C
húng ta đều muốn có những trải nghiệm – trải nghiệm mang tính cao siêu, thần bí, về tâm linh, tình dục, trải nghiệm việc nắm trong tay nhiều tiền bạc, của cải, quyền lực chi phối và địa vị. Khi luống tuổi, chúng ta có thể không còn đòi hỏi quá nhiều về vật chất, nhưng lúc đó, chúng ta lại đòi hỏi những trải nghiệm mang ý nghĩa rộng lớn, sâu xa hơn và thử vô số cách để có được chúng, chẳng hạn như tìm cách mở rộng phạm trù nhận thức của mình hoặc thử đủ loại chất kích thích khác nhau – thật ra, người xưa cũng đã biết nhai nát một loại lá đặc biệt nào đó, hay tổng hợp các loại hóa chất mới nhất nhằm thay đổi tạm thời cấu trúc não bộ, mang lại cảm xúc hưng phấn, tăng độ tinh nhạy giác quan và sức mạnh nhận thức. Sự nghèo nàn nội tâm của chúng ta được biểu hiện qua mong muốn thoát khỏi bản thân thông qua những trải nghiệm, nhưng hiện trạng mới là tác nhân chi phối mọi thứ. Nếu tâm trí nhỏ nhen, đố kỵ, đầy lo âu, nó có thể nếm trải ảo giác nhờ các chất kích thích mới nhất; nhưng trên thực tế cũng chỉ thấy được những hình ảnh, tạo vật, sự phóng chiếu hèn mọn dựa trên cái nền tảng hạn hẹp, bị chi phối của chính nó.
Hầu hết chúng ta đòi hỏi sự thỏa mãn tuyệt đối, cùng trải nghiệm kéo dài bất chấp mọi tác động từ phía tư tưởng. Vậy đằng sau đòi hỏi về trải nghiệm là khao khát luôn chi phối, ngăn cản ta hiểu toàn diện về thỏa mãn hoặc những điều mình trải nghiệm. Được thỏa mãn ở mức độ nào đó là một niềm khoái lạc lớn; trải nghiệm càng kéo dài, sâu xa và rộng mở bao nhiêu, chúng ta càng vui sướng bấy nhiêu – khoái cảm chi phối, đồng thời là thước đo đánh giá trải nghiệm. Trên thực tế, mọi thứ có thể được đo đạc đều nằm trong giới hạn của tư tưởng và có khuynh hướng tạo ra ảo mộng. Những trải nghiệm kỳ diệu có thể hoàn toàn là một sự lừa bịp, mọi ảo ảnh đều dựa trên chính hoàn cảnh của chúng ta. Niềm tin trong ta càng mãnh liệt, thì ảo tưởng càng mạnh mẽ, và hình ảnh phóng chiếu của những đòi hỏi và thôi thúc cá nhân càng hằn sâu trong tâm trí.
Vì vậy, nếu tìm kiếm một điều mang tính căn cơ như chân lý, mà lại lấy lạc thú làm thước đo thì bạn đã phóng chiếu sẵn trải nghiệm trong đầu và do đó nó không xác thực.
Trải nghiệm đối với chúng ta, có phải là một điều mới mẻ và nguyên thể không? Hay đó chẳng qua là tập hợp những phản hồi của ký ức trước thách thức, dựa trên nền tảng sẵn có. Bạn càng thông minh và giàu tri thức, kinh nghiệm thì phản ứng ấy càng mạnh mẽ. Vậy bạn phải chất vấn về trải nghiệm, không chỉ của người khác mà của cả chính mình. Nếu bạn không nhận thấy một trải nghiệm, nó đâu phải là trải nghiệm. Bạn nhận thấy rằng một trải nghiệm là tốt hay xấu,... tùy theo hoàn cảnh của mình, vậy sự nhận diện đó chắc chắn mang tính cũ kỹ.
Khi ta đòi hỏi một trải nghiệm về thực tại, chúng ta phải biết về nó; tại khoảnh khắc nhận ra nó thì chúng ta đã có sẵn một hình ảnh phóng chiếu rồi. Vậy, trải nghiệm không có thật bởi nó vẫn nằm trong phạm trù của tư duy và thời gian. Nếu tư duy có thể nghiệm về thực tại, điều đó không thể là thực tại. Chúng ta không thể nhận ra một trải nghiệm mới – ta chỉ nhận ra điều mà mình đã biết; do đó, chẳng có trải nghiệm nào là mới mẻ. Việc tìm kiếm trải nghiệm sâu xa hơn thông qua sự mở rộng nhận thức – chẳng khác gì thông qua việc sử dụng chất kích thích gây ảo giác – vẫn thuộc phạm trù của ý thức, thế nên vô cùng hạn hẹp.
Chúng ta vừa khám phá ra một sự thật căn cơ, đó là cái tâm thức đang tìm kiếm, khao khát để có trải nghiệm rộng mở, sâu sắc hơn quả nhiên chỉ là cái tâm thức nông cạn, hời hợt và tăm tối, chỉ sống với ký ức riêng nó.
Giờ đây, nếu không có bất cứ trải nghiệm nào, thì điều gì sẽ xảy ra với chúng ta? Chúng ta lệ thuộc vào những trải nghiệm, thách thức nhằm giữ mình tỉnh giác. Nếu trong ta không có xung đột, thay đổi hoặc loạn động, thì hầu hết chúng ta dễ dàng ngủ quên. Vì vậy, đối với ta, thách thức là cần thiết để ngăn tâm trí trở nên ngu muội và nặng nề; ta lệ thuộc vào thách thức và trải nghiệm để khiến mình hào hứng, mạnh mẽ, đầu óc sắc bén hơn. Nhưng trên thực tế, sự lệ thuộc ấy chỉ khiến tâm ta thành ra ngu muội, mờ mịt. Liệu có cách nào giữ tâm trí hoàn toàn tỉnh giác, không chỉ tại vài điểm trên con đường tồn sinh, mà trong toàn tiến trình hiện hữu? Để tỉnh giác mà không cần đến trải nghiệm hoặc thách thức, đòi hỏi sự tinh nhạy cả về thể xác và tinh thần. Ta phải từ bỏ mọi nhu cầu của mình, bởi đòi hỏi cũng chính là trải nghiệm nhằm đạt đến sự thỏa mãn; để tự do, chúng ta cần hiểu về chính mình cùng toàn bộ bản chất của nhu cầu một cách thấu đáo.
Nhu cầu đến từ bản tính nhị nguyên của con người, chẳng hạn như: “Tôi bất hạnh, nên tôi phải hạnh phúc”. Ấn giấu trong nhu cầu hạnh phúc đó là sự bất hạnh. Khi người ta nỗ lực để tử tế, trong đó có mặt trái của nó, tức xấu xa. Mọi điều được quả quyết đều chứa đựng mặt trái của nó, và nỗ lực thực hiện chỉ củng cố cho cái tương phản với điều nó phấn đấu hướng đến. Khi bạn đòi hỏi trải nghiệm về chân lý hoặc thực tại, nhu cầu đó phát sinh từ sự bất bình với điều đang là, do đó, bạn đang khuyến khích cho cái đối lập với nó – điều vẫn là . Những nhu cầu này phải biến mất để chúng ta thoát khỏi cái vòng lẩn quẩn mà mình vướng kẹt vào – con người cần phải hiểu mình sâu sát đến mức tâm trí không còn quẩn quanh tìm kiếm.
Một tâm trí như thế sẽ không đòi hỏi trải nghiệm, nó không biết đến và chẳng thể đòi hỏi về một thách thức; nó không nói “Tôi say ngủ” hoặc “Tôi tỉnh thức” mà chỉ biết đến hiện trạng. Chỉ những cái tâm chán nản, hẹp hòi, cạn cợt và bị ảnh hưởng mới không ngừng lùng kiếm nhiều điều hơn nữa. Liệu chúng ta có thể được sống trong một thế giới không có cái nhiều hơn – không liên tục so đo và bị so đo, đánh giá và bị đánh giá?
Sự suy xét về toàn bộ câu hỏi này, là thiền định; từ này mang nhiều ý nghĩa, biểu hiện ra nhiều trường phái, phương thức và hệ thống khác nhau ở cả phương Đông và phương Tây. Có phương pháp bắt đầu với việc quan sát chuyển động của ngón chân cái và cứ thế mà quan sát nó. Phương pháp khác hướng dẫn ta ngồi theo một tư thế nào đó, hít thở đều và luyện sự tỉnh giác. Cũng có phương pháp đưa ra một từ nào đó để bạn lặp lại nó mãi nhằm có được trải nghiệm siêu việt. Tất cả chúng đều rất máy móc và vô nghĩa, thực chất chỉ là một dạng tự thôi miên. Sự lặp lại kéo dài khiến tâm trí bạn chìm vào yên lặng, đó là một quá trình được thực hành từ ngàn năm nay ở Ấn Độ. Tụng niệm giúp tâm nhẹ nhàng và ôn hòa hơn, nhưng về bản chất đó vẫn là cái tâm nhỏ nhen, tầm thường, bất thiện. Thậm chí, bạn cứ ra vườn nhặt một khúc cây, đặt lên bệ lò sưởi và hằng ngày mang tặng nó một bông hoa mà xem; sau một tháng, bạn đã tôn thờ nó và nếu lỡ quên mang hoa đến trước nó một ngày, cũng là đắc tội.
Thiền định không đặt ra bất cứ hệ thống, phương pháp nào, nó không bao hàm sự mô phỏng, tụng niệm hay tập trung tư tưởng. Nhiều vị thiền sư yêu cầu các thiền sinh mới học cách tập trung tư tưởng – định tâm và loại trừ mọi ý nghĩ viển vông. Đây là việc khó chịu nhất mà thiền sinh thực hành vì bị bắt buộc – tham dự vào cuộc vật lộn giữa nỗ lực tập trung và tâm trí nghĩ lan man; trong khi đó, cái ta cần làm là chú tâm vào động tĩnh của tâm trí khi vọng tưởng khởi lên, điều đó chứng tỏ rằng ta hứng thú với chuyện khác hơn.
Thiền định đòi hỏi cái tâm tỉnh giác để thấu hiểu toàn bộ cuộc sống, mọi sự phân mảnh vụn vặt trong đó đều phải dừng lại. Nó không phải là kiểm soát tư tưởng vì điều đó dẫn đến xung đột nội tâm. Một khi ta hiểu được cơ cấu và sự khởi lên của suy nghĩ thì cùng lúc đó, suy nghĩ không còn can thiệp; sự thấu hiểu đó là thiền định. Nếu có thể nhận thức về từng suy nghĩ và cảm nhận, không bàn đến đúng sai mà chỉ quan sát, thì khi đó ta bắt đầu hiểu được toàn bộ chuyển động của suy nghĩ và cảm nhận. Trạng thái tĩnh lặng do suy nghĩ cố công tạo dựng là sự mụ mị, bất động; nhưng tĩnh lặng – đến từ sự thấu hiểu trạng thái bị kìm kẹp của suy nghĩ cũ kỹ – chính là thiền định, mà trong đó thiền giả hoàn toàn biến mất, chỉ còn cái tâm đơn sơ, rỗng rang, tự do khỏi quá khứ.
Nếu bạn chú tâm hoàn toàn trong suốt quá trình đọc quyển sách này, đó là thiền. Nếu bạn chỉ chăm chú vào một số từ ngữ và ý tưởng, để dành nghiền ngẫm sau này, đó không phải là thiền định. Thiền định là soi rọi mọi thứ với sự chú tâm trọn vẹn, không ai có thể dạy ta điều đó. Nếu có phương pháp nào dạy cách chú tâm và ta chỉ chú ý vào phương pháp này thì đó không phải là chú tâm. Thiền định là một trong những nghệ thuật vĩ đại và đẹp đẽ nhất của cuộc sống, người ta không thể học thiền, tìm hiểu kỹ thuật thiền hay được tác động để có thể thiền. Khi bạn tìm hiểu, quan sát bản thân, theo dõi cách mình đi đứng, ăn nói, ngồi lê đôi mách, thù hằn, ganh ghét đố kỵ,... nhận thức mọi thứ về chính mình mà không lựa lọc, đó là một phần của thiền định. Bạn có thể thực hành thiền khi đang ngồi trên xe buýt, đi dạo trong rừng, lắng nghe tiếng chim hót, hoặc ngắm nhìn gương mặt của vợ con mình...
Hiểu về thiền định là yêu thương, tình thương yêu không thể được rèn giũa, luyện thành thói quen, đạt đến nhờ phương pháp nào đấy hay được bồi đắp với suy nghĩ. Tình thương yêu có lẽ sẽ đến trong thinh lặng tuyệt đối, đó là khi tâm thức hiểu được sự chuyển dịch của chính nó với suy nghĩ và cảm nhận, quan sát mà không chỉ trích, phê phán chúng. Sự quan sát đó là cách thức kỷ luật linh động và thoải mái, không phải những điều lệ hà khắc bắt buộc ta tuân theo.