Phong tục, tập quán được hình thành từ lịch sử phát triển của tộc người, được lưu truyền qua các thế hệ. Với một đất nước đa dạng dân tộc như Việt Nam, các tập quán, phong tục trở thành một kho tàng văn hóa quý giá. Trong khuôn khổ cuốn sách này, một số các phong tục đẹp, đặc sắc sẽ được giới thiệu đến quý độc giả.
Phong tục thờ cúng tổ tiên
Người Kháng
Người Kháng cho rằng con người có năm hồn (man), hồn chính ngự trên đầu, các hồn khác ở tứ chi. Khi người chết, năm hồn thành ma. Hồn chính ngụ ở trong nhà, là ma nhà phù hộ cho con cháu nên đó là đối tượng thờ cúng. Họ cho rằng cùng tổ tiên tức là cùng gia đình nên công việc đại sự cần có sự tham gia của các thành viên. Bốn thế hệ tổ tiên: cha, ông, cụ, kỵ được thụ hưởng lễ vật như nhau. Chỗ đặt bàn thờ tổ tiên trong nhà gọi là hoóng, nằm giữa gian ngủ của khách và gian ngủ của chủ nhà. Ngoài ra, còn có các trường hợp người Kháng không thờ ở hoóng mà lập nha đế, nha lái (thờ cha mẹ khi vẫn còn sống). Con rể có thể thờ cha mẹ vợ, song không được thờ chung với hồn cha mẹ ruột của mình.
Người Kháng không cúng giỗ tổ tiên vào ngày mất mà chỉ cúng vào dịp Tết Nguyên đán, lễ cơm mới, hoặc khi gia đình có người ốm đau không rõ nguyên nhân, gia đình mới sinh con và đám cưới. Xưa người Kháng không có tục ăn Tết Nguyên đán, song trong quá trình giao thoa tục lệ này hình thành. Lễ cúng cơm mới được bố trí để bà con đến được với nhau càng đông vui càng tốt. Khi gia đình có người ốm lâu không khỏi, họ có thể tự cúng hoặc mời thầy đến thực hiện nghi lễ gọi hồn trở về thân chủ. Cúng tổ tiên được tiến hành sau một tuần khi gia đình có trẻ mới sinh nhằm thông báo nhân khẩu mới, và xin ma nhà cho đứa trẻ một cái tên đẹp, mạnh khỏe bình an. Nhìn chung, việc thờ cúng tổ tiên của người Kháng xuất phát từ sự ghi nhớ nguồn cội và niềm tin về sự bất diệt của linh hồn sau khi chết.
Người Bố Y
Người Bố Y có phong tục thờ cúng tổ tiên dày đặc quanh năm, đặc sắc nhất là lễ cúng tạ ơn cha mẹ, ông bà. Lễ cúng diễn ra sau ngày ông bà hoặc cha mẹ quá cố. Lễ vật bày thành mâm đặt lên bàn thờ chính. Chuẩn bị xong, thầy cúng mang chiêng, tù và ra ngoài thổi thông báo lễ tạ ơn chính thức bắt đầu. Tiếp đến là lễ cảm ơn tổ tiên. Công đoạn tiếp theo, thầy dâng sớ lên các vị thần cai quản mười cửa ải. Họ quan niệm nếu khi còn sống nếu đạo đức tốt thì sẽ sớm được đầu thai.
Người La Hủ
Người La Hủ tin ma lành là hồn ông bà, cha mẹ chết già ở trong nhà. Tuy nhiên ma lành cũng dễ biến thành ma ác nếu đói ăn, khi đó phải mời thầy cúng, thầy bói tới xem. Ma ác thì nhiều vô kể, họ thường tránh nói chuyện ma quái trong nhà. Khi có người chết tức là bị ma ác bắt. Khi có người ốm đau mà thầy cúng không khỏi tức người đó phải chết, do ma tổ tiên bắt đi. Vì vậy họ không quá nặng lòng với người quá cố. Lễ tục thờ cúng tổ tiên của họ không rườm rà: nơi thờ cúng là một cái giỏ bỏ quả men rượu cần, nhúm muối và củ gừng treo trên mái nhà. Họ không có lễ hội gì ngoài việc cúng ma nếu có người ấm. Vào Tết Nguyên đán, họ không ăn chơi mà chỉ nghỉ ngơi. Hằng năm, người La Hủ cúng tổ tiên vào dịp lễ cơm mới, họ cho rằng ông bà, cha mẹ là vị thần thiêng liêng che chở con người.
Người Lô Lô
Khi có người chết từ 3-4 năm, con trưởng trong gia đình sẽ lập bàn thờ tổ tiên, song lễ cúng tổ tiên thường được tổ chức tại nhà trưởng họ, trưởng họ cũng là người đứng ra sắm lễ, đi mời thầy cúng. Các gia đình trong họ đóng góp theo khả năng. Họ mời nghệ nhân đánh trống đồng tại nhà, mời người hóa trang thành người rừng (ma cỏ) để múa nghi lễ. Lễ cúng tổ tiên gồm ba phần: lễ hiến tế, lễ tưởng nhớ và lễ tiễn đưa tổ tiên.
Người Chăm Awal
Bước vào mùa Ramâwan, người Chăm Awal thực hành tháng chay tịnh Những nghi lễ quan trọng mà các tín đồ Chăm Awal đều tiến hành là đi tảo mộ. dâng cơm cho tổ tiên, nghi lễ tẩy thể và nghỉ lễ chay tịnh diễn ra tại các thánh đường Hồi giáo (Sang magik). Trong mỗi gia đình người Chăm Awal vào tháng Ramâwan đều bố trí một không gian thiêng liêng dùng làm nơi nghỉ ngơi cho tổ tiên. Lần lượt người ta thỉnh mới từng vị tổ tiên đến nhận lễ vật. Những gia đình nào có đông tổ tiên thì việc dâng cơm kéo dài rất nhiều thời gian vì người ta sẽ phải thịnh mới từng vị một và mỗi lần dâng lễ gồm có một món chay và một món mặn.
Phong tục cưới hỏi, hôn nhân
Người Nùng
Người Nùng có dân số khá lớn, khoảng một triệu người vào năm 2009. Lễ cưới là một sự kiện hệ trọng trong đời sống của họ. Việc cưới hỏi ở mỗi nhóm người Nùng khác nhau ít nhiều, song nhìn chung đều bao gồm các lễ tục sau: lễ dạm hỏi (Pây xam), lễ báo tin mừng (Mỉnh hom), lễ ăn hỏi (Đặt cáy), lễ cưới (Kin lẩu). Lễ cưới thường diễn ra trong hai ngày: buổi chiều hôm trước tại nhà gái với nghi thức Đón dâu, và buổi chiều hôm sau tại nhà trai với nghi lễ Nhập gia. Đoàn đi đón dâu rất cần và rất đủ, mỗi người có một chức phận riêng. Một nghi lễ quan trọng là lễ trình tổ tiên về việc người con gái đi lấy chồng. Ông mối là người có vai trò nổi bật kết nối thông gia hai nhà. Đám cưới của người Nùng đồng thời là một sinh hoạt văn hóa cộng đồng, nơi người ta trổ tài hát cỏ lảu (ứng khẩu).
Người Khơ Mú
Người Khơ Mú có tập quán ngủ mái cho phép trai - gái tâm sự tìm hiểu nhau. Lễ cưới gồm hai bước: lễ ăn hỏi và lễ cưới. Sau khi tiệc tan, chàng trai bắt đầu nghĩa vụ ở rễ theo phong tục, thời gian do hai gia đình thỏa thuận. Hết hạn ở rể, nhà trai đem làm lễ đón dâu. Cô dâu mang theo rất nhiều của hồi môn: ngoài váy, áo, chăn, đệm còn có cả vật nuôi nếu cha mẹ khá giả.
Người Mông
Hôn nhân của người Mông khá rườm rà, gồm bốn giai đoạn chính: chuẩn bị, ăn hỏi, lễ cưới và lễ lại mặt. Giai đoạn chuẩn bị gồm lễ nhập hồn, lễ báo tin, lễ dạm ngõ (lễ vén mở đám cưới). Lễ ăn hỏi là cuộc gặp gỡ chính thức hai bên gia đình, thống nhất lượng lễ vật, bạc trắng nhà trai phải đưa sang gái. Sau ba ngày cưới, đôi vợ chồng trẻ đến gia đình vợ làm lễ lại mặt, thăm họ hàng bên vợ. Người Mông không nặng nề chuyện của hồi môn.
Người Dao Tiền
Tục lệ cưới hỏi của người Dao gồm nhiều nghi lễ phức tạp. Mỗi nhóm địa phương lại có nghi lễ riêng, nhưng nhìn chung các yếu tố cơ bản giống nhau. Ở nhóm Dao Tiền gồm hai giai đoạn chính. Giai đoạn trước hôn nhân thường kéo dài một năm, gồm: nhà trai đến nhà gái để hỏi thông tin về cô gái (tuổi là yếu tố quan trọng nhất), nghi thức xuống công, thống nhất lễ cưới, vật thách cưới để nhà trai chuẩn bị. Giai đoạn tổ chức hôn lễ thường diễn ra trong hai ngày. Ngày đầu nhà trai đưa lễ vật và tổ chức cưới chính thức ở nhà gái. Ngày thứ hai, khi tiệc cưới chuẩn bị xong, trưởng và phó đoàn nhà trai mời cha mẹ cô hai cùng hai họ dự tiệc thân mật. Lễ vật hai họ mừng hầu hết được cho con gái, con rể làm vốn. Tại nhà trai cũng làm cổ để đón cô dâu về. Lễ cưới ở nhà trai được tổ chức đơn giản.
Người Thái vùng Tây Bắc
Việc cưới hỏi của người Thái vùng Tây Bắc rất quan trọng, thường trải qua các nghi thức: Mở gói ăn hỏi, Hỏi dứt lời dạm đứt giá (quy định các lễ vật với con số 12), Dẫn con trai lên làm rể quản, Nhập phòng, Cưới lên, Cúng hồn, cúng tổ tiên và nộp sính lễ, Uống rượu cần và ăn tiệc, Càng rể và phù rể phục lễ họ nhà gái, Mừng đám cưới, Ăn bữa đầu và nàng dâu về thăm nhà chồng, Tục ở rễ, Tục “Cưới xuống.”
Người Êđê
Người Êđê theo truyền thống mẫu hệ. Sau lễ tục cà răng, nam nữ tự do tìm kiếm bạn tình. Nhà gái đi hỏi chồng cho con, bỏ của ra làm lễ cưới, rước rể về cư trú tại gia đình mẹ vợ. Các ông cậu (anh em của mẹ) có vai trò quan trọng quyết định mọi cuộc hôn nhân của các cháu. Tại lễ trao vòng cầu hôn, hai bên chính thức trở thành thông gia. Đính hôn không có sự cưỡng ép. Sau lễ trao vòng thường có tục gửi dâu để nhà trai trực tiếp chứng kiến năng lực và nhân cách cô gái, sau đó cô gái trở về nhà mình chuẩn bị làm lễ cưới. Nhà gái chuẩn bị đầy đủ lễ vật cho buổi rước rể. Nghi thức chính là lễ cam kết và lễ cúng tổ tiên nhà gái. Chiếc vòng đồng đã làm thiêng khí cúng thần được cô dâu, chú rể cùng chạm tay, thể hiện sự cam kết về lòng thủy chung.
Người Chăm
Người Chăm sống theo giáo luật của đạo Hồi. Trong quan hệ nam - nữ, người con gái và phía nhà gái luôn giữ vai trò chủ động. Cuộc hôn nhân khởi đầu bằng lễ trầu cau. Nhà gái tìm người mai mối rồi nhà gái cho người đưa trầu cau đến nhà trai xin ấn định ngày làm lễ ăn hỏi chính thức. Ít ngày sau, nhà trai chính thức sang thăm hỏi nhà gái. Hôm sau lễ thành hôn được tổ chức, kéo dài 3 ngày. Nét nổi bật ở lễ cưới người Chăm là vai trò của gia đình - họ tộc theo mẹ và các vị chức sắc tôn giáo.
Người Khmer
Người Khmer chuyển từ chế độ mẫu hệ sang phụ hệ. Quá trình cưới hỏi bao gồm nghi thức Chạm ngõ (giai đoạn mai mối), tiếp đến là Dạm hỏi và Xin cưới. Trông hôn lễ, người làm chứng hai bên gia đình đóng vai trò quan trọng. Lễ phục cưới của cô dâu rất lộng lẫy.
Những biểu tượng văn hóa
Dọc đường lên Tây Bắc, trên các mái vòm của người Thái Đen có trang trí “khau cút”: gồm hai thanh gỗ bắt chéo nhau hình chữ X, đóng trên hai đầu đòn nóc, được trang trí những họa tiết, hoa văn như búp cây guột, hoa sen, hình trăng khuyết, trái bầu, sừng trâu… Dù không có thống nhất về ý nghĩa biểu tượng của “khau cút" song hình tượng đó đã làm đẹp, phong phú thêm bản sắc văn hóa dân tộc Thái.
Ở Tây Nguyên, cồng, chiêng được sử dụng nhiều ở các buôn làng, đã trở thành một nhạc cụ dân tộc đặc sắc nơi đây. Cồng, chiêng biểu thị cho sự giàu sang, hùng mạnh, và mỗi dân tộc lại có dàn chiêng đặc trưng và cách sử dụng khác nhau.
Tại Bắc Tây Nguyên, nhà Rông đã trở thành nét văn hóa độc đáo. Đây là ngôi nhà chung của cộng đồng, được cả buôn làng bỏ công xây dựng, là nơi diễn ra các hoạt động cộng đồng của làng, có kiến trúc độc đáo. Nhìn chung, nhà Rông của các làng thường bề thế, đẹp, gây cảm giác mạnh và tập trung.
Người Xtiêng có phong tục các hộ trong sóc đều tự giác đóng vào kho chung của sóc một lượng lương thực nhất định theo tỷ lệ thu được, sau đó chúng được phơi khô, quạt sạch, cất giữ thành hai nơi, để dành cho khi mất mùa. Người tham lam, lợi dụng quỹ lương thực sẽ bị xử phạt. Ngày nay, lương thực được thay thế bằng tiền, nhằm giúp những gia đình còn khó khăn.
Ở miền núi đi lại khó khăn, do đó chợ phiên của người vùng cao đã trở thành một tập quán đẹp. Đó là nơi để trao đổi hàng hóa, gặp gỡ giao duyên giữa nam nữ, thường họp 5-7 ngày một phiên. Vào Tết chợ phiên thường đông vui hơn.
Phong tục, tập quán ngày Tết
Vào Tết Nguyên đán nhiều dân tộc ở nước ta có tục dựng cây nêu (làm bằng tre, thẳng đều, dài từ 7-9m, chỉ để lại lá trên ngọn) để dọa ma quỷ, cầu phúc cầu tài. Mỗi dân tộc có cách dựng nêu khác nhau, thường từ cuối tháng Chạp đến cuối tháng Giêng. Con người gửi gắm sự vững chắc, sự may mắn, vui vẻ hạnh phúc, tự chủ trong xã hội qua tục dựng nêu.
Ngoài ra, các phong tục ngày Tết đặc sắc còn có thể kể đến là Hội Lùng tùng của người Tày, Nùng; tục chơi Hạn khuống của trai gái Thái vùng Tây Bắc - nơi trai gái tìm hiểu nhau một cách lành mạnh; tục đón Tết Katê của người Chăm (gồm Lễ rước y phục, Lễ mở cửa tháp, Lễ tắm tượng thần, Lễ mặc y phục cho tượng thần, Đại lễ). Tất cả đều là dịp để mọi người cùng tập trung, tham gia các hoạt động giải trí cùng nhau.
Truyền thống chung của người Việt Nam
Người Á Đông nói chung và Việt Nam nói riêng có truyền thống thương yêu, kính trọng, phụng dưỡng ông bà, cha mẹ vì đó là người có công sinh thành, dưỡng dục thế hệ con cháu. Một gia đình có đầy đủ ông bà, cha mẹ, con cháu thì được coi là đại phúc, như sông có nhiều nhánh hợp thành không bao giờ cạn.
Chúng ta kính trọng người già, yêu thương trẻ nhỏ, bởi người già đã từng góp công vào sự tồn tại, phát triển của dòng họ, đất nước, và trẻ em là những thế hệ sẽ nối tiếp giữ gìn những truyền thống đó. Đặc biệt ở các bản làng của dân tộc thiểu số, người già rất được tôn trọng. Trong tâm thức đồng bào, con người là thực vốn quý, đã là gia đình thì cần có con. Ngoài ra ta còn coi trọng quan hệ họ tộc máu thịt. Việt Nam có truyền thống đã là họ hàng, ruột thịt thì không thể dễ dàng bỏ nhau được. Trong quan hệ giữa người với người, tình làng nghĩa xóm luôn được coi trọng, các thành viên sống cùng khu vực, bản làng gắn bó mật thiết với nhau. Những điều này được thể hiện rõ nét qua văn hóa dân gian dân tộc, ở các câu tục ngữ, thành ngữ, ca dao.