Võ Thị Sáu - người con gái anh hùng đến từ vùng Đất Đỏ đã đi vào huyền thoại như một điểm sáng vút lên xuyên suốt cuộc đấu tranh giành độc lập gian lao của dân tộc. Tuy dung lượng không quá lớn song qua tác phẩm “Võ Thị Sáu - con người và huyền thoại” , tác giả Nguyễn Đình Thông đã thành công vẽ lại cuộc đời của chị từ những ngày tuổi thơ lam lũ cho đến lúc hy sinh oanh liệt, cũng như những huyền thoại về chị một cách đầy xúc động qua ký ức của những người đồng đội, của những ai còn mãi cảm phục tấm lòng gan dạ, bất khuất của chị.
Sự thăng trầm của một tấm bia mộ
Trong chuyến viếng thăm nghĩa trang Hàng Dương thuộc Côn Đảo của đoàn cựu tù chính trị từ Hải Phòng, những người tù năm xưa là đồng đội của Võ Thị Sáu nhận thấy rằng dường như ngày chị Sáu hy sinh không đúng như ngày ghi trên bia mộ, và cuộc hành trình tìm cho đúng ngày mất của chị Võ Thị Sáu bắt đầu. Trên bia khắc hàng chữ “Võ Thị Sáu tức Nguyễn Thị Sáu, sinh năm 1933 tại Bà Rịa, mất ngày 23-12-1952”. Song một năm sau khi chị bị bọn thực dân Pháp hành quyết, tức ngày 12-12-1952, chính họ đã tham gia vào cuộc vượt ngục quy mô nổ ra tại Bến Đầm. Như vậy, ngày mất trên tấm bia còn chứa đựng uẩn khúc. Đoàn cựu tù nhân sau đó tìm đến Khu di tích lịch sử Côn Đảo, tại đây, nhờ kho lưu trữ hồ sơ, họ biết được cuốn sổ ghi tên những người đã chết tại Côn Đảo, có ghi rõ thông tin cá nhân, ngày chết, lý do chết. Trong đó có cả thông tin của chị: “Võ Thị Sáu tức Nguyễn Thị Sáu, sinh năm 1933, tại Bà Rịa, án tử hình; số tù G.267, chết lúc 7 giờ ngày 23-1-1952, do việc thi hành án tử hình.” Sự sai sót trên khó mà tránh khỏi bởi kể từ ngày chị mất, tấm bia mộ của chị phải chịu nhiều thăng trầm. Tấm bia mộ đầu tiên được dựng ngay tối hôm chị hy sinh. Ngay hôm sau, chúa đảo dẫn lính đập nát bia, cào bằng ngôi mộ, nhưng sau một đêm một tấm bia mới lại được dựng lên trang trọng. Bọn chúa ngục càng đập bia, phá mộ thì tù nhân càng quyết tâm dựng lại bia cho chị. Nhiều người bị khủng bố, tra tấn đến mức phải nằm bệnh xá, song những người còn đi làm vẫn lén dựng bia, đắp mộ. Cũng chính từ đây, dân đảo lan truyền rằng cô Sáu rất linh thiêng, không ai phá được mộ cô.
Tuổi thơ trên quê hương Đất Đỏ & người trinh sát trẻ tuổi
Sinh ra và lớn lên tại xã Phước Thọ, quận Đất Đỏ - vùng đất giàu truyền thống cách mạng qua cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ở tuổi 12 Võ Thị Sáu đã can trường theo bước chân anh Năm tham gia cách mạng bảo vệ thôn xóm. Tuổi thơ lam lũ nhưng chị thông minh, tháo vát, ít nói, hay suy tư. Vừa phụ giúp ba má, Sáu vẫn giúp đem đồ tiếp tế vào đến căn cứ cho anh Năm. Sáu lặng lẽ quan sát hành tung của bọn lính, chỉ điểm để cung cấp tin tức cho các anh. Có lần nhờ Sáu báo tin mà đơn vị mới kịp sơ tán khỏi trận càn do tên phản bội dẫn đường. Nhận thấy Sáu có tư chất trở thành chiến sĩ trinh sát, Hồ Hiệp - trưởng công an quận Đất Đỏ đề nghị với ông Năm - cha của Sáu - tuyển chị vào đội Công an xung phong và được chấp nhận ngay. Khi ấy Sáu mới 14 tuổi.
Sau khi tham gia lớp thiếu sinh quân, Võ Thị Sáu trở thành chiến sĩ trinh sát của Đội Công an xung phong Đất Đỏ, giúp cho đội ít bị phục kích, tổn thất hơn. Dù nhỏ tuổi song Võ Thị Sáu luôn có một cách đánh rất táo bạo: đánh địch ngay tại hang ổ của chúng. “Đó là lối đánh rất riêng của Sáu, và dường như nó đã trở thành định mệnh cho người con gái xứ Đất Đỏ này”. Một lần, Sáu xin phép đội trưởng cho chị trực tiếp tham gia trận phá cuộc mít tinh kỷ niệm ngày quốc khánh Pháp. Chị quan sát khán đài từ nửa đêm, chờ đến khi tỉnh trưởng cùng bọn lính lùa đồng bào vào sân thì ném lựu đạn và phía khán đài. Một lần khác, Sáu đề nghị diệt tên cai tổng Tòng ngay tại văn phòng của hắn. Chị hòa vào tốp người làm căn cước, giấu đạn trong cơi đựng trầu, chờ đến khi người thưa chị ném đạn vào thẳng mặt cai tổng. Song người con gái anh dũng ấy cũng biết run như bao người. Chị sợ ngồi lại còn một mình sẽ bị nghi ngờ, nhưng lúc bà con còn đó thì sợ đạn nổ trúng người vô tội.
Bản án tử hình
Rồi trận đánh định mệnh của người thiếu nữ anh hùng ấy cũng đến, chị bị bắt, sau những tháng ngày giam cầm, chị lãnh án tử hình. Nhiệm vụ lần này của chị là diệt hai tên Suốt và Đay. Lúc ấy đương dịp Tết, chị ăn mặc như cô thôn nữ lẫn vào dòng người lũ lượt sắm Tết đang ra vào chợ, trong giỏ để hai trái lựu đạn. Sáu bám theo bọn lính, chờ đến khi bọn chúng ra khỏi cổng chợ rồi rút chốt lựu đạn ném vào tốp lính, song chẳng hay phía sau chị có một tên lính đang rình theo sát. Bọn lính nghe được tiếng hô hào bủa vây bắt lấy chị.
Sau ba ngày tra tấn nhưng không moi được thông tin ở chị, tháng 4-1950 chúng chuyển chị về Khám Chí Hòa (Sài Gòn). Tại đây, chị vẫn lạc quan, tham gia các hoạt động của Liên đoàn tù nhân Khám Lớn Chí Hòa, được các anh chị em trong tù hết sức thương yêu, cảm phục và giúp đỡ. Tháng 4-1951, Võ Thị Sáu lãnh án tử hình trước tòa án quân sự thường trực Pháp bởi tội tham dự vào các vụ giết hại các nhà chức trách ở Đất Đỏ. Tuy vậy, chị vẫn rất rắn rỏi đối đáp với tòa. Khi quan tòa hỏi chị có nhìn nhận tội trạng như trên bản cáo trạng không, chị hỏi lại: “Là quan tòa, ông có thể kết tội những người Pháp Đờ Gôn chống phát xít Đức chiếm đóng nước Pháp không?”. Giọng chị nghiêm nghị: “Tôi không có tội! Yêu đất nước mình, chống bọn thực dân xâm lược, không phải là một tội.”
Bản án tử hình chị Võ Thị Sáu làm rúng động dư luận thời đó, và dấy lên phong trào phản chiến ở Pháp mạnh mẽ. Bởi luật pháp của Pháp không cho phép tử hình phụ nữ và người chưa đủ tuổi thành niên. Nhiều người thuộc tầng lớp trí thức Pháp đã tố cáo Chính phủ Pháp lừa gạt, đẩy thanh niên Pháp vào cuộc chiến tranh phi nghĩa, dơ bẩn. Cũng nhờ vậy mà chị Sáu chưa bị xử bắn ngay, bởi bọn Pháp còn e dè dư luận. Về phần gia đình chị, ông Năm chỉ trầm ngâm uống rượu, còn bà Đậu, tức mẹ chị, sau khi nghe tin con thì liền khóc ròng. Bà quyết tìm mọi cách để thăm con lần cuối cùng.
Lúc gặp mẹ, nước mắt tràn ra ướt đẫm mặt chị. Hơn một năm sống cảnh tù đày tra tấn cũng không lấy đi của chị một giọt nước mắt, mà ngay lúc này đây, lần đầu tiên chị vỡ òa trong ngực mẹ. Ước nguyện cuối cùng của chị là có một bộ đồ mới để mặc vào ngày cuối cùng của đời mình. Suốt buổi trò chuyện, chị vẫn luôn an ủi má mà không đề cập gì đến cái chết đang cận kề.
Mùa xuân chưa kịp đến
Khoảnh khắc cuối cùng, Võ Thị Sáu vẫn giữ cho mình vẻ hiên ngang khiến kẻ thù run sợ. “Bốn giờ sáng ngày 21-1-1952, bọn Pháp còng tay chị đưa xuống chiếc hải vận hạm đậu ở bến Bạch Đằng”. “Sáu đưa mắt nhìn đau đáu về dãy núi Châu Viên. Phía sau dãy núi ấy là Đất Đỏ, quê hương chị. Mùa hoa lêkima đang nở.” Chị bị giam tại xà lim Sở Cò trước khi bị hành quyết. Buổi chiều hôm ấy, chị chỉ ao ước được ra bên ngoài tắm nắng vài phút, ngắm lấy trời đất quê hương mình. Chị không ngủ mà hát suốt đêm những bài hát kháng chiến hào hùng. Bốn giờ sáng ngày 23-1-1952, Võ Thị Sáu bị áp giải đến nơi hành quyết. Khi viên cố đạo muốn làm lễ rửa tội cho chị, Sáu gạt phắt đi. Chị gan góc đáp:
- Tôi không có tội! Nếu cha muốn rửa tội, xin hãy rửa tội cho những kẻ sắp giết tôi đây
- Tôi chỉ ân hận là chưa tiêu diệt hết bọn thực dân cướp nước và tay sai bán nước.
Chị yêu cầu không bịt mắt lúc hành án để được nhìn ngắm quê hương mình giây phút cuối, và chị bắt đầu cất lời ca mặc kệ tên chánh án, bọn đao phủ đang vồ đến tước đoạt mạng sống mình. “Chị đưa mắt nhìn thẳng vào bảy tên đao phủ, bảy nòng súng đen ngòm chỉ cách chị có mười thước. Bọn lính giương súng đợi lệnh. Chị không nghe tiếng bọn lính lên đạn. Chị vẫn nhìn đăm đăm như muốn thu cả đất trời vào đôi mắt mình, để rồi giây phút nữa thôi, chị cũng tan biến vào trời đất.” Ánh nhìn ngạo nghễ và giễu cợt của chị khiến đám đao phủ hoảng loạn, nhiều tên nhắm mắt bóp cò khiến đạn đi trật hướng vào bả vai và sườn chị. Một tên phải đi đến cạnh bên chị dí súng vào tai bóp cò.
Những người tù ở đây đã bồn chồn từ hôm Võ Thị Sáu đến. Ngay cả tên cò, vợ con gác ngục dường như cũng cảm thấy thổn thức trước người con gái nhỏ nhắn cứng cỏi này. Lúc này đây, “chỉ có tiếng hát trầm hùng của hai ngàn tù nhân đưa tiễn chị… Họ đã cố lắng nghe tiếng bước chân trần của người thiếu nữ anh hùng giữa tiếng hỗn độn, đầy sát khí của lũ âm binh tử thần.” “Đúng vào lúc ấy, bài hát Chiến sĩ ca, bài ca không quên thời ấy, dành để đưa tiễn những người đồng đội ra pháp trường đã vang lên từ khám này, tiếp qua khám khác”. Khoảnh khắc chị ngã xuống, hơn hai ngàn tiếng la vọng tới: “Đả đảo thực dân Pháp! Tinh thần Võ Thị Sáu bất diệt.”
Huyền thoại về chị Sáu
Những huyền thoại về Võ Thị Sáu nhanh chóng lan truyền sau cái chết của chị. Nhiều người dân thấy chị hiện về hiền lành, còn kẻ thù bị chị nhìn thì lạnh cả người. Khi chúa đảo và giám thị trưởng liên tục đập phá bia mộ chị nhiều người đồn rằng hồn Cô Sáu hiện về mặc áo dài trắng từ ngôi mộ bước đi về thị trấn. Các gia đình gác ngục và viên cò lập bàn thờ Cô Sáu, mang hương quả đến viếng mộ chị. Dân đảo đồn tên tù gian Nguyễn Văn Tân bị Cô Sáu bắt tội vì chỉ điểm cho người ta đập phá bia mộ. Thiếu tá Bạch Văn Bốn vốn không tin chuyện thần thánh, song một lần Bốn thấy bóng người áo trắng nhìn mình sắc lạnh, hắn sợ rụng rời và cư xử biết điều hơn. Một chuyện khác là vợ giám thị Đỗ Văn Phục đột nhiên sốt cao, mắt trợn ngược, miệng sùi bọt, thét lên với chồng như bị Cô Sáu nhập hồn. Sau Phục phát hiện vợ mình bất tỉnh bên mộ chị Sáu. Từ đó hắn hứa trước mộ sẽ ăn năn hối cải, xin tha tội thì vợ mới tỉnh lại. Tên tù Nghị mới đến không nghe lời dân trên đảo cả gan đi đập bia Cô Sáu, ít hôm sau hắn vật vờ hóa điên phải chuyển vào nhà thương, được ba hôm thì chết. Ngược lại, người thành tâm khấn bái Cô Sáu thì được phù trợ, ví như Tăng Tư ở Côn Đảo bốn năm đương lúc chính quyền Ngụy gặp khó khăn, xong hắn liên tục thăng tiến.
Sau ngày giải phóng đất nước, mộ chị Sáu đã được xây cất lại đàng hoàng. Người dân trên đảo vẫn thờ Cô Sáu như thần hộ mệnh. Hằng năm vào ngày chị mất, những người đồng đội của Võ Thị Sáu vẫn tề tụ đến Côn Đảo tìm lại kỷ niệm về người em gái Đất Đỏ thân thương của mình. Chị đã ra đi, rồi đây những nhân chứng ấy cũng sẽ ra đi, nhưng tinh thần và huyền thoại về chị sẽ còn sống mãi trong lòng các thế hệ trẻ Việt Nam.