, “Già chỉ tội ác lực” và “Y chỉ lực”.
Năng phá hoại hiện hành lực là sám hối tất cả bất thiện nghiệp đã tạo từ vô thủy đến nay, các phương pháp có thể kể ra như nương vào Thắng kim quang minh sám và Tam thập ngũ Phật sám, v.v. để sám trừ.
Đối trị hiện hành lực chia ra: “Y chỉ thậm thâm kinh” (Nương vào sự hiểu biết sâu sắc của kinh); “Thắng giải không tính” (Hiểu rõ về tính không); “Y tụng niệm” (Nương vào tụng niệm); “Y hình tượng” (Nương vào hình tượng, tạo tượng Phật, v.v.); “Y cúng dường” (Nương vào việc cúng dường Đức Phật và chùa tháp); “Y Phật hiệu” (Nương vào danh hiệu Phật).
Già chỉ tội ác lực là chấm dứt mười loại bất thiện nghiệp, dùng tâm phòng hộ để không tiếp tục tạo tội.
Y chỉ lực là tu quy y và phát tâm Bồ đề.
Rất nhiều kinh điển đề cập đến “các nghiệp dù trăm kiếp cũng không mất”, đó là bởi vì chưa y vào bốn loại năng lực trên mà sám hối trừ diệt. Nếu dùng bốn sức mạnh nêu trên để sám hối trừ diệt thì hạt giống ác nghiệp tạo nhiều đời trước cũng dần dần được đoạn giảm, do vậy tiêu diệt được công năng chiêu cảm quả báo.
Còn về trừ bỏ hoặc thì hoặc bắt nguồn từ việc không hiểu rõ chân lý vô ngã nên phải dùng chính kiến để đối trị, thường suy nghĩ về chân lý vô ngã. Cũng chính là nói, đối với Tứ thánh đế phải hiểu rõ một cách sâu sắc, nhờ nghe mà tư duy để tu tập (văn, tư, tu), sau cùng thân chứng chân lý vô ngã, mới có thể nhổ sạch tận gốc của hoặc.
Nguyên nhân của sinh tử luân hồi, cố nhiên là có sự phối hợp của nghiệp và hoặc nhưng hoặc vẫn là nguyên nhân quan trọng nhất. Bồ đề đạo thứ đệ quảng luận quyển 6 viết: “Nếu như không có phiền não thì dù có vô số nghiệp từ quá khứ, cũng như hạt giống, nếu không có nước tưới và đất đai, v.v. thì nhất định sẽ không nảy mầm. Nếu như các nghiệp mà thiếu đi nhân duyên thì cũng sẽ không thể trổ mầm khổ được. Nếu có phiền não thì dù không có nghiệp từ quá khứ song vẫn không ngừng huân tập hạt giống nghiệp mới thì sẽ dẫn đến quả khổ sau này vậy”.
Có thể thấy rằng trọng tâm là ở việc trừ bỏ hoặc, nếu chỉ nhổ trừ đi hạt giống của nghiệp mà phiền não vẫn còn thì vẫn sẽ sinh ra “nghiệp hữu lậu” mới, tiếp tục luân hồi. Duy chỉ có hoặc được tiêu trừ, mới có thể thoát ly sinh tử luân hồi. Do vậy có thể biết, nếu như chỉ tập trung sức lực trong việc sám trừ ác nghiệp đã tạo một cách tiêu cực thì vẫn không bằng việc nhằm vào hoặc hay vô minh phiền não, tích cực bồi dưỡng giới, định, tuệ, sau khi “minh” được sinh khởi thì sẽ triệt để diệt trừ vô minh phiền não.