Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời vào ngày 2/9/1945. Song chưa hoà bình được bao lâu nhân dân Nam Bộ đã phải đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại xâm lược. Đất nước lúc bấy giờ đã rơi vào tình thế "ngàn cân treo sợi tóc". Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước đã tỏ rõ thiện chí hòa bình, mong muốn giữ "mối quan hệ Việt Pháp không có tiếng súng". Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí với Pháp hai bản hiệp định Sơ bộ vào ngày 6/3/1946 và Tạm ước ngày 14/9/1946. Những nỗ lực hòa hoãn của Người đã giúp quân dân ta tranh thủ thời gian để xây dựng lực lượng chiến đấu lâu dài, củng cố nhà nước non trẻ vừa mới ra đời.
Tưởng như hàng loạt những nỗ lực của chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng và chính phủ, Việt Nam và Pháp sẽ chung sống hòa bình, nước nhà đã độc lập, tự do, có điều kiện phát triển thuận lợi. Thế nhưng thực dân Pháp vẫn không từ bỏ dã tâm xâm lược Việt Nam. Chúng lợi dụng Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 đưa 15 vạn quân ra Bắc, câu kết với quân Tưởng ở miền Bắc và bè phái phản động Quốc dân Đảng ở miền Nam. Chúng in truyền đơn nói xấu cách mạng, rình bắt, thủ tiêu một số cán bộ cách mạng. Nhân dân ta ra sức quyết tâm thực hiện biện pháp đẩy lùi giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, tẩy chay những luận điệu xuyên tạc của kẻ thù. Lực lượng công an của ta đã phát hiện và bóc trần những âm mưu của chúng, tổ chức Quốc dân Đảng thất bại ê chề.
Vào ngày 21/11/1946 quân Pháp lật lọng phá bỏ bản Tạm ước ngày 14/9 đưa quân đánh chiếm Lạng Sơn, Nam Định, Hải Phòng, Quảng Yên. Thậm chí chúng còn sát hại người dân vô tội và cướp bóc của nhân dân. Không những vậy, lính Pháp còn âm mưu chia rẽ dân tộc bằng cách mua chuộc một số đồng bào Công giáo. Trước tình hình đó chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định xây dựng mặt trận mới, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến sắp tới. Người đã đi thăm nhiều nơi, nói chuyện với các cán bộ, động viên và nhắc nhở mọi người làm tốt nhiệm vụ, tin tưởng vào kháng chiến trường kỳ.
19/12/1946 chủ tịch Hồ Chí Minh phổ biến cho những chức sắc Thiên chúa giáo nội dung của "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến", nhấn mạnh đến chính sách đoàn kết lương giáo, mọi người cùng nhau kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, không để cho thực dân Pháp thực hiện thành công âm mưu chia rẽ.
Đến đầu tháng 9 năm 1950 Bác Hồ đã tới Cao Bằng cùng đại tướng Võ Nguyên Giáp bàn bạc kế hoạch tác chiến trong chiến dịch Cao Bằng - Lạng Sơn. Người đã cổ vũ dặn dò các cán bộ:
"Quân sự thì phải chuẩn bị mãi. Thắng xong trận này cũng chỉ mới là chuẩn bị xong một đợt".
"Trong quân sự thì phải kiên quyết và bạo dạn. Bạo dạn, dũng cảm không phải là liều. Liều là dại, dũng cảm là khôn. Không phải chỉ một người kiên quyết và bạo dạn mà phải toàn bộ, tất cả mọi người".
Dưới sự quyết tâm của quân ta chiến dịch Cao Bằng - Lạng Sơn toàn thắng. Khi chiến dịch kết thúc, chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư động viên cho những chiến sĩ bị thương, rút ra những kinh nghiệm quý báu trong hội nghị tổng kết chiến dịch Biên giới.
Tháng 5 năm 1966, quân Mỹ mở rộng đánh phá miền Bắc. Lo lắng cho nhân dân ở Hà Nội, Bác Hồ quyết định trở về thủ đô. Từ đó Người làm việc tại Hà Nội trong một căn hầm phòng tránh. Người đã sát cánh cùng quân dân Hà Nội sau bao mưa bom bão đạn, tiếp thêm động lực chiến đấu cho các đơn vị bộ đội, dân quân và pháo thủ.