Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi - tác phẩm của đại tướng Võ Nguyên Giáp đã cung cấp đầy đủ, súc tích những tư tưởng cốt lõi của Hồ Chí Minh.
Cuốn sách mở đầu bằng bài phát biểu của đại tướng Võ Nguyên Giáp tại Hội thảo khoa học Bác Hồ với quê hương Nghệ - Tĩnh, quê hương Nghệ - Tĩnh với Bác Hồ. Trong đó, đại tướng khẳng định: Hồ Chí Minh là con người của những quyết định lịch sử ở những bước ngoặt lịch sử. Không chỉ có nhãn quang sâu sắc nhạy bén trước thời cuộc, chọn ra con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc, Người còn là một chiến lược thiên tài của cách mạng Việt Nam. Với Người, có dân là có tất cả, chiến lược con người là chiến lược số một. Người nêu cao đoàn kết và thống nhất: Có đoàn kết dân tộc mới giành được độc lập và thống nhất đất nước. Đoàn kết cũng phải có lý, có tình. Lý luận đi đôi với thực tiễn, tìm hiểu thế giới để cải tạo thế giới, phải dĩ bất biến ứng vạn biến, dĩ công vi thượng. Tác phong lãnh đạo tập thể của Người vô cùng dân chủ, luôn lắng nghe nguyện vọng của quần chúng, ý kiến của cán bộ.
Trong đó, đại tướng đặc biệt nhấn mạnh những thành quả cả trong quá trình đấu tranh giành độc lập lẫn xây dựng, phát triển đất nước của vùng đất Nghệ - Tĩnh, quê hương Bác Hồ. Chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội, an ninh và quốc phòng đã đạt được những thành tựu nhất định. Điều này là nhờ tiềm năng to lớn về người, đất đai, tài nguyên, từ truyền thống và kinh nghiệm quý giá vốn có của tỉnh. Trong đó, theo lời dạy của Người, vấn đề xây dựng con người, trình độ văn hóa, kiến thức, công nghệ ngày càng được chú trọng.
Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh
Để hiểu được bản chất của tư tưởng Hồ Chí Minh, mối quan hệ giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Marx-Lenin và các học thuyết chính trị - xã hội khác, cần xác định nguồn gốc. Một cách toàn diện, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp giữa nguồn gốc lý luận - tư tưởng (gồm truyền thống văn hóa Việt Nam, tinh hoa văn hóa phương Đông - Tây, chủ nghĩa Marx-Lenin) và nguồn gốc thực tiễn, nhân cách của Hồ Chí Minh.
Trước hết là truyền thống văn hóa Việt Nam, nổi bật là chủ nghĩa yêu nước tinh thần nhân ái, gắn kết dân tộc đã được hun đúc qua hàng ngàn năm đấu tranh kiên cường bất khuất chống ngoại bang của dân ta. Tinh thần ấy phát triển thành chủ nghĩa yêu nước - thứ chủ nghĩa đã ngấm sâu vào con người Hồ Chí Minh, và đã trở thành dòng chủ lưu của tư tưởng Việt Nam xuyên suốt lịch sử.
Thứ hai là tinh thần văn hóa phương Đông và phương Tây. Từ thuở ấy thơ được học chữ Hán với các nhà Nho yêu nước, Người đã chịu ảnh hưởng của triết lý Nho giáo. Song khi Nho giáo vào nước ta hợp cùng tinh thần yêu nước đã cho ra một trào lưu Nho giáo yêu nước đã được Việt Nam hóa. Những cái duy tâm, lạc hậu đã được Hồ Chí Minh gạn lọc. Ngoài Nho giáo, Người còn tiếp thu Phật giáo, Lão giáo đến một mức độ nhất định.
Về ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, từ khi học ở Trường tiểu học Pháp - Việt cho đến những năm bôn ba ở các nước tư bản lớn và thuộc địa của họ, tìm hiểu qua sách báo, tài liệu, tiếp xúc với giới tri thức, Người đã rút ra những tinh hoa cần tiếp thu và những cái hạn chế cần khắc phục. Quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền của nhân dân kiểm soát chính phủ, tư tưởng tự do - bình đẳng - bác ái là những nhân tố tích cực mà Người đã tiếp thu. Bên cạnh đó, Người cũng chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tam dân Tôn Trung Sơn. Người cho rằng chính sách của Tôn Trung Sơn phù hợp với thực tiễn Việt Nam, song con đường dân chủ tư sản vẫn chưa phải là con đường cách mạng triệt để nhất.
Thứ ba, chủ nghĩa Marx-Lenin là nguồn gốc chủ yếu nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh. Thế giới quan và phương pháp luận Marx-Lenin đã giúp Hồ Chí Minh nhìn nhận, đánh giá, phân tích, tổng kết từ các học thuyết tư tưởng đương thời cũng như kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của mình để tìm ra con đường giải phóng đúng đắn. Tuy nhiên, việc tiếp thu, vận dụng phải gắn với thực tiễn. Những lý luận phức tạp của nguyên văn Marx-Lenin thường được Người đề cập một cách giản dị, dễ hiểu, gắn lý luận với thực tiễn. Trên hết, chủ nghĩa Marx-Lenin là nhằm mục đích phụng sự cho cách mạng, Tổ quốc và nhân dân, không bao giờ được xa rời điều ấy. Người đã kế thừa, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin, vừa phát triển, làm phong phú thêm chủ nghĩa Marx-Lenin nhằm đáp ứng những yêu cầu mới của cách mạng.
Ngoài lý luận phải đề cập đến cơ sở thực tiễn. Chính cuộc sống và hoạt động đa dạng, phong phú, gắn liền với một thời kỳ lịch sử sôi động trên nửa thế kỷ của dân tộc và thời đại đã tác động rất lớn đến tư tưởng Người. Người đi nhiều nơi, từ xứ tư bản đến thuộc địa, phụ trách nhiều cương vị trong những hoàn cảnh khác nhau, xem xét đời sống kinh tế - chính trị - xã hội. Điều đó đã đem lại vốn sống, kinh nghiệm, vốn hiểu biết phong phú về nhiều mặt, trở thành cơ sở cho tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành và phát triển.
Tư tưởng là sản phẩm của con người, nên ở đây không thể nào không nói đến nhân cách và phẩm chất của Hồ Chí Minh. Người sống hoài bão, có lý tưởng yêu nước thương dân sâu sắc, có bản lĩnh kiên định, khí tiết kiên cường. Người đặc biệt thông minh, sắc sảo, nhạy bén, ham học hỏi, trí tuệ uyên bác, kiến thức sâu rộng. Người có lòng tin mãnh liệt ở nhân dân, có ý chí nghị lực phi thường, có đầu óc thực tiễn, cùng một tác phong bình dị, chân tình, khiêm tốn, hòa mình với quần chúng.
Những luận điểm sáng tạo lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Chính từ những yếu tố trên, Hồ Chí Minh đã vạch ra con đường cách mạng đầy sáng tạo của Việt Nam: Giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội (giai cấp), giải phóng con người. Người sớm phát hiện phương Đông có những đặc điểm khác với phương Tây mà Marx chưa có điều kiện nghiên cứu, từ đó phát triển chủ nghĩa Marx-Lenin để áp dụng vào một nước phương Đông, nửa thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế lạc hậu. Theo Marx và Engel, giai cấp vô sản phải làm cách mạng để tự giải phóng mình và lãnh lấy sứ mệnh giải phóng nhân loại: khi cách mạng thành công rồi thì giai cấp vô sản sẽ tự biến giai cấp trở thành dân tộc, đưa dân tộc tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Song ở Việt Nam, chủ nghĩa dân tộc vốn đã là động lực lớn của đất nước.
Kết hợp với chủ nghĩa yêu nước, Người khẳng định: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Người là người dân thuộc địa và là người cộng sản đầu tiên có cống hiến to lớn về nghiên cứu chủ nghĩa thực dân và vấn đề giải phóng dân tộc. Những bài báo Người viết luôn tập trung vạch trần bản chất của chủ nghĩa thực dân, nêu rõ nỗi đau khổ của dân tộc thuộc địa không chỉ ở Việt Nam mà hầu hết các châu lục. Tác phẩm đặc sắc phải kể đến là Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) và Đây công lý của thực dân Pháp. Người kiên quyết đấu tranh phê phán những người cộng sản chính quốc coi nhẹ vấn đề thuộc địa, cách mạng ở thuộc địa. Một luận điểm sáng tạo ở Người, ngược lại so với quan điểm Lenin: Cách mạng ở nước thuộc địa giành thắng lợi trước cách mạng vô sản chính quốc có thể tác động trở lại thúc đẩy cách mạng chính quốc. Nhân dân Việt Nam hoàn toàn có thể chủ động đứng lên, đem sức ta mà tự giải phóng cho ta, không ỷ lại chờ đợi cách mạng chính quốc. “Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”.
Từ thực tiễn xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, Người nêu rõ: Đây là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa mà không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Như vậy, Người đã giải quyết đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trong quá trình phát triển cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống lý luận về đường lối chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh đã chỉ ra phải phát huy tài thao lược, cách đánh giặc của dân tộc và học tập kinh nghiệm của các nước, đánh giặc với sức mạnh toàn dân, toàn diện, dám lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít đánh nhiều, lấy yếu chống mạnh, kiên cường dũng cảm kết hợp với mưu trí sáng tạo. Bên cạnh đó cần chăm lo xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi
Đặt tư tưởng Hồ Chí Minh trong quan hệ với thời đại, ta thấy rằng thế giới còn đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn sống mãi trong kho tàng văn hóa của nhân loại. Với Người, không có gì quý hơn độc lập, tự do. Để đạt được điều ấy, lực lượng của nhân dân, của dân tộc là lực lượng quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Vì lẽ ấy, Người luôn chú trọng việc đoàn kết dân tộc, đồng thời giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa quốc gia và quốc tế, giữa dân tộc Việt Nam và các dân tộc khác. Bên cạnh đó, độc lập dân tộc luôn gắn liền với tự do và hạnh phúc của nhân dân. Lợi ích của nước, của dân luôn luôn nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Giải phóng dân tộc, xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh, suy cho cùng là để đi đến giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công. Chủ nghĩa nhân văn này của Hồ Chí Minh không phải chỉ là lòng trắc ẩn mà còn gắn liền với lòng tin vào khả năng sáng tạo và lương tri của con người, tin vào bản chất tốt đẹp và khả năng vươn lên của mỗi người, dù nhất thời họ có lỗi lầm. Xây dựng con con người là động lực quyết định hướng đi lên của xã hội Việt Nam tương lai. Hồ Chí Minh là con người của tình thương yêu, tình hữu nghị rộng lớn, Người luôn hướng đến hòa bình và hữu nghị cho các dân tộc, sự phát triển các quan hệ văn hóa và nhân văn của thời đại.
Sự nghiệp xây dựng con người mới
Tư tưởng “có dân thì có tất cả” đã được Người vận dụng và phát triển trong quá trình cách mạng giành và giữ chính quyền, trong kháng chiến chống quân xâm lược cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước.
Với Người, con người vừa là mục tiêu của cách mạng, vừa là động lực của cách mạng: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Người vừa quan tâm đến cái chung, vừa chăm lo chu đáo thông qua việc làm cụ thể với những con người cụ thể, từ các giai cấp, tầng lớp, cụ già và trẻ thơ, người tàn tật, cô đơn. Vì dân, vì con người, vì sự tiến bộ của xã hội không có gì khác hơn là vì nhu cầu và lợi ích của họ, cả vật chất lẫn tinh thần. Trong xã hội mới, mọi người dân đều được ấm no, sung sướng, nhu cầu và lợi ích được thỏa mãn. Phê phán chủ nghĩa cá nhân không có nghĩa là “giày xéo lên lợi ích cá nhân.” Nhân dân có đầy đủ quyền dân chủ, về kinh tế lẫn về chính trị. Người luôn tin vào phẩm chất của con người, vào khả năng cách mạng, tự giải phóng của họ, vào bản chất tốt nghiệp ở mỗi người, vào thế hệ trẻ cả gái và trai. Người quý trọng, thương yêu con người, dù họ thuộc tầng lớp nào trong xã hội.
Người cũng chú trọng đào tạo nhân tài bởi đây là nguồn lực kiến thiết đất nước. Tư tưởng “trồng người” ở Người rất khoa học và toàn diện” con người co phẩm chất và đạo đức, ham hiểu biết, có kiến thức văn hóa, khoa học, kỹ thuật, sáng tạo. Người kêu gọi đồng bào các dân tộc phải đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ nhau để xây dựng hạnh phúc chung. Cho đến hiện tại, chiến lược con người của Người vẫn được quán triệt và áp dụng một cách hiệu quả. Chính sách giáo dục, văn hóa, khoa học và công nghệ, đào tạo nhân tài, nâng cao dân trí được chú trọng. Đầu tư cho lĩnh vực giáo dục, khoa học, y tế và văn hóa được coi là trung tâm của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận và vấn đề dân tộc
Tất cả vì dân, tất cả do dân, có dân là có tất cả. “Dân” ở đây là một phạm trù rất rộng mà vẫn bao hàm tính giai cấp, đó là Đảng phải tập hợp những phần tử ưu tú của công nhân, nông dân và trí thức. Vai trò của người dân được thể hiện rõ qua các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc. Tư tưởng toàn dân đã tạo nên sức mạnh vô địch chiến thắng mọi kẻ thù. Có nghĩa là Đảng ta luôn xác định công tác dân vận phải hướng đến mỗi một người dân, hướng đến toàn dân. Người chỉ rõ tất cả các cán bộ chính quyền, tất cả các cán bộ đoàn thể, hội viện của các tổ chức nhân dân đều phải phụ trách dân vận. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập hiện nay, cần phải kiên trì với công tác dân vận, giáo dục cho thế hệ trẻ rõ những thuận lợi và khó khăn của đất nước, đoàn kết phấn đấu giữ vững ổn định chính trị - xã hội và bản sắc văn hóa dân tộc.
Vấn đề dân tộc thiểu số cũng vô cùng được chú trọng. Ở Việt Nam dù có đông các đồng bào dân tộc thiểu số song không hề xảy ra xung đột, mà ngược lại xuyên suốt quá trình đấu tranh giành độc lập đồng bào thiểu số đã có những cống hiến lớn lao.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa được phản ánh trong trang cuối của bản thảo Nhật ký trong tù: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn".
Đối tượng trung tâm trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới là xây dựng con người mới, mà quan trọng bật nhất là xây dựng lý tưởng, đạo đức. Bên cạnh đó, cần chú trọng lối sống trong sạch, lành mạnh. Trong hai cuốn Đời sống mới và Sửa đổi lối làm việc viết đương lúc kháng chiến hết sức bề bộn, Người cho rằng văn hóa Việt Nam phải kế tục và phát triển thuần phong mỹ tục của dân tộc, coi trọng tình làng nghĩa xóm, khối đoàn kết toàn dân, làm cho mỗi người dân đều hiểu rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của mình và tôn trọng lệ làng, phép nước.
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là bộ phận hợp thành của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà lãnh đạo thiên tài mà còn là một nhà ngoại giao vĩ đại, đặt nền móng và xây dựng nền ngoại giao cách mạng và hiện đại của nước ta.
Đường lối, chính sách, chiến lược và sách lược ngoại giao và hoạt động đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn luôn hướng vào việc thực hiện có hiệu quả mục tiêu chung của cách mạng nước ta cũng như những mục tiêu cụ thể trong từng giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam. Mục tiêu chung của cách mạng Việt Nam là trước hết là độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội cho Việt Nam, thật sự đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho toàn thể nhân dân; tiếp đó là hòa bình hữu nghị, dân chủ và tiến bộ xã hội cho nhân loại.
Từ thực tiễn hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước, có thể rút ra một số nội dung chính trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh:
Thứ nhất, độc lập tự chủ gắn liền với đoàn kết quốc tế: tự lực tự cường gắn liền với hợp tác quốc tế. Độc lập tự chủ, tự lực tự cường để mở rộng hợp tác quốc tế là mối quan hệ biện chứng có tầm quan trọng hàng đầu. Độc lập tự chủ, đoàn kết, hữu nghị, thêm bạn bớt thù.
Thứ hai, tư tưởng hòa bình chống chiến tranh phi nghĩa theo truyền thống nhân văn của dân tộc là một tư tưởng lớn của ngoại giao Hồ Chí Minh. Đảng ta công bố rõ chính sách ngoại giao hòa bình hữu nghị với nhân dân các nước, sẵn sàng có quan hệ thân thiện với những nước tôn trọng nền độc lập của Việt Nam. Để tranh thủ hòa bình, có khi phải nhân nhượng, nhưng nhân nhượng có nguyên tắc.
Thứ ba, thêm bạn bớt thù. Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc xây dựng quan hệ với phong trào cộng sản thế giới, xem các nước xã hội chủ nghĩa là bạn đồng minh chiến lược, là chỗ dựa của cách mạng Việt Nam. Đồng thời, xây dựng, phát triển quan hệ tốt đẹp với các nước láng giềng trong khu vực. Giữa các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau, Người chủ trương đoàn kết và mở rộng hợp tác trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Thứ tư, dĩ bất biến ứng vạn biến là tư duy biện chứng, nguyên tắc xem xét và giải quyết những vấn đề chiến lược và sách lược trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh.
Thứ năm, Hồ Chí Minh và Đảng ta xem ngoại giao là một mặt trận, một nhân tố tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng Chiến lược ngoại giao là một bộ phận trong chiến lược chung của cách mạng bạn thân nó lại có nội dung tổng hợp, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Những tư tưởng vô cùng sáng suốt của Hồ Chí Minh đã được các thế hệ lãnh đạo tiếp nối, vận dụng sáng tạo và phát triển trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giúp ta đạt được những thành tựu to lớn.