Tôi là người Việt Nam, lại là một Phật tử. Hiển nhiên, với 20 thế kỷ kể từ khi Phật giáo du nhập, Phật giáo có số lượng tín đồ tại Việt Nam chiếm đa số so với các tôn giáo khác. Thế nào là một Phật tử? Hình như câu trả lời dứt khoát vẫn còn chưa trọn. Là Phật tử trong truyền thống gia đình, tôi lại có khoảng 50 năm hoạt động trong lòng Phật giáo Việt Nam, tôi nỗ lực rèn luyện cho mình những tư duy, tình cảm và hoạt động đúng theo tinh thần Phật giáo. Dĩ nhiên hiệu quả nỗ lực của tôi vẫn còn nhiều hạn chế, tuy vậy, tôi xin mạn đàm về quan điểm của tôi, Thế nào là người Phật tử và mong sao những người Phật tử Việt Nam có cùng quan điểm với tôi.
1. Định nghĩa ngắn gọn của từ “Phật tử” là “con Phật”, là tín đồ của Phật giáo. Phật giáo là một tôn giáo. Nhưng thật khó định nghĩa tôn giáo là gì khi có khá nhiều định nghĩa từ này ở nhiều sách, nhiều từ điển… vẫn có những giải thích khác nhau. Ý nghĩa tôn giáo hình thành khi có bốn yếu tố như sau: 1. Có một vị giáo chủ có năng lực tối thượng (về đạo đức, về trí tuệ và về các lãnh vực siêu nhiên khác). Vị này là một nhân vật có thật, được lịch sử ghi chép; 2. Vị ấy có để lại lời dạy qua các kinh sách, qua truyền miệng, có hệ thống, có lợi ích cho mọi người; 3. Vị ấy và giáo lý của vị ấy được đông đảo quần chúng tin theo, học tập và thực hiện theo giáo lý ấy; và 4. Có nghi lễ, có cầu nguyện, có màu sắc sùng kính thiêng liêng trong nghi lễ. Nhận định như thế thì có thể có nhiều cộng đồng tổ chức được gọi là tôn giáo sẽ không còn ý nghĩa tôn giáo: Có tôn giáo không có giáo chủ hay giáo chủ có lịch sử rất mơ hồ, lắm điều khó tin; có tôn giáo không có giáo lý được ghi chép thành văn bản để tín đồ theo đó mà tu tập; có tôn giáo có quá ít tín đồ, v.v... Phật giáo là tôn giáo có đầy đủ bốn yếu tố trên.
Thế nào là một Phật tử? Hiện nay tại nước ta, Giáo hội Phật giáo Việt Nam có quan điểm cho rằng Phật tử (tại gia) là người có chứng điệp quy y Tam bảo, có pháp danh, giữ năm giới căn bản (không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói lời xấu ác và không dùng chất gây nghiện). Thực ra, chứng điệp quy y được cấp cho mỗi Phật tử khởi đầu từ thời Chấn hưng Phật giáo (khoảng 1920 - 1930). Trước đó, kể từ khi Phật giáo du nhập nước ta, không thấy tài liệu nào được ghi về việc cấp phát chứng điệp quy y cả. Hiện nay, trong các cộng đồng Phật giáo tại các nước, việc làm lễ quy y và cấp phát chứng điệp quy y cho Phật tử tại gia cũng không phải là phổ biến. Nhiều người tự nhận mình là Phật tử mà không hề được chính thức quy y, được cấp phát chứng điệp. Những người này có được gọi là Phật tử không? Nói khác đi, người Phật tử tự tâm nương tựa Tam Bảo, thủ trì ngũ giới, có cần phải được xác nhận bằng chứng điệp quy y không?
2. Đức Phật từng khuyên răn mọi người quy y Tam Bảo, giữ gìn ngũ giới và những ai theo lời dạy ấy thì được gọi là Phật tử. Kể từ đó, và hơn 20 thế kỷ sau, không hề có việc cấp phát chứng điệp quy y. Lại nữa, ngay cả hiện nay, một người tin Phật, tin lời Phật dạy (dù rất sơ đẳng), kính trọng các vị tăng, vị ấy không có dịp đi chùa lễ Phật nghe pháp, không có chứng điệp quy y, trong nhà không có bàn thờ Phật, nhưng thường làm việc lành, sợ nhân quả nghiệp báo… thì có thể được xem là Phật tử không?
Cũng không lạ gì khi thấy các thống kê của nhiều cơ quan trên thế giới thường sai biệt nhau về con số các tín đồ của các tôn giáo, đặc biệt là về tín đồ Phật giáo. Theo đó, số tín đồ Phật giáo dao động từ 400 triệu đến 500 triệu người, hoặc thấp hơn hoặc cao hơn vài chục triệu. Không biết các nhà thống kê căn cứ vào đâu, có phải chỉ dựa vào thống kê của từng nước, hoặc dựa vào số Phật tử của một số Hội đoàn, Cộng đồng Phật giáo. Đặc biệt, người ta dựa vào tiêu chuẩn nào để xác định thế nào là người Phật tử?
Tại Việt Nam, trước 1975, các thống kê (cũng không biết dựa vào đâu) bảo rằng tín đồ Phật giáo chiếm 70% hay 80% dân số. Chừng mươi năm trước đây, các tài liệu văn bản của Giáo hội Phật giáo Việt Nam cho rằng số tín đồ Phật giáo khoảng 45 triệu, cũng không biết dựa vào đâu. Năm 2009, có cuộc tổng kiểm tra dân số của nhà nước, đến năm 2010 nêu rõ là 6.802.318 người theo đạo Phật. Chưa đầy 7 triệu, một con số đáng suy nghĩ! Chúng ta còn nhớ tại miền Nam, năm 1975, sau ngày giải phóng thống nhất đất nước, nhiều cán bộ nhà nước tỏ ra khắt khe với tôn giáo nên rất nhiều Phật tử khai rằng mình không có tôn giáo, hoặc Đạo Khổng, đạo thờ Ông Bà…, trong khi đó, số người theo Thiên Chúa giáo La Mã thì được ghi vào sổ bộ của Giáo xứ từ lúc mới sinh nên sự thống kê là xác đáng. Và đã khai thế thì cứ tiếp tục giữ như thế, cho đến nay số tín đồ Phật giáo chỉ chiếm 6,6% dân số thay vì 70, 80% hoặc 45, 50% như trước đây. Người Phật tử thấy thế có buồn không? Có thông cảm với hàng trăm triệu Phật tử Trung Quốc trong tổng số dân 1,2 tỷ người đã không được thống kê không? Có tự hỏi Phật tử Việt Nam chỉ chưa tới 7 triệu thì sự đóng góp cho Giáo hội, cho đất nước được bao nhiêu? Có e ngại uy tín của Giáo hội đối với cộng đồng Phật giáo các nước sẽ không được mạnh không?
3. Nghĩ cho cùng thì các Phật tử Việt Nam cũng không nên buồn, hay chỉ nên buồn chút ít vì các thống kê về Phật tử không được chính xác. Hơn nữa, cần nghĩ rằng đạo Phật là đạo của trí tuệ. Những người có trí tuệ cao thì ít, những người có trí thấp thì nhiều. Do đó, số tín đồ đông đảo của một tôn giáo không chứng tỏ được tôn giáo ấy là một tôn giáo tốt. Điều quan trọng là mỗi Phật tử cần nhớ rằng mình không có bổn phận, nhiệm vụ và không cần nỗ lực tìm mọi cách để khuyến dụ, ép buộc, mua chuộc người khác để người khác theo đạo Phật, hay cải đạo để theo đạo Phật. Vì lòng từ bi, vì hạnh phúc của số đông, người Phật tử tìm cách giúp những người khác về vật chất, về tinh thần, làm sao cho họ sống phù hợp với giáo lý của Đức Phật dù họ không phải là Phật tử. Chúng ta hãy nhớ trước kia, nhiều nhà ngoại đạo sau khi được Đức Phật khai ngộ đã xin làm đệ tử Phật, nhưng Đức Thế Tôn từ chối và bảo rằng hãy giữ giáo phái của mình và thực hành giáo lý đã được khai ngộ. Giáo lý Không vẫn bàng bạc trong Phật giáo, không câu nệ hình thức, không phân biệt Phật tử hay không phải là Phật tử, có quy y Tam Bảo hay không.
Mọi người đều biết câu “Phật tại tâm”. Phật ở trong tâm mình. Trong một ý nghĩa khác, quy y Tam Bảo chính là tự quy y mình. Cái tâm tưởng niệm Phật, cái tâm tôn trọng những điều thiện, điều hay, cái tâm kính trọng sự tu tập đạo đức trí tuệ của mọi người chính là cái tâm Tam Bảo. Trong ý nghĩa này thì quy y Tam Bảo chính là tự quy y mình, đúng như lời Phật dạy trong kinh Đại bát Niết-bàn của Trường bộ: “Hãy tự mình là hòn đảo của chính mình” hay: “Hãy tự thắp đuốc lên mà đi”. Đại sư Hoàng Bá cũng nói: “Tâm này chính là Phật, không có Phật nào khác nữa, không có tâm nào khác nữa” (Hoàng Bá truyền tâm pháp yếu). Bài tụng trong nhiều buổi lễ Phật, đặc biệt là trong lễ thọ Tam quy gồm ba đoạn ngắn, mỗi đoạn lần lượt được mở đầu bằng “Tự quy y Phật…”, “Tự quy y Pháp…”, “Tự quy y Tăng…”. Tự đây là tự mình, là từ chính tâm mình. Trong ý nghĩa của thuật nghĩa Tứ y, tức là nương tựa vào bốn điều: Nương tựa vào Pháp chứ không nương tựa vào người, nương tựa vào Nghĩa chứ không nương tựa vào từ ngữ, nương tựa vào Trí tuệ chứ không nương tựa vào kiến thức, nương tựa vào Kinh đã rõ nghĩa chứ không nương tựa vào kinh chưa rõ nghĩa. Bốn sự nương tựa này là do chính tự mình, không câu nệ, chấp trước vào hình thức bên ngoài.
4. Nhân nghĩ về những tiêu chuẩn không rõ ràng khi xác định thế nào là Phật tử và số lượng người theo đạo Phật mà người viết lạm bàn như trên, chứ cần khẳng định sự cần thiết, ý nghĩa lợi ích và sự thiêng liêng của việc quy y Tam Bảo. Đã coi trọng chữ Tâm thì phải tăng trưởng cái tâm mình, đưa mình vào cái lãnh vực thiêng liêng của Tam Bảo bằng lễ thọ Tam quy Ngũ giới để được an tâm khi nhận ra mình đã chính thực được Tam Bảo nhận là Phật tử; nương vào học Phật, Pháp, Tăng; thọ nhận sự dạy bảo, khuyến khích của vị Bổn sư, của chư Tăng Ni và các thiện tri thức, các đạo hữu. Nhận chứng điệp quy y tức là sự thệ nguyện luôn tinh tấn, luôn giữ giới, luôn nỗ lực phát triển trí tuệ và từ bi. Lễ thọ Tam quy Ngũ giới mang ý nghĩa tự lực tinh tấn và tha lực hộ trì. Tự lực và tha lực là sức mạnh khiến ta vững tiến trên đường thoát khổ. Thọ Tam quy, Ngũ giới, được nhận Chứng điệp Quy y chính là thể hiện ý nghĩa quy y (trở về nương tựa), nghĩa là vào ngôi nhà lớn, là cộng đồng Phật giáo, là thành phần chính thức của Giáo hội. Quy y (sarana, saranam) là vào chỗ trú ngụ, là nơi an trú, là ngôi nhà Phật giáo vậy.
Trong buổi lễ quy y, trong không khí trang nghiêm, thiêng liêng của chốn thiền tự, các hình tượng, pháp khí, hương hoa, ảnh tượng Đức Phật, hình ảnh chư tăng trang nghiêm, lời kinh, tiếng kệ… tất cả khởi đầu cho sự rung cảm, tin tưởng, chân thành. Rồi giới tử được nghe vị Thầy xướng bài Niệm hương, bài Tán Phật, nghe giảng về Tam quy, về Ngũ giới. Sự xúc động, quyết tâm tu tập càng dâng cao khi giới tử đọc theo thầy: “Xin nguyện suốt đời quy y Phật, xin nguyện suốt đời quy y Pháp, xin nguyện suốt đời quy y Tăng”. Tâm tư trầm lắng, niềm an ổn, niềm tin tưởng, hoan hỷ tràn dâng khi đọc theo Thầy: “Đệ tử quy y Phật rồi thì không đọa địa ngục, đệ tử quy y Pháp rồi thì không đọa ác quỷ, đệ tử quy y Tăng rồi thì không đọa súc sanh”.
Là Phật tử, được cộng đồng Phật giáo, được Giáo hội công nhận, được nhận chứng điệp quy y, há chẳng phải là niềm an ủi, sự an lạc, hạnh phúc sao?
5. Người Phật tử cũng như người đi học các lớp nhà trẻ, mẫu giáo, lớp tiểu học, trung học, đại học, sau đại học… Trình độ Phật pháp, tu tập, hành thiện của những người Phật tử có cạn, có sâu. Khởi đầu cho nhân duyên, tin có Phật, tin lời dạy của Phật là tốt đẹp, tôn trọng chư Tăng… Kế đó là được nghe pháp nhiều hơn, có ý tu tập nhiều hơn, rồi tiến đến mức độ thâm sâu hơn.
Một khi đã tự nhận mình là Phật tử, giáo lý đầu tiên phải học phải hành là Tứ đế, bốn chân lý: khổ, tập, diệt, đạo; tức là nhận biết đời là khổ, nguyên nhân của khổ là sự tham ái; sự chấm dứt khổ; và con đường đưa đến chấm dứt khổ. Con đường ấy gồm tám ngành: kiến giải chân chính, suy nghĩ chân chính, nói năng chân chính, tạo nghiệp thiện lành chân chính, nghề nghiệp mưu sinh chân chính, tinh tấn chân chính, tưởng niệm chân chính và thiền định chân chính. Đấy là Tứ đế và Bát chánh đạo. Từ căn bản này mà tinh tấn cho mạnh mẽ, sâu xa. Từ đấy đi sâu vào việc học tập, thực hành các giáo lý khác của Phật giáo.
Người Phật tử có thế giới quan, nhân sinh quan cụ thể, rõ ràng:
- Về thế giới quan: Nhận biết tất cả mọi sự đều do nhân duyên sinh hay lý duyên khởi. Duyên khởi thì trùng trùng, chằng chịt, liên hệ chặt chẽ với nhau, vô số nhân duyên chứ không hề có sự vật hiện tượng nào do một nguyên nhân cả; nói cách khác, không bao giờ chỉ có một nguyên nhân, hay không hề có nguyên nhân thứ nhất, từ đó sinh ra tất cả các sự vật hiện tượng, tức là không hề có một vị Thượng đế sáng tạo ra vũ trụ, con người và các chúng sanh khác. Do đó, người Phật tử không tin có Thượng đế toàn năng, toàn quyền tạo dựng và quyết định tất cả mọi sự. Người Phật tử cũng lập luận rằng nếu có vị Thượng đế toàn năng, toàn quyền, đầy đủ, trọn vẹn thì vị ấy không cần phải làm gì cả, không cần phải tạo ra gì cả vì ngài đã trọn vẹn, đầy đủ rồi. Nếu vị ấy là toàn năng thì tác phẩm của vị ấy phải toàn hảo, thế mà đời này đầy khổ đau, đầy bất bình đẳng: chiến tranh, bệnh tật, nghèo đói, kẻ cao sang, người hèn kém… Nếu vị ấy là toàn năng thì tác phẩm của vị ấy được hình thành trong chớp mắt, thế mà vũ trụ luôn có sự biến đổi, sự thành hoại, nhiều hiện tượng, sự việc, nhiều thay đổi đã, đang và sẽ xảy ra trong đời, tức là tác phẩm của Thượng đế vẫn chưa hoàn tất.
- Về nhân sinh quan: Người Phật tử tin vào nhân quả, nghiệp báo, luân hồi cho nên ý thức được trách nhiệm của mình về các hành động của mình, từ đó làm lành, chống dữ. Tin vào giáo lý nhân quả, nghiệp báo, luân hồi, người Phật tử tôn trọng, thương yêu đồng loại, thương yêu tất cả chúng sanh, người và mọi loài vật, vì biết rằng từ trong vô thỉ đến nay, các chúng sanh đã từng bao nhiêu lần là cha mẹ, anh chị, vợ chồng, con cái của nhau. Người Phật tử đối xử bình đẳng, không phân biệt đẳng cấp, giàu nghèo, sang hèn, thương yêu tất cả, kể cả kẻ thù vì tin rằng mọi chúng sanh đều có Phật tính và thông cảm, chia sẽ khổ đau, vui buồn với mọi người vì tất cả đều đang chịu khổ đau khi hiện hữu trên đời này.
Quan điểm chung nhất của người Phật tử là: Cuộc đời là khổ, vô thường, vô ngã; tam độc tham, sân, si là gốc của khổ đau. Từ đó, nỗ lực diệt trừ tam độc, tinh tấn tu tập để tiến đến giải thoát khỏi khổ đau, giải thoát tối hậu, Niết-bàn. Biết được đời là khổ, nguyên nhân của khổ, sự diệt khổ và con đường diệt khổ, người Phật tử không bi quan, trái lại rất lạc quan, vững tiến trên con đường đạo, con đường của từ bi và trí tuệ.
Trần Tuấn Mẫn