C
ó hai loại chuyển dịch quyền lực đang xảy ra trong thế kỷ này: chuyển tiếp quyền lực và phân tán quyền lực. Chuyển tiếp quyền lực từ trạng thái trội sang trạng thái khác là một sự kiện lịch sử quen thuộc, nhưng phân tán quyền lực là quá trình mới mẻ hơn. Vấn đề đối với tất cả các nhà nước trong thời đại thông tin ngày nay là có nhiều thứ xảy ra nằm ngoài tầm kiểm soát của ngay cả các nhà nước hùng mạnh nhất. Nói theo một nguyên giám đốc hoạch định chính sách của Bộ Ngoại giao Mỹ về hoạch định chính sách, “Sự phát triển dồi dào của thông tin là nguyên nhân của vô cực không khác gì sự phát triển dồi dào của vũ khí”1. Hay như một nhà phân tích người Anh nói, “Chúng ta ngày càng đối mặt nhiều hơn với nguy cơ, đe dọa, và thách thức ảnh hưởng tới nhiều người trong một nước nhưng lại chủ yếu hoặc hoàn toàn phát sinh ở các nước khác... khủng hoảng tài chính, tội phạm có tổ chức, di cư hàng loạt, trái đất ấm dần, đại dịch, và khủng bố quốc tế, đơn cử vài trường hợp như vậy... Một trong những lý do chính cho khó khăn này là quyền lực đã bị phân tán ở cả bề ngang lẫn bề dọc. Chúng ta không hẳn có một thế giới đa cực mà là một thế giới vô cực”2.
Một số nhà quan sát hoan nghênh xu hướng này, cho rằng nó đánh dấu sự suy yếu của mô hình nhà nước tự trị mà bấy lâu là các tổ chức quốc tế nổi trội kể từ Hòa ước Westphalia năm 1648. Họ tiên đoán rằng cuộc Cách mạng Thông tin sẽ cào bằng hệ thống thứ bậc quan liêu và thay thế nó bằng các tổ chức mạng. Thị trường tư nhân cũng như các pháp nhân phi lợi nhuận sẽ đảm nhận nhiều chức năng chính phủ hơn. Khi phát triển trên Internet, các cộng đồng ảo sẽ cắt ngang qua những vùng tài phán lãnh thổ và phát triển mô hình quản lý riêng của mình. Nhà nước sẽ bớt hẳn tầm quan trọng đối với cuộc sống quần chúng. Quần chúng sẽ sinh sống theo nhiều hợp đồng tự nguyện và ra vào cộng đồng chỉ bằng một cú nhấp chuột. Kiểu mẫu cộng đồng và phương thức quản lý cắt chéo mới này sẽ trở thành một phiên bản hiện đại và văn minh hơn của thế giới phong kiến đã tồn tại trước sự trỗi dậy của nhà nước hiện đại3.
CÁCH MẠNG THÔNG TIN
Những chuyển đổi điện tử cực đoan như thế này vẫn hoang đường, nhưng một cuộc cách mạng thông tin mới đang thay đổi bản chất của quyền lực và làm tăng sự phân tán quyền lực. Nhà nước sẽ vẫn là chủ thể nổi trội trên vũ đài thế giới, nhưng sẽ nhận thấy vũ đài này đông đúc và khó kiểm soát hơn hẳn. Đại đa số quần chúng cả trong nước lẫn giữa các nước với nhau đều có thể sử dụng quyền lực phát sinh từ thông tin, đơn cử như Trung Đông ngày nay. Chính phủ vẫn luôn lo lắng về dòng chảy lẫn sự kiểm soát thông tin, và giai đoạn hiện tại không phải là giai đoạn đầu tiên chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các thay đổi đầy kịch tính.
Cuộc Cách mạng Thông tin hiện tại, đôi khi được gọi là “Cách mạng Công nghiệp lần 3”, dựa vào các tiến bộ nhanh chóng về công nghệ trong ngành điện toán, viễn thông, và phần mềm; các tiến bộ này lại dẫn đến sự sụt giảm đáng kể về chi phí tạo ra, xử lý, truyền tải cũng như tìm kiếm thông tin. Sức mạnh điện toán tăng gấp đôi mười tám tháng một lần trong ba mươi năm, và đầu thế kỷ XXI, chi phí điện toán bằng một phần nghìn so với đầu những năm 1970. Nếu giá ô tô giảm nhanh bằng giá chất bán dẫn, ô tô sẽ có giá 5 USD.
Năm 1993, có khoảng 50 trang mạng trên thế giới; trước năm 2000, con số đó đã vượt 5 triệu. Một thập kỷ sau, tính riêng Trung Quốc đã có hơn 400 triệu người dùng Internet và mạng xã hội Facebook có khoảng 500 triệu người dùng. Băng thông viễn thông đang mở rộng nhanh chóng, và chi phí viễn thông tiếp tục giảm còn nhanh hơn sức mạnh điện toán. Chỉ mới năm 1980, gọi điện thoại qua dây đồng chỉ truyền được một trang thông tin mỗi giây; ngày nay, một sợi cáp quang mỏng có thể truyền 90.000 quyển trong một giây. Năm 1980, một gigabyte lưu trữ chiếm không gian một căn phòng; bây giờ 200 gigabyte lưu trữ nằm gọn trong túi áo của ta. Lượng thông tin kỹ thuật số cứ 5 năm một thì tăng gấp 10 lần4.
Đặc trưng mấu chốt của cuộc Cách mạng Thông tin này không phải là tốc độ viễn thông giữa người giàu và người có quyền lực: Trong hơn một trăm ba mươi năm, viễn thông tức thời bằng điện báo vẫn luôn tồn tại giữa châu Âu và Bắc Mỹ. Thay đổi trọng yếu là sự sụt giảm khổng lồ về chi phí truyền tải thông tin. Thực tế mà nói, chi phí truyền tải thực chất đã trở nên không đáng kể; do đó, lượng thông tin có thể truyền đi khắp thế giới hầu như là vô tận. Kết quả là sự bùng nổ thông tin, trong đó, tài liệu sổ sách chỉ là một phần rất nhỏ. Theo ước tính, 161 tỉ gigabyte thông tin số đã được tạo ra và lưu trữ, tính riêng trong năm 2006 (gấp khoảng 3 triệu lần lượng thông tin trong tất cả các cuốn sách được viết). Năm 2010, tăng trưởng hằng năm về thông tin số dự kiến sẽ tăng hơn 6 lần lên đến con số 988 tỉ gigabyte. Đầu thế kỷ XXI, người dùng máy tính đã gửi khoảng 25 nghìn tỉ email mỗi năm. Trước năm 2010, 70% tất cả các thông tin được tạo ra mỗi năm trên thế giới đến từ email, video trực tuyến, và các trang mạng. Thay đổi kịch tính này trong công nghệ điện toán và viễn thông liên kết với nhau đang thay đổi bản chất của chính phủ đồng thời đẩy nhanh sự phân tán quyền lực.
Giữa thế kỷ XX, người ta sợ rằng ngành điện toán và viễn thông của cuộc Cách mạng Thông tin sẽ tạo ra sự kiểm soát của chính phủ trung ương được kịch tính hóa trong tiểu thuyết sầu bi không tưởng (dystopia) 1984 của George Orwell. Các máy tính lớn (mainframe) có vẻ như sẵn sàng tăng cường hoạch định trung ương cũng như quyền lực giám sát của những người đứng trên đỉnh kim tự tháp của quyền kiểm soát. Truyền hình chính phủ sẽ thống trị thời sự. Qua các cơ sở dữ liệu trung tâm, máy vi tính có thể giúp chính phủ xác định nhân thân và giám sát dễ dàng hơn.
Thay vì vậy, khi sức mạnh điện toán đã giảm về chi phí và máy tính thu nhỏ lại bằng kích thước của điện thoại thông minh lẫn những thiết bị di động khác, các tác động mang tính phân quyền của nó quan trọng hơn các tác động trung ương hóa. Quyền lực về thông tin ngày nay được phân phối rộng rãi hơn hẳn chỉ vài thập kỷ trước đây. So với truyền thanh, truyền hình, và báo chí do biên tập viên cùng nhân viên truyền phát kiểm soát, Internet tạo ra sự giao tiếp vô hạn một đối một (qua email), một đối đa số (qua trang mạng cá nhân, blog, hay Twitter), đa số đối một (như Wikipedia), và, có lẽ là quan trọng nhất, đa số đối đa số (như các phòng tán gẫu trên mạng hay các trang mạng xã hội như Facebook hay LinkedIn). So sánh những phương thức mới này với những tiến bộ trước đây trong viễn thông, ta có thể thấy sự khác biệt là “các thông điệp Internet có khả năng lan xa hơn, nhanh hơn, và ít qua các bước trung gian hơn”5. Thông tin thường có thể cung cấp một tài nguyên quyền lực chủ chốt, và có nhiều người hơn tiếp cận được nhiều thông tin hơn so với trước đây.
Điều này đồng nghĩa với việc chính trị thế giới sẽ không nằm trong thẩm quyền duy nhất của các chính phủ. Khi chi phí điện toán và viễn thông giảm, những rào cản tiếp cận cũng suy yếu. Cả các cá nhân lẫn các tổ chức tư nhân, từ tập đoàn, NGO đến các kẻ khủng bố, đều được tiếp sức mạnh để đóng vai trò trực tiếp trong chính trị thế giới. Sự lan truyền thông tin đồng nghĩa với việc quyền lực sẽ được phân phối rộng rãi hơn và các mạng lưới không chính quy sẽ làm suy yếu độc quyền của bộ máy quan liêu truyền thống. Tốc độ của thời đại Internet đồng nghĩa rằng tất cả chính phủ có ít kiểm soát hơn đối với nghị trình của mình. Các lãnh đạo chính trị sẽ được hưởng mức độ tự do ít hơn trước khi phải phản ứng lại với các sự kiện, và họ sẽ phải chia sẻ vũ đài với nhiều chủ thể hơn.
Về mặt nguyên lý, khi chi phí lẫn các rào cản nhập ngành vào thị trường suy giảm, cuộc Cách mạng Thông tin phải giảm cả quyền lực của các nhà nước lớn và tăng cường quyền lực của các nhà nước nhỏ cũng như các chủ thể phi nhà nước. Nhưng trong thực tế, các quan hệ quốc tế phức tạp hơn những ngụ ý của lý thuyết tiền định về công nghệ như thế này. Vài khía cạnh của cuộc Cách mạng Thông tin giúp bên nhỏ yếu; nhưng một số lại giúp nhóm đã lớn mạnh sẵn. Quy mô vẫn quan trọng. Điều mà các nhà kinh tế gọi là tính kinh tế của quy mô vẫn tồn tại trong một vài khía cạnh của quyền lực có liên quan đến thông tin. Mặc dù một tin tặc và một chính phủ có thể tạo ra thông tin lẫn khai thác Internet, đối với nhiều mục đích, điều quan trọng là các chính phủ lớn có thể huy động hàng chục nghìn người được đào tạo và có sức mạnh điện toán khổng lồ để phá mã hay xâm nhập vào các tổ chức khác. Trong trường hợp quyền lực mềm, các nền công nghiệp giải trí kỳ cựu như Hollywood và Bollywood được hưởng đáng kể tính kinh tế của quy mô trong sản xuất và phân phối nội dung. Hơn nữa, trong nền kinh tế thông tin, có những “tác động mạng lưới” với lợi tức tăng dần theo quy mô. Như ta biết, chỉ một điện thoại thì vô ích. Điện thoại tiếp theo sẽ tăng giá trị và cứ như thế mạng lưới tăng trưởng.
Thêm vào đó, mặc dù việc phổ biến thông tin có sẵn không tốn nhiều chi phí, nhưng việc thu thập và sản xuất thông tin mới thường đòi hỏi đầu tư lớn. Trong nhiều tình huống cạnh tranh, thông tin mới mẻ là quan trọng nhất. Trong một số tình huống, thông tin là một món hàng công cộng không cạnh tranh: Việc tiêu thụ thông tin của một người không làm suy giảm việc tiêu thụ của người khác. Thomas Jefferson đã dùng hình ảnh ví von của một ngọn nến: Nếu tôi cho quý vị một ngọn đèn, nó không làm giảm ánh sáng của tôi. Nhưng trong tình huống cạnh tranh, có thể sẽ có khác biệt lớn nếu tôi có ngọn đèn trước và thấy được sự vật trước quý vị. Thu thập tình báo là một ví dụ điển hình. Mỹ, Nga, Anh, Trung Quốc, và Pháp có khả năng thu thập và sản xuất tin tình báo tốt hơn hẳn đa số các nhà nước.
Như ta đã thấy trong chương 2, quyền lực quân sự vẫn quan trọng trong các lĩnh vực trọng yếu của chính trị toàn cầu. Công nghệ thông tin có một số tác động đối với việc sử dụng vũ lực làm lợi cho bên yếu và một số tác động ưu ái cho bên đã hùng mạnh sẵn. Nó là con dao hai lưỡi. Việc cung ứng đại trà những công nghệ quân sự vốn tốn kém trước đây làm lợi cho các nhà nước nhỏ và các chủ thể phi chính phủ cũng như gia tăng mức độ dễ tổn thương của các nhà nước lớn.
Ví dụ, ngày nay ai cũng có thể đặt mua ảnh vệ tinh từ các công ty thương mại hoặc đơn giản chỉ cần dùng phần mềm Google Earth để xem những gì diễn ra ở các nước khác mà tốn ít hoặc không tốn chi phí gì. Các thiết bị định vị toàn cầu cung cấp vị trí chính xác, trước đây vốn là sở hữu độc quyền của quân đội, giờ đây có thể tìm mua ở cửa hàng. Chưa hết, các hệ thống thông tin tạo ra những điểm yếu cho các nhà nước giàu có bằng cách thêm vào những mục tiêu vừa sinh lợi vừa dễ bị xáo trộn cho các nhóm khủng bố. Và các chủ thể phi chính phủ như Wikileaks thu thập, đồng thời phát tán thông tin nhạy cảm làm phức tạp các chiến dịch quân sự. Rất có thể một đối thủ tinh vi (chẳng hạn như một nước nhỏ có tài nguyên chiến tranh điện tử) sẽ quyết định tống tiền các nhà nước lớn. Còn có triển vọng xảy ra tấn công điện tử “tự phát” (freelance) hay “theo chỉ đạo” (privateer) do nhà nước tài trợ.
Tuy nhiên, những xu hướng khác lại làm lợi cho các nhà nước đã hùng mạnh sẵn. Các cảm biến ngoài không gian, phương thức truyền phát trực tiếp, máy vi tính tốc độ cao, và các phần mềm phức tạp cung cấp khả năng thu thập, phân loại, xử lý, truyền tải và phát tán thông tin về những sự kiện phức tạp xảy ra trên nhiều địa bàn rộng lớn. Kết nối các hệ thống quân sự thành mạng lưới như thế này sinh ra một lợi thế mạnh mẽ (cũng như một điểm yếu tiềm tàng). Mấu chốt không phải là sở hữu phần cứng rườm rà hay những hệ thống tiên tiến, mà là khả năng tích hợp một hệ thống các hệ thống. Theo khía cạnh này, ngay cả một lợi thế nhỏ cũng tạo nên khác biệt. Cuộc Cách mạng Thông tin đang dẫn đến sự phân tán quyền lực, nhưng các nhà nước lớn vẫn có tài nguyên lớn hơn.
CHÍNH PHỦ VÀ CHỦ THỂ XUYÊN QUỐC GIA
Cuộc tranh luận về sự phân tán quyền lực và số phận của mô hình nhà nước tự trị thường bị đơn giản hóa thái quá6. Người ta đôi khi nghĩ về những thách thức dài hạn đối với hệ thống các nhà nước “chỉ về mặt các chủ thể có thể thay cho nhà nước về chức năng đoàn thể”7. Một ví von rõ hơn trong lịch sử là sự phát triển của thị trường và đời sống thị tứ đầu giai đoạn phong kiến. Các hội chợ thương mại thời trung cổ không thể thay thế các tổ chức có thẩm quyền phong kiến. Chúng không phá sập tường thành hay truất phế tay địa chủ địa phương, nhưng vẫn tạo ra của cải, liên minh và thái độ mới.
Các nhà buôn thời trung cổ đã phát triển bộ Lex Mercatoria (Luật Giao thương), điều chỉnh các quan hệ giữa họ chủ yếu như một bộ quy tắc riêng về làm ăn buôn bán. Tương tự ngày nay, mọi người, từ tin tặc đến các tập đoàn lớn, đều đang phát triển bộ quy tắc và những quy chuẩn Internet phần nào nằm ngoài tầm kiểm soát của các tổ chức chính trị chính quy. Những hệ thống riêng này, như mạng Intranet doanh nghiệp hay các nhóm thảo luận toàn cầu chuyên bàn về những vấn đề cụ thể như môi trường, không thách thức trước mặt chính phủ các nhà nước tự trị; những hệ thống này chỉ thêm vào một tầng quan hệ nữa mà các nhà nước tự trị không kiểm soát hoàn toàn. Người ta sẽ tham gia các cộng đồng Internet xuyên quốc gia mà không từ bỏ vai trò công dân trung thành, nhưng góc nhìn của họ sẽ khác.
Vấn đề thực chất có liên quan đến phân tán quyền lực không phải sự tồn tại tiếp tục của nhà nước, mà là nhà nước vận hành như thế nào. Các phong trào mâu thuẫn nhau có thể diễn ra đồng thời. Các công ty nhà nước cùng tồn tại và cạnh tranh với các tập đoàn đa quốc gia trải khắp hàng trăm đường ranh giới. Chẳng hạn, IBM thu về hai phần ba doanh thu từ nước ngoài, và chỉ một phần tư lượng nhân lực 400.000 người của công ty ngụ ở Mỹ8. Liên hợp quốc ước tính có 214 triệu người di cư khắp thế giới, và nhiều cuộc lưu tán giữ kết nối với nhau thông qua các phương tiện viễn thông hiện đại9. Chính trị trở nên bất ổn định hơn và ít biệt lập hơn trong vỏ bọc quốc gia. Trong một thế giới toàn cầu phụ thuộc lẫn nhau, nghị trình của chính trị quốc tế thì rộng hơn, và mọi người dường như đều tham gia.
Một vài trong số những hoạt động xuyên quốc gia này là không mới. Các tập đoàn đa quốc gia có dòng dõi lâu đời, các tổ chức tôn giáo xuyên quốc gia có từ nhiều thế kỷ, và thế kỷ XIX chứng kiến sự thành lập Quốc tế Xã hội Chủ nghĩa, Chữ thập Đỏ, các phong trào hòa bình, các tổ chức vì quyền bầu cử của phụ nữ, Hiệp hội Luật pháp Quốc tế, và nhiều tổ chức khác. Trước Thế Chiến I đã có 176 tổ chức phi chính phủ quốc tế. Tuy nhiên, gần đây hơn, đã có sự bùng nổ về số NGO, tăng từ 6.000 đến xấp xỉ 26.000 trong thập kỷ vừa qua của thế kỷ XX. Vài thập kỷ trước, viễn thông nhanh đến các khu vực đa dạng của thế giới thì khả thi về mặt công nghệ nhưng lại rất tốn kém. Giờ đây ai cũng có thể sử dụng nó bằng giá vào một tiệm Internet. Và với Skype là miễn phí. Chi phí tạo ra một tổ chức hay mạng lưới xuyên quốc gia đã trở nên vụn vặt.
Nhiều chủ thể trong số các chủ thể xuyên quốc gia mới này tuyên bố mình đóng vai trò “lương tâm thế giới”, đại diện cho lợi ích của đông đảo quần chúng nằm ngoài thẩm quyền của các nhà nước riêng lẻ. Mặc dù không phải dân cử, nhưng đôi khi các chủ thể này góp phần phát triển các quy chuẩn mới qua việc trực tiếp hối thúc các chính phủ lẫn lãnh đạo doanh nghiệp thay đổi chính sách, và gián tiếp thay đổi nhận thức của quần chúng về tính chính đáng cũng như những việc mà các chính phủ và công ty lẽ ra phải làm ngay lúc này. Về mặt tài nguyên quyền lực, các nhóm này ít khi sở hữu nhiều quyền lực cứng, nhưng cuộc Cách mạng Thông tin đã cải thiện đáng kể quyền lực mềm của các nhóm này. Các nhóm này có thể phát động những chiến dịch “điểm mặt chỉ tên” chống lại các thương hiệu doanh nghiệp hoặc các chính phủ một cách tương đối đơn giản.
Không chỉ số lượng các chủ thể xuyên quốc gia tăng nhanh, mà loại chủ thể cũng thay đổi. Các dòng chảy xuyên quốc gia trước đây nằm dưới sự kiểm soát nghiêm ngặt của các cấu trúc lớn được tổ chức quy củ, chẳng hạn như các tập đoàn đa quốc gia hay Nhà thờ Công giáo, và các cấu trúc này có thể hưởng lợi từ tính kinh tế của quy mô. Các tổ chức như thế này vẫn quan trọng, nhưng chi phí viễn thông thấp hơn trong kỷ nguyên Internet đã mở sân cho các tổ chức mạng lưới với cấu trúc lỏng lẻo có ít nhân viên hội sở và thậm chí cho cả cá nhân. Các nhóm khủng bố vẫn thường gắn với một khía cạnh xuyên quốc gia, nhưng giờ đây cuộc Cách mạng Thông tin đã khiến Al Qaeda tham gia vào một mạng lưới lỏng lẻo trải khắp địa cầu thương hiệu của tổ chức này.
Khủng bố là một phương thức bạo động có nguồn gốc lâu đời trong lịch sử. Vào thế kỷ XIX, khủng bố được sử dụng bởi các tổ chức vô chính phủ lẫn các nhà cách mạng xuyên quốc gia khác, những người đã giết nửa chục nguyên thủ, và trong thế kỷ XX, Thế Chiến I được châm ngòi một phần do một kẻ ám sát đã từng khủng bố như thế này. Cái mới mẻ ngày nay là công nghệ đang đặt vào tay các cá nhân và các nhóm lệch lạc này quyền lực hủy hoại mà trước đây chủ yếu dành cho chính phủ. Đó là lý do vài nhà quan sát nói khủng bố là sự tư hữu hóa chiến tranh. Hơn nữa, công nghệ đã khiến các hệ thống phức tạp của xã hội hiện đại dễ bị tấn công hơn trên quy mô lớn. “Xu hướng ngày càng bộc lộ điểm yếu này diễn ra từ trước lúc Internet tăng tốc nó”10.
Thế hệ hiện tại của những kẻ Hồi giáo cực đoan bạo động có thể ca tụng lý tưởng thế kỷ VII dành cho Hồi giáo, nhưng chúng rất tinh thông việc sử dụng Internet của thế kỷ XXI. Khủng bố, như sân khấu, là một cuộc tranh tài cho khán giả. Các sự kiện chấn động cốt là để thu hút sự chú ý, để phân cực, và kích động phản ứng thái quá từ đối tượng mục tiêu của chúng. Năm 2004, một đoạn ghi hình chấn động chiếu cảnh đặc vụ Al Qaeda là Abu Musab al Zarqawi chặt đầu một người Mỹ ở Iraq được tải hàng triệu lượt trên mạng và kích động các vụ bắt chước chặt đầu của các nhóm khác.
Một trong những điều khó nhất cho kẻ khủng bố là tổ chức các chi bộ đáng tin cậy xuyên biên giới sao cho các cơ quan tình báo và cơ quan cảnh sát không thể triệt phá. Bằng cách chuyển từ các nơi trú ẩn thực của những năm 1990 sang các nơi trú ẩn ảo trên mạng Internet, những kẻ khủng bố giảm thiểu rủi ro của chúng. Tuyển quân không còn diễn ra ở các địa điểm thực như nhà thờ Hồi giáo và nhà tù. Thay vào đó, các cá nhân bị xa lánh trong xó xỉnh quốc gia bị cô lập cũng có thể liên lạc với một cộng đồng ảo mới gồm các tín đồ đồng môn khắp thế giới. Những trang mạng như thế không chỉ tuyển mộ mà còn đào tạo. Chúng gồm cả những chỉ dẫn chi tiết về cách chế bom, cách vượt biên, cách gài và cho nổ thiết bị để giết binh lính và dân thường. Còn các chuyên gia thì sử dụng phòng tán gẫu lẫn diễn đàn để trả lời câu hỏi của lính tập sự. Các kế hoạch cũng như chỉ dẫn sau đó được gửi đi thông qua các thông điệp được mã hóa. Dĩ nhiên, những trang mạng này có thể bị các chính phủ theo dõi. Một số trang mạng bị triệt phá, trong khi các trang khác vẫn được để yên để có thể theo dõi chúng11. Nhưng trò mèo vờn chuột giữa các cơ quan nhà nước với các kẻ khủng bố xuyên quốc gia là một trò cân sức.
Những kẻ khủng bố không chỉ là các chủ thể đáng gờm nhất trong số nhiều chủ thể xuyên quốc gia mới. Ngay cả các nước lớn với quyền lực cứng ấn tượng, như Mỹ, cũng nhận thấy mình đang chia sẻ vũ đài với các chủ thể mới và gặp nhiều khó khăn hơn trong việc kiểm soát biên giới của mình. Không gian điện tử sẽ không thay thế không gian địa lý và sẽ không bãi bỏ tính tự trị của nhà nước, nhưng như các thị trường thị tứ vào thời phong kiến, nó sẽ cùng tồn tại và làm phức tạp lên rất nhiều ý nghĩa của một nhà nước tự trị hoặc một nước hùng mạnh trong thế kỷ XXI.
QUYỀN LỰC ĐIỆN TỬ
Quyền lực dựa vào tài nguyên thông tin không phải mới; quyền lực điện tử mới thật sự mới. Có hàng chục định nghĩa về không gian điện tử nhưng thông thường, “điện tử” là một hậu tố biểu thị các hoạt động điện tử liên quan đến máy tính. Theo một định nghĩa, “không gian điện tử là một miền hoạt động được định khung qua việc sử dụng các thiết bị điện tử... để khai thác thông tin thông qua các hệ thống kết nối với nhau và kiến trúc hạ tầng gắn với chúng”12.
Đôi khi ta quên rằng không gian điện tử là một khái niệm rất mới. Năm 1969, Bộ Quốc phòng Mỹ khởi động một kết nối khiêm tốn giữa một vài máy tính gọi là ARPANET, và năm 1972, các mã lệnh để trao đổi dữ liệu (TCP/IP) được tạo ra để cấu thành một mạng Internet sơ đẳng có khả năng trao đổi các gói thông tin số. Hệ thống tên miền địa chỉ Internet khởi động vào năm 1983, và virus máy tính đầu tiên được tạo ra quanh thời điểm đó. Mạng World Wide Web bắt đầu năm 1989; Google, trang tìm kiếm được ưa chuộng nhất, được thành lập năm 1998; và từ điển bách khoa mã nguồn mở Wikipedia bắt đầu vào năm 2001. Vào cuối những năm 1990, doanh nghiệp bắt đầu sử dụng công nghệ mới để chuyển dịch khâu sản xuất và thu mua trong các chuỗi cung ứng phức tạp toàn cầu. Chỉ gần đây mới xuất hiện băng thông và các trại máy chủ cần để hỗ trợ “điện toán đám mây”, trong đó công ty và cá nhân có thể lưu trữ dữ liệu lẫn phần mềm trên mạng. ICANN (Tập đoàn Internet cấp tên miền và số) được thành lập năm 1998, và chính phủ Mỹ bắt đầu phát triển các kế hoạch quốc gia nghiêm túc cho an ninh điện tử chỉ từ lúc bước sang thế kỷ XXI. Năm 1992, chỉ có 1 triệu người dùng trên Internet; trong vòng 15 năm con số đó tăng lên 1 tỉ13. Vào những ngày đầu của Internet, các thủ thư tuyên bố rằng “thông tin muốn được tự do” và khắc họa Internet là ngày tàn của quyền kiểm soát của chính phủ và “cái chết của khoảng cách”. Về thực tế, các chính phủ và các vùng tài phán địa lý tiếp tục đóng vai trò lớn, nhưng lĩnh vực này còn có đặc trưng của sự phân tán quyền lực14.
Ta có thể quan niệm không gian điện tử theo nhiều lớp hoạt động, nhưng nếu mô tả sơ bộ đầu tiên thì ta có thể khắc họa không gian điện tử là một chế độ lai tạo độc nhất giữa các đặc tính vật lý và các đặc tính ảo15. Lớp kiến trúc hạ tầng vật lý tuân theo các định luật kinh tế về tài nguyên cạnh tranh*, phí tổn biên tế tăng dần và các định luật chính trị về quyền tài phán lẫn kiểm soát của nhà nước tự trị. Lớp ảo, hay lớp thông tin, có các đặc trưng của mạng lưới kinh tế về lợi tức tăng dần theo quy mô và những cách thức hoạt động chính trị khiến việc kiểm soát bằng tài phán trở nên khó khăn16. Các cuộc tấn công từ lĩnh vực thông tin, nơi chi phí thấp, có thể phát động chống lại lĩnh vực vật chất, nơi tài nguyên khan hiếm và đắt đỏ. Nhưng ngược lại, việc kiểm soát lớp vật lý có thể dẫn đến các tác động về mặt lãnh thổ lẫn ngoại lãnh thổ đối với lớp thông tin.
* Rival resources: Là tài nguyên mà việc một người sử dụng nó ngăn chặn người khác sử dụng nó. Chẳng hạn, miếng bánh nhỏ chỉ dành cho một người nên nếu một người ăn hết nó thì người khác sẽ không còn bánh để ăn. Xem khái niệm “món hàng công cộng không cạnh tranh” mà tác giả đã đề cập ở trên.
Quyền lực điện tử có thể được định nghĩa về mặt một nhóm tài nguyên có liên quan đến việc tạo ra, kiểm soát và trao đổi thông tin điện tử lẫn thông tin trên máy tính - kiến trúc hạ tầng, các mạng lưới, phần mềm, kỹ năng con người. Nhóm tài nguyên này không chỉ bao gồm mạng Internet của các máy tính được kết nối với nhau, mà còn bao gồm mạng Intranet, các công nghệ di động, và các phương tiện trao đổi thông tin ngoài không gian. Định nghĩa về hành vi, quyền lực điện tử là khả năng đạt được kết quả mong muốn qua việc sử dụng các tài nguyên thông tin thuộc lĩnh vực điện tử được liên kết với nhau bằng phương thức điện tử. Quyền lực điện tử có thể được dùng để sinh ra kết quả mong muốn bên trong không gian điện tử, hoặc dùng các công cụ điện tử để sinh ra kết quả mong muốn trong các lĩnh vực khác bên ngoài không gian điện tử.
Nói ví von, “hải lực” nói đến việc sử dụng tài nguyên trong lĩnh vực biển để thắng các trận đánh trên biển, để kiểm soát các hiểm lộ biển như eo biển, và để chứng tỏ sự hiện diện ngoài khơi, nhưng nó còn bao gồm khả năng sử dụng biển để tác động đến các trận chiến, thương mại, và dư luận trên đất liền. Năm 1890, Alfred Thayer Mahan phổ biến tầm quan trọng của hải lực trong bối cảnh tồn tại các công nghệ mới về lực đẩy bằng hơi nước, áo giáp, và súng tầm xa. Tổng thống Theodore Roosevelt phản ứng bằng cách phát triển nhanh hải quân nước xanh của Mỹ và phái đội quân này đi khắp thế giới vào năm 1907. Sau sự xuất hiện lần đầu của máy bay vào Thế Chiến I, các quân nhân bắt đầu đưa ra lý thuyết về lĩnh vực không lực và khả năng công kích trực tiếp vào trọng tâm thị thành của địch mà không cần quân đội vượt biên giới. Đầu tư của Franklin Roosevelt vào không lực mang ý nghĩa sống còn trong Thế Chiến II. Sau sự phát triển của tên lửa liên lục địa, vệ tinh giám sát và vệ tinh viễn thông vào những năm 1960, các nhà văn bắt đầu đưa ra lý thuyết về một lĩnh vực đặc biệt là quyền lực không gian, và John F. Kennedy phát động một chương trình nhằm bảo đảm vị trí dẫn đầu của Mỹ về không gian và đưa người lên mặt trăng. Tương tự, năm 2009, Tổng thống Barack Obama kêu gọi một dự án lớn mới về quyền lực điện tử, và các chính phủ khác đã nối gót17. Khi thay đổi về công nghệ tái định hình các lĩnh vực quyền lực, thì các lãnh đạo chính trị chẳng bao lâu sẽ theo sau.
Lĩnh vực điện tử độc đáo ở chỗ nó nhân tạo, mới mẻ, và chịu nhiều biến đổi về công nghệ còn nhanh hơn so với các lĩnh vực khác. Như một nhà quan sát nói, “Tính chất địa lý của không gian điện tử dễ biến đổi hơn hẳn so với các môi trường khác. Núi và biển khó dời, nhưng từng phần của không gian điện tử thì có thể tắt mở chỉ bằng một cú bật công tắc”18. Rào cản nhập ngành thấp góp phần vào sự phân tán quyền lực trong lĩnh vực điện tử. Di chuyển các hạt điện tử khắp thế giới rẻ và nhanh hơn di chuyển tàu thuyền lớn ở những khoảng cách dài qua lực ma sát của nước biển. Chi phí phát triển các lực lượng đặc nhiệm gồm nhiều tàu sân bay và hạm đội tàu ngầm tạo ra rào cản nhập ngành khổng lồ và nhờ đó, ta vẫn có thể nói về thế thống trị biển của Mỹ. Mặc dù tình trạng cướp biển vẫn là một phương án cục bộ cho các chủ thể phi nhà nước ở các khu vực như Somalia hay eo biển Malacca, kiểm soát biển vẫn nằm ngoài tầm của các chủ thể phi nhà nước. Tương tự, mặc dù có nhiều chủ thể chính phủ và chủ thể tư nhân trong lĩnh vực hàng không, một nước vẫn có thể nỗ lực đạt được ưu thế không quân qua việc đầu tư tốn kém vào máy bay tiêm kích thế hệ thứ năm lẫn các hệ thống hỗ trợ vệ tinh.
Tuy nhiên, rào cản nhập ngành trong lĩnh vực điện tử lại thấp đến nỗi chủ thể phi nhà nước và nhà nước nhỏ có thể đóng vai trò quan trọng với mức chi phí thấp. Trái với đường biển, đường không, và không gian, “đường điện tử có chung ba đặc trưng với chiến tranh trên bộ, tuy ở các khía cạnh còn lớn hơn: số người chơi, mức độ dễ dàng gia nhập, và cơ hội giấu mặt... Trên bộ, nổi trội hơn không phải là tiêu chuẩn dễ đạt được”19. Mặc dù một vài nhà nước, như Mỹ, Nga, Anh, Pháp, và Trung Quốc, nổi tiếng có năng lực hơn các nhà nước khác, nhưng nói các nước này nắm thế thống trị trong không gian điện tử giống như hải lực hay không lực thì ít hợp lý. Thật ra, việc phụ thuộc vào những hệ thống điện tử phức tạp để hỗ trợ các hoạt động quân sự và kinh tế tạo ra những điểm yếu mới ở các nhà nước lớn có thể bị các chủ thể phi nhà nước khai thác.
Xung đột cực độ trong lĩnh vực điện tử, hay “chiến tranh điện tử”, cũng khác. Trong thế giới thực, chính phủ gần như độc quyền về việc sử dụng vũ lực quy mô lớn, bên phòng thủ hiểu rõ địa hình, và các cuộc tiến công chấm dứt do tiêu hao hoặc suy kiệt. Cả tài nguyên lẫn sự cơ động đều tốn kém. Trong thế giới ảo, các chủ thể rất đa dạng, đôi khi vô danh; khoảng cách thực không quan trọng; và một “cuộc tấn công ảo duy nhất cũng gần như không tốn chi phí nào”20. Bởi vì Internet được thiết kế để dễ sử dụng hơn là bảo mật nên tấn công hiện thời có ưu thế hơn phòng thủ. Điều này có thể không còn đúng về lâu dài khi công nghệ phát triển, bao gồm các nỗ lực nhằm “tái thiết kế” một số hệ thống để đạt được bảo mật cao hơn, nhưng nó vẫn đúng ở giai đoạn này. Bên lớn hơn có khả năng rất hạn chế trong việc giải giáp và tiêu diệt địch, chiếm lãnh thổ, hoặc sử dụng hiệu quả các chiến lược nhằm vào mục tiêu quân sự. Như về sau ta sẽ thấy ở chương này, răn đe không phải không khả thi, nhưng sẽ có khác biệt vì vấn đề là ta không xác định được nguồn tấn công. Sự mơ hồ có mặt ở khắp nơi và củng cố làn khói chiến tranh thông thường. Phòng bị, linh động, và tái lập đội hình nhanh trở thành các thành phần trọng yếu của phòng thủ. Như một chuyên gia tổng kết tình hình, “Nỗ lực nhằm chuyển dịch các khái niệm chính sách từ các dạng chiến tranh khác không những sẽ thất bại mà còn cản trở chính sách và hoạch định”21.
Quyền lực điện tử ảnh hưởng tới nhiều lĩnh vực khác nhau từ chiến tranh đến thương mại. Ta có thể phân biệt “quyền lực nội không gian điện tử” với “quyền lực ngoại không gian điện tử”, cũng như với hải lực ta có thể phân biệt quyền lực hải quân trên biển với quyền lực hải quân phóng chiếu trên bộ. Ví dụ, máy bay trên tàu sân bay có thể tham gia đánh bộ, kinh doanh và thương mại có thể phát triển do hoạt động hiệu quả của một thế hệ tàu chứa mới, và quyền lực mềm của một nước có thể được tăng lên do chuyến viếng thăm của các tàu bệnh viện hải quân trong các sứ mệnh nhân đạo.
Như Bảng 5.1. minh họa, bên trong lĩnh vực điện tử, các công cụ thông tin có thể dùng để sinh ra quyền lực mềm trong không gian điện tử thông qua việc định khung nghị trình, thu hút, và thuyết phục. Ví dụ, thu hút cộng đồng các nhà lập trình mã nguồn mở nhằm khiến họ tuân theo một tiêu chuẩn mới là một ví dụ về quyền lực mềm nhắm vào bên trong không gian điện tử. Các tài nguyên điện tử cũng có thể sinh ra quyền lực cứng bên trong không gian điện tử. Ví dụ, các nhà nước và chủ thể phi nhà nước có thể tổ chức một cuộc tấn công từ chối dịch vụ phân tán (DDoS) bằng cách dùng “Botnets” của hàng trăm nghìn (hoặc hơn)22 máy tính bị hỏng hệ thống để làm kiệt quệ hệ thống Internet của một công ty hay một nước và ngăn không cho nó hoạt động, như đã từng xảy ra, chẳng hạn, với Gruzia vào năm 2008. Tổ chức một Botnet bằng cách gài virus vào các máy tính không được bảo vệ thì tương đối không tốn kém, và các Botnet có thể được thuê bất hợp pháp trên Internet với giá vài trăm đô la. Đôi khi các tội phạm cá nhân làm như vậy vì mục đích tống tiền.
Các trường hợp khác có thể bao hàm “hacktivist”, hay những kẻ xâm nhập có động cơ ý thức hệ. Ví dụ, các tin tặc Trung Quốc và Đài Loan thường xuyên làm xấu các trang mạng của nhau bằng cách viết bậy lên đó bằng phương thức điện tử. Năm 2007, Estonia bị tấn công từ chối dịch vụ phân tán mà nhiều người cho là phát xuất từ các “tin tặc yêu nước” ở Nga trước đó bức xúc trước phong trào của Estonia về một đài tưởng niệm chiến sĩ Liên Xô trong Thế Chiến II. Năm 2008, không lâu sau khi lính Nga xâm chiếm, Gruzia bị tấn công từ chối dịch vụ làm sập mạng Internet của nước này. (Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp, chính phủ Nga dường như đã tiếp tay cho các tin tặc trong khi vẫn kiên quyết chối bỏ trách nhiệm.)
Các dạng quyền lực cứng khác bên trong không gian điện tử gồm cả việc chèn mã độc để làm xáo trộn hệ thống hay đánh cắp tài sản trí tuệ. Các nhóm tội phạm làm vậy vì lợi nhuận, và các chính phủ có thể làm vậy như một cách gia tăng tài nguyên kinh tế. Ví dụ, Trung Quốc đã bị một số nước khác tố cáo thực hiện các hoạt động này. Tuy nhiên, bằng chứng về nguồn gốc hay động cơ của các cuộc tấn công thường rất khó tìm, vì các kẻ tấn công có thể dẫn hướng các vụ xâm nhập qua các máy chủ ở các nước khác khiến khó xác định thủ phạm. Ví dụ, nhiều vụ trong số các vụ tấn công vào các mục tiêu của Estonia và Gruzia đã được dẫn qua máy chủ ở Mỹ23.
Bảng 5.1. Các khía cạnh thực và ảo của quyền lực điện tử
Thông tin điện tử có thể đi xuyên qua không gian điện tử để tạo ra quyền lực mềm bằng cách thu hút công dân ở một nước khác. Chiến dịch ngoại giao công chúng qua Internet như mô tả ở chương 4 là một ví dụ. Nhưng thông tin điện tử cũng có thể trở thành một tài nguyên quyền lực cứng có khả năng gây thiệt hại cho các đối tượng thực ở nước khác. Ví dụ, nhiều ngành công nghiệp hiện đại và ngành công ích có những quy trình nằm dưới sự kiểm soát của các máy tính kết nối với nhau trong các hệ thống SCADA (hệ thống điều khiển giám sát và tiếp nhận dữ liệu). Phần mềm độc chèn vào các hệ thống này có thể được chỉ thị tắt đi một quy trình, chẳng hạn như con sâu Stuxnet đã làm với các cơ sở hạt nhân của Iran năm 2010. Nếu một tin tặc hay một chính phủ ngưng cấp điện cho một thành phố phía bắc như Chicago hay Moscow vào giữa tháng Hai, thì mức độ thiệt hại có thể tốn kém hơn cả thiệt hại do thả bom. Trong một vài cơ sở như bệnh viện, các máy phát điện dự phòng có thể cung cấp sự linh động trong trường hợp bị tấn công làm xáo trộn, nhưng mất điện lan rộng trong khu vực sẽ rất khó đối phó.
Như Bảng 5.1 cho thấy, các công cụ vật chất có thể cung cấp tài nguyên quyền lực có thể áp dụng vào thế giới điện tử. Ví dụ, bộ định tuyến, máy chủ và dây cáp quang mang tín hiệu điện tử của Internet đều có vị trí địa lý nằm trong thẩm quyền tài phán của chính phủ, và các công ty chạy và sử dụng Internet đều chịu sự quản lý của luật pháp các chính phủ đó. Chính phủ có thể áp dụng quyền cưỡng ép thực đối với các công ty lẫn cá nhân - điều mà bấy lâu được gọi là “dấu ấn của các hệ thống luật pháp truyền thống”. Khởi tố pháp lý đã khiến Yahoo giới hạn nội dung được đăng tải ở Pháp để phù hợp với luật của Pháp, và Google đã bỏ đi ngôn ngữ kỳ thị ra khỏi các từ khóa tìm kiếm ở Đức. Mặc dù các thông điệp này được bảo đảm tính tự do ngôn luận ở “quê nhà” của các công ty là Mỹ, không tuân thủ pháp luật sẽ dẫn đến bị phạt tù, phạt tiền, và mất quyền thâm nhập các thị trường quan trọng đó. Chính phủ kiểm soát hành vi trên Internet thông qua việc gửi lời đe dọa thực truyền thống đến các bên trung gian như nhà cung cấp dịch vụ Internet, trình duyệt, trang tìm kiếm, và các trung gian về tài chính24.
Đối với việc đầu tư vào những tài nguyên thực có khả năng tạo ra quyền lực mềm, chính phủ có thể thiết lập các máy chủ và phần mềm đặc biệt được thiết kế nhằm giúp các nhà hoạt động quyền con người truyền bá thông điệp của mình, bất chấp nỗ lực của chính phủ nước họ nhằm tạo ra tường lửa thông tin để chặn những thông điệp như thế. Ví dụ, sau vụ đàn áp biểu tình của chính phủ Iran sau cuộc bầu cử năm 2009, Bộ Ngoại giao của Mỹ đã đầu tư vào phần mềm và phần cứng cho phép người biểu tình lan truyền thông điệp của họ.
Cuối cùng, như Bảng 5.1 minh họa, các công cụ vật chất có thể cung cấp tài nguyên quyền lực cứng lẫn quyền lực mềm có thể dùng để chống lại Internet. Lớp thông tin điện tử dựa vào một kiến trúc hạ tầng vật lý dễ bị tấn công quân sự hay phá hoại trực tiếp bởi các chính phủ lẫn các chủ thể phi nhà nước, chẳng hạn như khủng bố hay tội phạm. Máy chủ có thể bị cho nổ tung, và cáp có thể bị cắt. Và trong lĩnh vực quyền lực mềm, những chủ thể phi nhà nước và NGO có thể tổ chức các cuộc biểu tình thực để điểm mặt chỉ tên các công ty (và các chính phủ) mà các chủ thể này cho là đang lạm dụng Internet. Ví dụ, năm 2006, người biểu tình ở Washington diễu hành và biểu tình chống lại Yahoo cùng các công ty Internet khác đã cung cấp tên các nhà hoạt động Trung Quốc dẫn đến việc họ bị chính phủ Trung Quốc bắt giữ.
Một cách khác để nhìn vào quyền lực trong lĩnh vực điện tử là xét đến ba bộ mặt hay ba khía cạnh của quyền lực quan hệ được mô tả ở chương 1. Ta có thể thấy bóng dáng của hành vi quyền lực cứng lẫn mềm trong cả ba khía cạnh khi áp dụng cho không gian điện tử. Bộ mặt thứ nhất của quyền lực là khả năng của một chủ thể khiến người khác làm điều trái với sở thích hay chiến lược ban đầu của họ. Các ví dụ có liên quan đến quyền lực cứng có thể kể tới những vụ tấn công từ chối dịch vụ được mô tả trước đó, cũng như việc bắt giữ hoặc ngăn không cho các blogger bất đồng chính kiến gửi thông điệp của họ. Ví dụ, tháng 12 năm 2009, Trung Quốc kết án Lưu Hiểu Ba, một nhà hoạt động quyền con người kỳ cựu và blogger, mười một năm tù về tội “kích động lật đổ quyền lực nhà nước” và đưa ra các hạn chế mới về việc đăng ký cũng như hoạt động các trang mạng của người dùng cá nhân. Như một nhà cung cấp dịch vụ lưu trữ mạng của Trung Quốc bình luận, “Trong chín năm, tôi đã điều hành một doanh nghiệp hợp pháp và thành đạt, còn bây giờ tự dưng có người bảo tôi những gì tôi làm là phạm pháp”25.
Về mặt quyền lực mềm, một cá nhân hay tổ chức có thể nỗ lực thuyết phục người khác thay đổi hành vi của mình. Chính phủ Trung Quốc đôi khi dùng Internet để huy động sinh viên Trung Quốc biểu tình chống Nhật Bản khi các quan chức Nhật Bản đưa ra lập trường ngược với những quan điểm của Trung Quốc về mối quan hệ Trung - Nhật vào những năm 1930. Các đoạn phim Al Qaeda trên Internet nhằm tuyển người theo phe chúng là một trường hợp khác về quyền lực mềm được sử dụng để thay đổi con người từ sở thích hoặc chiến lược ban đầu của họ.
Bộ mặt thứ hai của quyền lực là thiết lập nghị trình hay định khung nghị trình, trong đó, một chủ thể ngăn cản người khác lựa chọn bằng cách loại trừ chiến lược của họ. Nếu việc thiết lập nghị trình này trái ngược với ý muốn của họ, nó là một khía cạnh của quyền lực cứng; nếu được chấp nhận là chính đáng, nó là trường hợp cụ thể của quyền lực mềm. Ví dụ, vào ngày kỷ niệm Cách mạng Iran tháng 2 năm 2010, chính phủ Iran làm chậm Internet để ngăn cản người biểu tình đưa những đoạn phim quay cảnh biểu tình lên YouTube như họ đã làm thành công sáu tháng trước đó. Một người Iran lưu vong bình luận, “Đó là ngày mà các Đảng viên Xanh trưởng thành và hiểu rằng chống lại một chính phủ kiên quyết như Cộng hòa Hồi giáo Iran sẽ đòi hỏi nhiều hơn là các trang Facebook cho người hâm mộ, các đám mây Twitter, và các đoạn phim YouTube xúc động”26. Trong trò mèo vờn chuột, công nghệ có thể được dùng để thúc đẩy tự do lẫn đàn áp.
BỘ MẶT THỨ NHẤT
(A KHIẾN B LÀM ĐIỀU BAN ĐẦU B KHÔNG MUỐN LÀM)
Cứng: tấn công từ chối dịch vụ, chèn phần mềm độc hại, làm xáo trộn SCADA, bắt giữ những người viết blog.
Mềm: dùng chiến dịch thông tin để thay đổi sở thích ban đầu của tin tặc, tuyển mộ thành viên của các tổ chức khủng bố.
BỘ MẶT THỨ HAI
(A NGĂN CẢN B LỰA CHỌN BẰNG CÁCH LOẠI BỎ CÁC CHIẾN LƯỢC CỦA B)
Cứng: dùng tường lửa, bộ lọc, và gây áp lực buộc công ty loại ra một số tư tưởng.
Mềm: tự theo dõi các ISP và các trang tìm kiếm, áp dụng các quy tắc của ICANN vào tên miền, theo đuổi các tiêu chuẩn phần mềm được chấp nhận rộng rãi.
BỘ MẶT THỨ BA
(A ĐỊNH HÌNH SỞ THÍCH CỦA B ĐỂ MỘT SỐ CHIẾN LƯỢC KHÔNG BAO GIỜ ĐƯỢC XÉT ĐẾN)
Cứng: đe dọa trừng phạt những người viết blog phát tán tài liệu bị kiểm duyệt.
Mềm: dùng thông tin để tạo ra sở thích (chẳng hạn như kích thích tinh thần dân tộc và các tin tặc yêu nước), phát triển các quy chuẩn về sự lệch lạc (chẳng hạn như tài liệu khiêu dâm trẻ em).
Bảng 5.2. Ba bộ mặt của quyền lực trong lĩnh vực điện tử
Theo Dự án Mạng Mở (Open Net Initiative), ít nhất bốn mươi nước sử dụng tường lửa và bộ lọc cực kỳ chặt chẽ để ngăn chặn bàn luận về các tài liệu đáng ngờ. Mười tám nước tham gia vào kiểm duyệt chính trị, sự kiểm duyệt mà dự án này mô tả là “rộng khắp” ở Trung Quốc, Iran, và “đáng kể” ở Libya, Ethiopia, lẫn Ả-rập Saudi. Hơn ba mươi nhà nước lọc thông tin vì lý do xã hội, chặn các nội dung liên quan đến tình dục, cờ bạc, và ma túy. Ngay cả Mỹ và nhiều nhà nước châu Âu cũng làm điều này “một cách có chọn lọc”27. Đôi khi việc chặn này được chấp nhận, đôi khi không. Nếu hệ thống chặn vận hành bí mật, rất khó để công dân biết những gì họ không biết. Các công nghệ lọc thế hệ thứ nhất được cài tại những hiểm lộ Internet chủ chốt và hoạt động bằng cách chặn những yêu cầu truy cập các trang mạng và địa chỉ trong một danh sách được định trước. Các công nghệ này thường không xa lạ với người dùng, nhưng chúng đã được bổ sung thêm các công nghệ tinh vi hơn, lén lút hơn, cơ động hơn, và nhắm vào những đối thủ “vừa kịp thời”28.
Trong một số trường hợp, thứ mà một nhóm xem như quyền lực cứng lại trông có vẻ hấp dẫn với một nhóm khác. Sau các cuộc bạo động ở Tân Cương năm 2009, Trung Quốc đóng hàng nghìn trang mạng và kiểm duyệt tin nhắn điện thoại khiến việc liên lạc khó khăn hơn cho cư dân của khu vực đó, nhưng nước này cũng vun trồng những giải pháp cây nhà lá vườn thay thế các trang mạng ở nước ngoài, như YouTube, Facebook, và Twitter, hấp dẫn trong mắt các “tin tặc yêu nước” dân tộc chủ nghĩa29. Trong số các tập đoàn Mỹ, khi ngành công nghiệp âm nhạc kiện hơn 12.000 người Mỹ vì đánh cắp tài sản trí tuệ khi tải nhạc xuống bất hợp pháp, lời đe dọa này được những người bị kiện và cả nhiều người không bị kiện cảm nhận là quyền lực cứng. Nhưng khi một tập đoàn đa quốc gia như Apple quyết định không cho phép một số ứng dụng nhất định được tải vào sản phẩm iPhone của họ, nhiều người tiêu dùng thậm chí còn không biết về những chỗ cắt xén trong nghị trình tiềm năng của mình, và ít ai hiểu các thuật toán dẫn dắt các câu truy vấn thông tin của mình30.
Bộ mặt thứ ba của quyền lực bao hàm một chủ thể định hình sở thích ban đầu của người khác để một số chiến lược thậm chí không được xét đến. Khi công ty quyết định thiết kế một mã, thay vì một mã khác, vào sản phẩm phần mềm của mình, ít người tiêu dùng để ý31. Chính phủ có thể tiến hành các chiến dịch nhằm xóa bỏ tính chính đáng của một số tư tưởng nhất định, chẳng hạn như Pháp Luân Công ở Trung Quốc, đồng thời hạn chế việc truyền bá những tư tưởng này trên Internet và từ đó khiến công dân khó tìm hiểu về các tư tưởng này. Ả-rập Saudi không cho công dân truy cập các trang mạng ngoại đạo nhất định. Chính phủ Mỹ đã thực hiện nhiều biện pháp đối với các công ty thẻ tín dụng để không cho công dân tham gia cờ bạc trên Internet. Pháp và Đức ngăn chặn bàn luận về ý thức hệ Đức Quốc Xã trên Internet. Thi thoảng, như trường hợp khiêu dâm trẻ em, có một sự đồng thuận xuyên văn hóa rộng rãi về việc không cho truy cập các tư tưởng hay hình ảnh nhất định.
CÁC CHỦ THỂ VÀ TÀI NGUYÊN QUYỀN LỰC TƯƠNG ĐỐI
Sự phân tán quyền lực trong lĩnh vực điện tử do hai yếu tố tiêu biểu: số lượng khổng lồ các chủ thể trong lĩnh vực này, và sự sụt giảm tương đối về chênh lệch quyền lực giữa các chủ thể đó. Bất kỳ người nào, từ tin tặc thiếu niên đến một chính phủ lớn đương đại, cũng có thể gây thiệt hại trong không gian điện tử, và như ảnh biếm họa nổi tiếng trên báo Người New York từng ghi, “Trên mạng, không ai biết quý vị là con chó cả”. Virus “Love Bug” khét tiếng do một tin tặc ở Philippines thả ra ước tính đã gây thiệt hại 15 tỉ USD.32 Lầu Năm Góc có bảy triệu máy tính trong 15.000 mạng lưới, và các mạng lưới đó bị người ngoài tiếp cận “hàng trăm nghìn lần mỗi ngày”33. Các nhóm tội phạm điện tử được cho là đã đánh cắp dữ liệu và tài sản trí tuệ trị giá hơn 1 nghìn tỉ USD vào năm 200834. Mạng lưới gián điệp điện tử - GhostNet - bị phát hiện đang lây nhiễm 1.295 máy tính ở 103 nước, 30% trong số đó là các chính phủ mục tiêu có giá trị cao35. Các nhóm khủng bố dùng mạng để tuyển thành viên mới và hoạch định chiến dịch. Các nhà hoạt động chính trị và môi trường thì làm xáo trộn các trang mạng của công ty và chính phủ.
Nét khu biệt về quyền lực trong lĩnh vực điện tử không phải là chính phủ nằm ngoài bức tranh, như các nhà tự do chủ nghĩa điện tử đã tiên đoán, mà là các chủ thể khác nhau sở hữu tài nguyên quyền lực khác nhau và khoảng cách giữa chủ thể nhà nước với chủ thể phi nhà nước đang thu hẹp dần trong nhiều trường hợp. Nhưng sự sụt giảm tương đối về chênh lệch quyền lực không phải là cào bằng. Các chính phủ lớn vẫn có nhiều tài nguyên hơn. Trên mạng, không phải chú chó nào cũng bình đẳng.
Một cách tương đối, ta có thể chia những chủ thể trong không gian điện tử thành ba nhóm: các chính phủ, các tổ chức có mạng lưới cấu trúc chặt chẽ; các cá nhân - mạng lưới cấu trúc lỏng lẻo (Tất nhiên, có nhiều nhóm con, nhưng một số chính phủ có nhiều năng lực hơn hẳn các chính phủ khác, song đây chỉ là cách chia tương đối ban đầu.)
CÁC TỔ CHỨC VÀ CÁC MẠNG LƯỚI CÓ CẤU TRÚC CHẶT CHẼ
1. Ngân sách và tài nguyên con người lớn, tính kinh tế của quy mô
2. Linh động xuyên quốc gia
3. Kiểm soát việc phát triển sản phẩm và phát triển mã, tính tổng quát của các ứng dụng
4. Thương hiệu và tiếng tăm
Các điểm yếu chủ chốt: khởi tố pháp lý, đánh cắp tài sản trí tuệ, làm xáo trộn hệ thống, tiếng tăm có thể mất (điểm mặt chỉ tên)
CÁC CÁ NHÂN VÀ CÁC MẠNG LƯỚI CÓ CẤU TRÚC LỎNG LẺO
1. Chi phí đầu tư để thâm nhập thấp
2. Hầu như ẩn danh và dễ thoát ra
3. Dễ bị tấn công một cách không cân xứng so với chính phủ và tổ chức lớn.
Các điểm yếu chủ chốt: nếu bị bắt, sẽ bị chính phủ và tổ chức cưỡng ép hợp pháp và bất hợp pháp
Bảng 5.3. Tài nguyên quyền lực tương đối của các chủ thể trong lĩnh vực điện tử
Các chủ thể chính phủ
Vì kiến trúc hạ tầng vật lý của Internet vẫn gắn với yếu tố địa lý, mà chính phủ thì có quyền tối cao đối với các không gian địa lý, nên vị trí của nó vẫn quan trọng trong vai trò một tài nguyên thuộc lĩnh vực điện tử. Chính phủ có thể tiến hành các biện pháp trợ giá cho kiến trúc hạ tầng, đào tạo tin học, và bảo hộ sở hữu trí tuệ nhằm khuyến khích (hoặc không khuyến khích) phát triển các năng lực trong phạm vi biên giới quốc gia. Cung cấp hàng hóa công cộng, gồm cả môi trường luật pháp và môi trường quản lý, có thể kích thích tăng trưởng các năng lực điện tử về mặt thương mại. Ví dụ, Hàn Quốc đã dẫn đầu về phát triển công ích các năng lực băng thông rộng. Tiếng tăm đó được xem là chính đáng, nhân từ, và thuần thục có thể tăng cường (hoặc ngược lại là làm suy yếu) quyền lực mềm của một chính phủ cùng những chủ thể khác trong lĩnh vực điện tử.
Yếu tố địa lý cũng là nền tảng để chính phủ thực thi quyền kiểm soát và cưỡng ép hợp pháp. Ví dụ, sau các cuộc bạo động Tân Cương năm 2009, chính phủ Trung Quốc đã buộc được 19 triệu cư dân ở một khu vực lớn gấp đôi Texas không được nhắn tin điện thoại, gọi điện quốc tế, và truy cập mạng, trừ một vài trang do chính phủ kiểm soát. Thiệt hại cho kinh doanh và du lịch là đáng kể, nhưng chính phủ Trung Quốc quan tâm hơn về ổn định chính trị36. Năm 2010, khi SWIFT, một công ty tư nhân điều phối và lưu trữ các khoản tiền chuyển giữa các ngân hàng, chuyển những máy chủ then chốt từ Mỹ sang châu Âu, công ty này cần xin phép EU để tự nguyện giao dữ liệu đến Bộ Ngân khố Mỹ vì mục đích chống khủng bố. Khi Nghị viện châu Âu ngần ngại phê chuẩn một hiệp ước toàn châu Âu, SWIFT thông báo rằng “không có cơ sở pháp lý để chúng tôi giao dữ liệu từ các trung tâm dữ liệu ở châu Âu của mình cho Bộ Ngân khố Mỹ”. Trong một thỏa hiệp sau đó, Nghị viện châu Âu áp đặt các giới hạn mới về quyền riêng tư đối với việc chuyển dữ liệu37.
Nếu một thị trường có quy mô lớn, chính phủ có thể thực thi quyền lực ngoài lãnh thổ. Các tiêu chuẩn về quyền riêng tư khắt khe của châu Âu đã có một tác động toàn cầu. Khi Yahoo hay Dow Jones đối mặt với những khiếu nại pháp lý dựa trên hoạt động Internet ở Pháp hay Úc, các công ty này quyết định tuân theo thay vì bước ra khỏi các thị trường đó. Hiển nhiên, đây là một tài nguyên quyền lực dành cho các chính phủ có thẩm quyền đối với những thị trường lớn, nhưng không hẳn dành cho tất cả các chính phủ.
Chính phủ cũng có khả năng thực hiện các cuộc tấn công điện tử38. Ví dụ, Hạm đội Số 10 và Không lực Số 24 của Mỹ không có tàu hay máy bay. Chiến địa của họ là không gian điện tử39. Quân lính của họ dùng máy tính và Internet thay vì tàu hay máy bay. Khổ nỗi, các bản tin thời sự về “hàng triệu cuộc tấn công” lại dùng từ “tấn công” lỏng lẻo để chỉ mọi thứ từ quét cổng máy tính đến hack (xâm nhập trái phép vào máy tính) hoặc bôi bẩn trang mạng đến các chiến dịch toàn diện nhằm phá hoại vật chất. Ta nên phân biệt tấn công đơn giản, sử dụng các bộ công cụ rẻ tiền mà bất cứ ai cũng có thể tải về từ Internet, với tấn công tiên tiến nhằm xác định các lỗ hổng chưa được vá, bao hàm các virus mới, và các cuộc “tấn công vào lỗ hổng zero-day” (sử dụng lần đầu). Các cuộc tấn công này đòi hỏi nhiều kỹ năng hơn xâm nhập đơn thuần. Chuyên gia cũng phân biệt khai thác điện tử vì mục đích gián điệp với tấn công điện tử vì mục đích phá hoại hoặc làm xáo trộn. Chính phủ tiến hành các hoạt động thuộc cả hai dạng này. Ít có thông tin nào được xác nhận công khai về gián điệp điện tử, nhưng đa số các trình báo đều mô tả những vụ xâm nhập vào hệ thống máy tính là phổ biến khắp nơi và không hạn hẹp trong phạm vi chính phủ.
Có nhiều trình báo về các vụ tấn công liên quan đến chiến tranh trong trường hợp của Iraq năm 2003 hay Gruzia năm 2008 và về các vụ phá hoại những thiết bị điện tử trong các hành động bí mật40. Israel được cho là đã dùng các phương tiện điện tử để đánh bại hàng phòng thủ trên không của Syria trước khi đánh bom một lò phản ứng hạt nhân bí mật vào tháng 9 năm 200741. Hầu hết các chuyên gia xem tấn công điện tử là một yếu tố phụ quan trọng, hơn là một vũ khí áp đảo (không như hạt nhân), trong các cuộc chiến tranh liên nhà nước. Các nhà nước xâm nhập vào hệ thống điện tử của nhau để “chuẩn bị trận địa” cho xung đột có khả năng xảy ra. Các nhà lý luận quân sự của Mỹ lẫn Trung Quốc đã thảo luận về những bước như thế (như ta đã thấy trong chương 2), nhưng ít có thông tin nào được tuyên bố công khai về các học thuyết tấn công điện tử.
Một báo cáo của Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia kết luận vào năm 2009 rằng “khung pháp lý và chính sách ngày nay trong việc hướng dẫn và điều chỉnh việc sử dụng tấn công điện tử của Mỹ được hình thành rất yếu kém, không phát triển, và cực kỳ bất định”42. Có lẽ nhiều chính phủ lớn tham gia vào hoạt động như thế này, mặc dù các vụ tấn công như vậy có thành công hay không sẽ phụ thuộc vào các lỗ hổng của đối tượng mục tiêu, do đó thực thi hoặc tiết lộ quá sớm sẽ làm suy yếu giá trị của những vụ tấn công này. Khả năng các vụ tấn công zero-day không báo trước sẽ có hiệu quả nhất, và thậm chí tác động của chúng có thể phụ thuộc vào các biện pháp mà đối tượng mục tiêu đã thực hiện để phát triển sự linh động, trong số đó có một vài biện pháp kẻ tấn công có thể hoàn toàn không hay biết.
Các chủ thể phi chính phủ cùng các mạng lưới có cấu trúc chặt chẽ
Các vụ tấn công điện tử từ chối dịch vụ hay làm xáo trộn hệ thống cũng được các chủ thể phi nhà nước thực hiện dù là vì mục đích ý thức hệ hay mục đích phạm tội, nhưng những nhóm như thế không có các năng lực như các chính phủ lớn. Các vụ tấn công tinh vi chống lại những mục tiêu giá trị cao như các hệ thống viễn thông phòng thủ có sự tham gia của các cơ quan tình báo lớn và các cơ quan này có khả năng xâm nhập bằng người (thông qua chuỗi cung ứng hoặc các gián điệp) và/hoặc phá những mật mã được mã hóa phức tạp. Một tin tặc thiếu niên và một chính phủ lớn đều có thể gây thiệt hại đáng kể qua Internet, nhưng điều đó không làm cho hai chủ thể này hùng mạnh như nhau trong lĩnh vực điện tử. Phân tán quyền lực không phải là cào bằng quyền lực. Một số chuyên gia chính phủ tin rằng những cải thiện đồng bộ về công nghệ trong ngành mã hóa và quản lý nhân thân có thể giảm thiểu đáng kể các mối đe dọa căn bản nhất trong vòng năm đến mười năm tới43. Nói như Mike McConnell, cựu Giám đốc Tình báo Quốc gia, “Các nguồn công cộng và tư nhân đều có thể sử dụng những công nghệ hiện hành và những công nghệ này có thể được phát triển thêm nếu ta quyết chí tích hợp chúng vào các hệ thống của chúng ta”44.
Một số tập đoàn xuyên quốc gia có ngân sách khổng lồ, tài nguyên con người lành nghề, và kiểm soát được mã độc quyền cho phép họ có những tài nguyên quyền lực lớn hơn tài nguyên quyền lực của nhiều chính phủ. Năm 2009, Microsoft, Apple, và Google có doanh thu hằng năm lần lượt là 58 tỉ USD, 35 tỉ USD, và 22 tỉ USD, và có số nhân viên tổng cộng hơn 150.000 người45. Amazon, Google, Microsoft, lẫn các công ty khác đang cạnh tranh nhau trong việc phát triển điện toán đám mây và có các trại máy chủ với hơn 50.000 máy chủ. Cơ cấu xuyên quốc gia của các công ty cho phép họ khai thác thị trường và tài nguyên khắp thế giới. Đồng thời, để bảo tồn địa vị pháp lý cũng như vốn thương hiệu của mình, các tập đoàn xuyên quốc gia có động cơ khích lệ lớn để tiếp tục tuân theo các cơ cấu pháp luật sở tại.
Những điểm pháp lý tinh tế như thế này không chế ngự được quyền lực của các tổ chức tội phạm. Một số tổ chức này là “đánh và rút”, đạt được lợi lộc nhanh chóng trước khi các chính phủ và nhà quản lý đuổi kịp46. Những tổ chức khác thì có quy mô xuyên quốc gia đầy ấn tượng và có lẽ được các chính phủ yếu bảo kê. Trước khi bị chế tài luật pháp triệt phá, mạng lưới trực tuyến Darkmarket có hơn 2.500 thành viên khắp thế giới mua bán các thông tin tài chính, mật khẩu, và thẻ tín dụng bị đánh cắp47. Có đến một phần tư các máy tính liên kết mạng có thể là một phần của một Botnet, và một số Botnet bao gồm hàng triệu máy tính. Mặc dù các con số ước tính có thể khác nhau, nhưng tội phạm điện tử có thể khiến công ty tốn hơn 1 nghìn tỉ USD mỗi năm48.
Một số nhóm tội phạm, chẳng hạn Mạng lưới Doanh nghiệp Nga (RBN), có thể đã thừa hưởng một số năng lực của nhà nước Liên Xô sau khi nhà nước này tan rã và được cho là vẫn giữ liên lạc không chính thức với chính phủ Nga. Theo một quan chức Anh, “Có nhiều dấu hiệu rõ ràng cho thấy RBN thao túng cảnh sát địa phương, bộ máy tư pháp địa phương và chính quyền địa phương ở St. Petersburg. Cuộc điều tra của chúng tôi gặp nhiều rào cản rất lớn”49. Hơn nữa, “kỹ năng xâm nhập máy tính của những nhóm tội phạm có thể khiến họ trở thành đồng minh bẩm sinh cho các quốc gia - dân tộc đang tìm cách nâng cao năng lực của mình đồng thời phủ nhận có tham gia vào các vụ tấn công điện tử”50. Quy mô của một vài tổ chức tội phạm là đắt đỏ và tốn kém nhưng có vẻ rất sinh lợi. Năm 2006, Văn phòng Kiểm toán Chính phủ Mỹ ước tính chỉ có 5% tội phạm điện tử bị bắt hay bị kết tội51.
Các nhóm khủng bố sử dụng tích cực những công cụ điện tử, như ta đã thấy trước đó, mặc dù cho đến nay rất hiếm thấy loại khủng bố điện tử được định nghĩa hạn hẹp là khủng bố bằng cách trực tiếp sử dụng các công cụ ảo để phá hoại (xem hàng đầu trong Bảng 5.1). Tuy rằng không gì có thể ngăn cản các nhóm khủng bố tuyển mộ những chuyên gia vi tính có năng lực hay mua phần mềm độc hại từ các nhóm tội phạm trên Internet, “tấn công điện tử có vẻ ít hữu dụng hơn hẳn tấn công thực: Tấn công điện tử không khiến các nạn nhân tiềm năng khiếp sợ, nó không ăn ảnh, và ít ai cảm nhận nó là sự kiện chấn động”52.
Trong số hai mươi hai âm mưu bị phá từ ngày 11 tháng 9, tất cả đều liên quan đến chất nổ hay vũ khí cỡ nhỏ, và “mặc dù kiến trúc hạ tầng trọng yếu của Mỹ từ lưới điện đến phân khúc tài chính đều dễ bị tấn công qua không gian điện tử, nhưng Al Qaeda lại thiếu khả năng và động lực để khai thác những điểm yếu này”53. Những người khác thì không lạc quan như vậy. Ví dụ, McConnell tin rằng các điểm yếu của hệ thống điện và hệ thống tài chính đặt ra một mục tiêu khổng lồ cho bất kỳ nhóm nào muốn phá hoại, và tin rằng các nhóm như thế sẽ phát triển những năng lực của mình để trở thành mối đe dọa lớn hơn cho các quốc gia - dân tộc khác. Theo ông, “Khi các nhóm khủng bố có được sự tinh vi, bọn chúng sẽ sử dụng nó”54.
Cho đến nay, những kẻ khủng bố dường như đã kết luận rằng chất nổ cung cấp một công cụ đáng đồng tiền bát gạo cho mục đích của bọn chúng. Nhưng điều đó không có nghĩa các nhóm khủng bố không sử dụng Internet để thúc đẩy chủ nghĩa khủng bố. Như ta đã thấy trước đó, khủng bố đã trở thành một công cụ trọng yếu cho phép chúng hoạt động như các mạng lưới thương hiệu được phân quyền, tạo ra hình tượng thương hiệu, tuyển mộ tín đồ, gây quỹ, cung cấp các sổ tay đào tạo, và quản lý các hoạt động của tổ chức. Gửi đi các hạt điện tử thì an toàn hơn hẳn so với gửi mật vụ qua các quầy kiểm soát hải quan và xuất nhập cảnh. Nhờ các công cụ điện tử, Al Qaeda bấy lâu có thể chuyển từ một tổ chức phân cấp chỉ hạn hẹp trong các chi bộ được thiết lập theo vùng địa lý đến một mạng lưới toàn cầu không phân cấp mà các tình nguyện viên địa phương có thể tự ứng tuyển. Như một chuyên gia về khủng bố nhận xét, nơi chủ chốt để thực hiện cấp tiến hóa “không phải là Pakistan, Yemen, cũng không phải Afghanistan... mà nằm duy nhất trong trải nghiệm của một cộng đồng ảo: cộng đồng Hồi giáo trên mạng”55.
Các cá nhân với các mạng lưới có cấu trúc lỏng lẻo
Đây là một ví dụ cho thấy những công cụ điện tử bắt đầu làm lu mờ lằn ranh giữa các tổ chức có mạng lưới cấu trúc chặt chẽ và các cá nhân có mạng lưới cấu trúc lỏng lẻo. Như một số các ví dụ trước cho thấy, các cá nhân có thể dễ dàng chơi trong lĩnh vực điện tử vì chi phí đầu tư nhập ngành thấp, có thể tham gia gần như nặc danh, và dễ rút khỏi cuộc chơi. Đôi khi các cá nhân này hành động dưới sự phê chuẩn của chính phủ và đôi khi chống lại các chính phủ đó. Ví dụ, trước vụ Nga tấn công Gruzia vào năm 2008, “bất kỳ dân thường nào, sinh ra ở Nga hay nơi khác, có hoài bão trở thành một chiến binh điện tử có thể vào các trang mạng thân Nga để tải phần mềm và các hướng dẫn cần thiết với mục đích phát động tấn công từ chối dịch vụ vào Gruzia”56. Trong các cuộc biểu tình của sinh viên ở Iran năm 2009, Twitter và các mạng xã hội có vai trò trọng yếu cho việc tổ chức cũng như tường thuật biểu tình. “Chính phủ Mỹ yêu cầu các nhân viên cấp cao của Twitter không gỡ trang Twitter xuống để bảo trì theo lịch. Họ lo rằng làm vậy có thể gây trở ngại cho cách Twitter đang được sử dụng để tổ chức biểu tình”. Tuy nhiên sáu tháng sau, một nhóm vô danh có tên Quân đội Điện tử Iran đã dẫn hướng thành công Twitter đến một trang mạng có thông điệp chống Mỹ, và vào tháng 2 năm 2010, chính phủ Iran đã chặn phần lớn lượng truy cập vào Twitter lẫn các trang mạng khác57.
Dựa vào thảo luận của chúng ta trong chương 3 về các khía cạnh trong đó sự phụ thuộc lẫn nhau bất đối xứng góp phần sinh ra quyền lực, cần chú ý rằng các chủ thể cá nhân trong lĩnh vực điện tử được lợi từ tính dễ tổn thương bất đối xứng so với các chính phủ và tổ chức lớn. Họ có mức độ đầu tư rất thấp và không hao tổn nhiều nếu rút khỏi cuộc chơi cũng như tham gia lại. Điểm yếu chính của họ là dễ bị các chính phủ và các tổ chức cưỡng ép hợp pháp và bất hợp pháp nếu họ bị bắt, nhưng chỉ có một phần trăm nhỏ là bị bắt thực sự. Ngược lại, các tập đoàn có những điểm yếu quan trọng do có nhiều khoản đầu tư cố định lớn vào các hệ điều hành phức tạp, sở hữu trí tuệ, và danh tiếng. Tương tự, các chính phủ lớn phụ thuộc vào các hệ thống phức tạp dễ bị phá rối, sự ổn định chính trị, và quyền lực mềm từ danh tiếng. Mặc dù những vụ công kích điện tử “đánh và rút” do các cá nhân thực hiện khó có khả năng bắt các chính phủ hoặc tập đoàn phải phủ phục, nhưng bằng một khoản đầu tư nhỏ xíu, chúng có thể đặt ra nhiều cái giá nghiêm trọng cho các hoạt động và danh tiếng bị phá rối. Các chính phủ là thế lực đứng đầu trên Internet, nhưng những thế lực nhỏ hơn vẫn luôn quấy phá và việc đối phó với những thế lực đó có thể dẫn đến một hoàn cảnh chính trị phức tạp.
GOOGLE VÀ TRUNG QUỐC
Sự tương tác phức tạp này giữa các chủ thể công và tư được minh họa bằng trường hợp của Google, một công ty Mỹ, và chính phủ Trung Quốc58. Đầu năm 2010, Google thông báo sẽ rút các hoạt động kinh doanh ra khỏi Trung Quốc và từ đó đặt ra một cái giá đáng chú ý đối với quyền lực mềm của Trung Quốc. Vụ việc bao hàm ba vấn đề, nghiêm túc mà nói thì khác nhau nhưng lại liên quan đến nhau về mặt chính trị: Chính phủ Trung Quốc được cho là đã nỗ lực đánh cắp mã nguồn của Google (tài sản trí tuệ), xâm nhập vào tài khoản Gmail của các nhà hoạt động Trung Quốc (quyền con người), và đáp lại, Google quyết định không tiếp tục tuân theo việc kiểm duyệt các câu truy vấn tìm kiếm của Google.cn (mặc dù Google đã tuân theo được bốn năm). Nghiêm túc mà nói, rút khỏi Trung Quốc không giải quyết được hai vấn đề đầu, vì hai vấn đề này không phụ thuộc vào máy chủ đặt tại Trung Quốc. Nhưng Google mong muốn trở thành nhà cung cấp đám mây được ưa chuộng (để cạnh tranh với các đối thủ như Microsoft), và có thể Google đã quyết định rằng danh tiếng liên quan đến bảo mật và quyền con người thì có giá trị hơn giành thị phần tìm kiếm ở Trung Quốc, nơi mà Baidu, một công ty Trung Quốc, đang dẫn đầu về thị phần. Hơn nữa, tìm kiếm ở Trung Quốc không phải là một nguồn doanh thu lớn cho Google.
Các vụ tấn công nhằm đánh cắp tài sản trí tuệ của công ty nước ngoài không phải là chuyện lạ ở Trung Quốc, nhưng sau tháng 7 năm 2009, các chuyên gia phát hiện ra mức độ táo tợn mới chống lại nhiều công ty giờ đây có nguy cơ bị tấn công (zero-day) theo kiểu mới, tinh vi hơn. Trung Quốc khi ấy dường như đang gia tăng các yêu sách, và không như các công ty công nghệ thấp có ít lựa chọn nếu muốn ở lại thị trường Trung Quốc, Google cần bảo tồn quyền lực mềm về danh tiếng của mình để ủng hộ quyền tự do bày tỏ chính kiến nhằm tuyển dụng và bồi dưỡng nguồn nhân sự sáng tạo cũng như duy trì danh tiếng về bảo mật của thương hiệu Gmail.
Vào thời điểm này, chính phủ Mỹ đã can thiệp. Google đã báo cho Nhà Trắng trước khi ra thông báo. Ngoại trưởng Clinton bấy lâu vẫn dự định phát biểu về tự do Internet, và việc thêm vào ví dụ về Google này đã nâng vấn đề nêu trên lên cấp độ liên chính phủ. Chính phủ Trung Quốc ban đầu gạt bỏ vấn đề này, cho rằng đây là tranh chấp thương mại, nhưng sự tham gia của chính phủ Mỹ đã dẫn đến các tuyên bố chính trị cho rằng cần phải tuân theo luật pháp Trung Quốc, đồng thời cũng dẫn đến các khiếu nại về chủ nghĩa đế quốc điện tử của Mỹ59. Những quan chức khác nói đến các nỗ lực của Mỹ nhằm duy trì thế bá quyền về Internet. Đồng thời, các quan điểm khác của Trung Quốc cũng được thể hiện. Một vài công dân đặt hoa lên biểu tượng Google, và các công dân khác lo rằng việc Google rút khỏi Trung Quốc sẽ gây tổn hại cho Trung Quốc nếu Baidu trở nên độc quyền. “Khi các công ty Trung Quốc ra khỏi Trung Quốc, các công ty này sẽ nhận thấy mình không còn hiểu rõ đối thủ như lúc còn cạnh tranh với nhau ở Trung Quốc”60. Ban đầu, Google tự động dẫn hướng người dùng ở lục địa Trung Quốc đến trang Google ở Hồng Kông, nhưng Trung Quốc bác bỏ chiêu bài này và dọa sẽ không gia hạn giấy phép cung cấp dịch vụ Internet của Google. Google sau đó tạo ra một trang đích hiển thị một liên kết đến Google Hồng Kông, thay vì tự động chuyển người truy cập đến đó. Google vẫn ở lại Trung Quốc, nhưng chính phủ Trung Quốc tái khẳng định quyền tối cao của luật pháp nước này.61
Tuy nhiên, chính phủ Mỹ đã sử dụng vụ việc này để đòi hỏi các chuẩn mực mới trên Internet. Đồng thời, chính phủ Mỹ không nói Mỹ sẽ ngừng làm gì. Ví dụ, liệu chính phủ Mỹ có tìm cách dừng lại các vụ đột nhập riêng tư vào các hệ thống của Trung Quốc không? Nhiều vụ đột nhập vào hệ thống máy tính của Trung Quốc và Mỹ có quan hệ tương hỗ. “Nói một cách đơn giản, Mỹ đang rầm rộ làm chính những chuyện mà Bộ trưởng Clinton đã chỉ trích. Không như phía Trung Quốc, Mỹ không đánh cắp tài sản trí tuệ từ các công ty Mỹ hay đột nhập vào tài khoản của các nhà ủng hộ dân chủ. Nhưng Mỹ lại mạnh tay sử dụng chính các kỹ thuật máy tính này hoặc các kỹ thuật tương tự để đạt được mục đích mà mình cho là xứng đáng”62.
Một cuộc khảo sát các chuyên gia điện tử cho thấy người ta cảm nhận Mỹ là nước đưa ra đe dọa lớn nhất về đột nhập, theo sát là Trung Quốc63. Một số vụ đột nhập xuất phát từ Mỹ chắc chắn là do chính phủ thực hiện, nhưng các vụ khác là do các tin tặc chính trị tư nhân muốn thúc đẩy quyền con người và tự do Internet ở Trung Quốc lẫn những nơi khác trên thế giới. Liệu Mỹ có thể kiểm soát hay sẵn sàng kiểm soát các tin tặc chính trị này không? Có vẻ khó có khả năng này trong các vụ việc về quyền con người, tuy nhiên, chính phủ Trung Quốc xem các thành phần Tây Tạng lưu vong và các tin tặc Pháp Luân Công là đe đọa an ninh quốc gia.
Về nguyên tắc, ta có thể mường tượng ra một số lĩnh vực, trong đó, các mục tiêu của Trung Quốc và Mỹ chồng chéo với nhau trên thực tế và qua cảm nhận, nhưng sáng kiến của một công ty tư nhân nhằm liên kết tội đánh cắp tài sản trí tuệ với việc xâm nhập bất hợp pháp vì quyền con người thì nhất định dẫn đến tình huống chính trị phức tạp hơn. Các công ty, chính phủ lẫn tin tặc cá nhân đều sử dụng nhiều công cụ có sẵn khác nhau để đấu tranh giành kết quả mong muốn của mình trong khía cạnh này của lĩnh vực điện tử.
CHÍNH PHỦ VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
Một số người xem không gian điện tử là tương đồng với miền Viễn Tây vốn không bị quản lý và vô luật pháp, nhưng trong thực tế có nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước về tư lẫn công. Một số tiêu chuẩn kỹ thuật nhất định liên quan đến giao thức Internet được thiết lập (hoặc không được thiết lập) do đồng thuận giữa các kỹ sư tham gia vào Lực lượng Đặc nhiệm Kiến thiết Internet phi chính phủ (Internet Engineering Task Force). Những tiêu chuẩn như thế có được áp dụng rộng rãi hay không thường phụ thuộc vào việc doanh nghiệp tư nhân có quyết định đưa những tiêu chuẩn này vào các sản phẩm thương mại hay không. Tổ chức phi chính phủ Liên hiệp Mạng Toàn cầu (World Wide Web Consortium) phát triển các tiêu chuẩn cho mạng Internet. ICANN có địa vị pháp lý của một tập đoàn phi lợi nhuận theo luật Mỹ, mặc dù các thủ tục của tổ chức này đã tiến hóa và bao gồm tiếng nói của chính phủ (tuy không phải phiếu bầu).
Trong bất kỳ trường hợp nào, thẩm quyền của ICANN chỉ hạn hẹp trong việc quản lý tên miền và quản lý hoạt động định tuyến, chứ không quản lý toàn bộ không gian điện tử. Các chính phủ quốc gia kiểm soát luật bản quyền và sở hữu trí tuệ, mặc dù các luật này có thể phải qua thương thảo và kiện tụng, đôi khi theo khuôn khổ của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới và Tổ chức Thương mại Thế giới. Các chính phủ cũng xác định việc phân bố dải sóng quốc gia theo khuôn khổ quốc tế được thương thảo tại Liên hiệp Viễn thông Quốc tế. Quan trọng hơn cả, các chính phủ quốc gia cố gắng quản lý những vấn đề về an ninh, gián điệp, và tội phạm bên trong khung pháp lý quốc gia, mặc dù sự biến đổi liên tục về công nghệ của lĩnh vực điện tử đồng nghĩa với việc luật pháp và quy định luôn luôn theo đuổi một mục tiêu di động. Mặc dù không có định chế quản trị không gian điện tử riêng biệt, vẫn có một bộ quy chuẩn và đoàn thể kết hợp lỏng lẻo với nhau nằm ở thứ hạng, đâu đó giữa một tổ chức tích hợp áp đặt quy định thông qua các quy tắc có thứ bậc lẫn các hoạt động và đoàn thể cực kỳ rời rạc, không có cốt lõi rõ ràng cũng như các mối liên kết64.
Lĩnh vực không gian điện tử thường được mô tả là một món hàng công cộng hay một mảnh đất chung toàn cầu, nhưng những thuật ngữ này không chính xác lắm. Một món hàng công cộng là thứ mà ai cũng có thể hưởng lợi từ nó và không loại trừ bất kỳ ai, và mặc dù định nghĩa này có thể mô tả một số các giao thức thông tin của Internet, nó không mô tả kiến trúc hạ tầng vật lý của Internet - một tài nguyên sở hữu độc quyền khan hiếm nằm bên trong đường biên giới của các nhà nước tự trị. Và không gian điện tử không phải mảnh đất chung như hải phận quốc tế, bởi vì các bộ phận của nó nằm dưới quyền kiểm soát tối cao. Cùng lắm thì đây là một “mảnh đất chung* bất toàn” hay một lãnh thổ cùng quản (condominium) không có các quy tắc vững chắc65.
* Commons, ở đây được hiểu là một khu vực quốc tế mà các nước có thể tự do đi qua và khai thác chung (như một số vùng biển).
Không gian điện tử có thể được phân loại theo cách gọi của nhà kinh tế chính trị đoạt giải Nobel, Elinor Ostrom, là một “tài nguyên công quỹ” rất khó để loại trừ ai ra khỏi nó và bên khai thác nó có thể giảm giá trị cho các bên khác66. Chính phủ không phải là giải pháp duy nhất cho các vấn đề về tài nguyên công quỹ như thế. Ostrom chứng minh rằng hình thức tự tổ chức trong cộng đồng có thể thực hiện được trong điều kiện nhất định. Tuy nhiên, các điều kiện mà bà gắn với việc tự quản thành công lại yếu ớt trong lĩnh vực điện tử do tài nguyên có kích thước lớn, số lượng người dùng đông, và ít ai hiểu rõ hệ thống sẽ tiến hóa như thế nào (trong số các hệ thống khác).
Vào những ngày đầu của Internet, nó như một ngôi làng nhỏ của những người dùng quen thuộc, nên lớp mã xác thực là không cần thiết, và phát triển các quy chuẩn rất đơn giản. Tất cả những thứ đó đều thay đổi cùng sự phát triển đâm chồi nảy lộc. Mặc dù tính cởi mở và dễ tiếp cận của không gian điện tử trong vai trò một môi trường giao tiếp cung cấp nhiều lợi ích có giá trị cho tất cả, nhưng hành vi “dùng chùa” dưới dạng phạm tội, tấn công, và đe đọa vẫn gây ra tình trạng mất an ninh. Kết quả là xuất hiện nhu cầu cần bảo vệ có thể dẫn đến sự rời rạc, “khu vườn có tường bao quanh”, các mạng tư, và các phiên bản điện tử tương đương hành vi “rào phần đất của mình” của thế kỷ XVII đã được sử dụng để giải quyết “bi kịch mảnh đất chung”67 của kỷ nguyên đó.
Cung cấp an ninh là một chức năng điển hình của chính phủ, và một số nhà quan sát tin rằng mất an ninh càng lớn sẽ dẫn đến vai trò càng lớn hơn cho các chính phủ trong không gian điện tử. Nhiều nhà nước mong muốn mở rộng quyền lực tối cao của mình trong không gian điện tử và dùng các phương tiện công nghệ để làm điều đó. Như hai chuyên gia đã nói, “Bảo vệ không gian điện tử bấy lâu nhất định bao hàm ’sự trở lại của nhà nước’ nhưng không phải theo hướng gợi mở sự trở lại mô phạm Westphalia truyền thống về quyền tự chủ của nhà nước”. Các nỗ lực nhằm bảo vệ mạng góp phần tạo thuận lợi cho các chủ thể phi nhà nước đang sinh sôi nảy nở sử dụng nó và thường bao hàm việc ủy thác trách nhiệm lẫn thẩm quyền cho các chủ thể tư nhân68. Ví dụ, các công ty tài chính và ngân hàng đã phát triển các hệ thống an ninh và trừng phạt tinh vi riêng thông qua những mạng lưới mang tính kết nối, chẳng hạn như tước quyền giao thương của những người tái phạm và giảm tốc độ cũng như tăng chi phí giao dịch cho những địa chỉ gắn với hành vi đáng ngờ.
Các công ty cung cấp dịch vụ lưu trữ mạng hay nền tảng mạng xã hội có động cơ khích lệ rất lớn để xóa bỏ những người dùng gây rối hay khó ưa vốn sinh ra rất ít doanh thu nhưng lại rất tốn kém để bảo vệ nếu họ bị người dùng khác tấn công69. Các chính phủ muốn bảo vệ Internet để xã hội của họ có thể tiếp tục hưởng lợi, nhưng đồng thời, họ cũng bảo vệ xã hội của mình khỏi những gì Internet mang đến. Ví dụ, người ta cho rằng Trung Quốc đang phát triển các công ty của riêng mình đằng sau tường lửa của nước này và có kế hoạch ngắt kết nối khỏi Internet nếu bị tấn công70. Tuy vậy, Trung Quốc, và các chính phủ khác, vẫn theo đuổi những lợi ích kinh tế của Internet. Kết quả là căng thẳng dẫn đến các thỏa hiệp không hoàn hảo71.
Nếu ta xem phần lớn hành vi xâm nhập máy tính vì mục đích chính trị chỉ là sự phiền phức, thì có bốn mối đe dọa điện tử lớn cho an ninh quốc gia, mỗi mối đe dọa có một khung thời gian khác nhau và (về nguyên tắc) các giải pháp khác nhau: gián điệp kinh tế, tội phạm, chiến tranh điện tử, và khủng bố điện tử. Đối với Mỹ ở thời điểm hiện tại, chi phí cao nhất đến từ hai nhóm đầu tiên, nhưng trong thập kỷ tiếp theo, trật tự này có thể bị đảo ngược, và khi các liên minh cũng như chiến thuật tiến hóa giữa các chủ thể khác nhau, các nhóm này có thể ngày càng chồng chéo. Theo mô tả của cựu Giám đốc Tình báo Quốc gia, “Các nhóm khủng bố ngày nay được xếp hạng gần chót về năng lực chiến tranh điện tử. Các tổ chức tội phạm thì tinh vi hơn. Có một hệ thống cấp bậc ta đi từ các quốc gia có khả năng tiêu diệt, đến tội phạm có khả năng đánh cắp, đến các tin tặc tinh vi và đáng gờm hơn... Sớm muộn, các nhóm khủng bố sẽ đạt được khả năng điện tử tinh vi. Cũng giống như sự gia tăng vũ khí hạt nhân vậy, có điều dễ dàng hơn nhiều”72.
Theo đánh giá điện tử năm 2009 của Tổng thống Obama, trước mắt, hiện tượng các nhà nước (và tập đoàn) khác đánh cắp tài sản thông tin là chi phí cao nhất. Nó không chỉ gây thiệt hại kinh tế ở hiện tại mà qua việc phá hủy lợi thế cạnh tranh, nó còn đe dọa quyền lực cứng trong tương lai73. Mỗi năm, một lượng tài sản trí tuệ lớn gấp mười lần tất cả tài sản trí tuệ trong Thư viện Quốc hội Mỹ bị đánh cắp từ các mạng doanh nghiệp, chính phủ, và trường đại học, đe dọa đến hiệu quả quân sự lẫn ưu thế cạnh tranh của Mỹ trong nền kinh tế toàn cầu74. Như ta đã thấy, tội phạm điện tử còn là một gánh nặng đáng kể cho nền kinh tế. Và nhìn xa hơn phía trước, khi các nhà nước khác phát triển năng lực tấn công điện tử vào các kiến trúc hạ tầng trọng yếu và có thể tước đi lợi thế thông tin của quân lực Mỹ, cái giá đánh vào quyền lực cứng của Mỹ có thể rất lớn. Và khi nhóm khủng bố nào muốn phá hoại phát triển khả năng phá hoại của riêng chúng, thì chúng có thể gây ra chi phí tăng đột biến. Giải pháp cho mỗi mối đe dọa là hoàn toàn khác nhau.
Chiến tranh điện tử là mối đe dọa kịch tính nhất trong số các mối đe dọa tiềm ẩn. Nó có thể được quản lý thông qua một dạng răn đe liên nhà nước (mặc dù khác với răn đe cổ điển là bằng hạt nhân), các năng lực tấn công, cùng các thiết kế nhằm đạt được sự linh động về kiến trúc hạ tầng và mạng nếu răn đe thất bại. Vào một thời điểm trong tương lai, có thể củng cố các biện pháp này bằng những quy chuẩn sơ đẳng nhất định75 .Trong trường hợp chiến tranh, giao chiến phải tuân theo các quy chuẩn kinh điển là tính phân định và tính tương xứng vốn là trọng tâm của luật pháp hiện hành về xung đột vũ trang, nhưng chiến tranh điện tử đặt ra các vấn đề mới và khó khăn, là làm cách nào để phân biệt mục tiêu dân thường với mục tiêu quân sự cũng như chắc chắn về mức độ thiệt hại ngoài dự kiến.
Ví dụ, một tướng Mỹ được dẫn lời nói rằng các nhà hoạch định của Mỹ đã không sử dụng kỹ thuật điện tử đặc biệt để vô hiệu mạng lưới phòng không của Iraq do Pháp sản xuất, bởi “sợ sẽ phá sập tất cả các ATM ở Paris”. Hơn nữa, bởi vì phòng thủ điện tử đôi khi tương tự với súng cướp cò từ tay một kẻ ngoài vòng pháp luật, và vì phải được điều khiển bởi máy móc vận hành ở “tốc độ mạng” khi một cuộc tấn công bị phát hiện lần đầu, tấn công và phòng thủ mất ranh giới phân định, và các nguyên tắc tham gia duy trì kiểm soát thường dân trở nên khó thiết lập76.
Một số nhà quan sát lập luận rằng do khó khăn trong việc xác định nguồn gốc của một vụ tấn công, răn đe không có tác dụng trong không gian điện tử. Tuy nhiên, quan điểm thường gặp này lại quá đơn giản. Mặc dù răn đe liên nhà nước khó hơn trong không gian điện tử, nó không phải không thực hiện được. Rất nhiều người nghĩ đến khái niệm răn đe về mặt mô hình hạt nhân đã tồn tại nửa thế kỷ vừa qua, trong đó đe dọa trả đũa trừng phạt nghe thảm khốc đến nỗi nó có thể răn đe ý định tấn công. Nhưng răn đe hạt nhân chưa từng đơn giản như vậy.
Mặc dù năng lực phản công hạt nhân (second-strike capability) và học thuyết hủy diệt tất yếu lẫn nhau (mutual assured destruction) có thể đã có tác dụng ngăn chặn các vụ tấn công vào nước Mỹ, nhưng chúng chưa hề đáng tin cậy trước các vấn đề nằm dưới đáy của thang lợi ích. Nằm đâu đó giữa các thái cực này là sự răn đe được mở rộng đối với những vụ tấn công chống lại các đồng minh và phòng thủ các vị trí yếu như Berlin trong Chiến tranh Lạnh. Răn đe hạt nhân đã được những biện pháp khác bổ sung (như lập căn cứ tiền phương* các lực lượng truyền thống), cũng như nhiều thiết bị ra hiệu khác nhau nhằm điều phối sự di chuyển của các lực lượng, và quá trình tiếp thu kiến thức đã xảy ra qua các thập kỷ, dẫn đến nhiều phạm vi khác nhau của các hiệp ước từ chống gia tăng vũ khí hạt nhân đến quản lý những sự cố trên biển.
* Forward basing: Lập căn cứ quân sự ở nước ngoài để thể hiện quyền lực và thúc đẩy lợi ích quốc gia.
Tấn công điện tử thiếu khía cạnh thảm họa của tấn công bằng vũ khí hạt nhân, và xác định thủ phạm thì khó khăn hơn, nhưng răn đe liên nhà nước qua vướng mắc lợi ích chung (deterrence through entanglement) và răn đe qua hành động khước từ (deterrence through denial) vẫn tồn tại. Cho dù nguồn gốc tấn công có thể được ngụy trang thành công dưới một “lá cờ giả mạo” đi nữa, các chính phủ khác có thể cảm thấy mình đủ vướng mắc trong những mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau đến nỗi nếu mở cuộc tấn công lớn sẽ phản tác dụng. Không như sợi dây phụ thuộc lẫn nhau về quân sự nối Mỹ với Liên Xô trong Chiến tranh Lạnh, Mỹ, Trung Quốc, và các nước khác đang bị vướng mắc trong nhiều mạng lưới khác nhau. Ví dụ, bản thân Trung Quốc sẽ thiệt hại nếu tấn công gây thiệt hại nghiêm trọng tới nền kinh tế Mỹ, và ngược lại.
Ngoài ra, một kẻ tấn công vô danh có thể bị răn đe bằng hành động khước từ. Nếu tường lửa mạnh, hay tồn tại viễn cảnh về một hành động đáp trả có quyền lực buộc thi hành (“một hàng rào điện”), thì ý định tấn công trở nên kém hấp dẫn. Các năng lực tấn công buộc phải đáp trả tức thời có thể tạo ra sự phòng thủ tích cực đóng vai trò răn đe, ngay cả khi ta không hoàn toàn biết được kẻ tấn công. Yếu tố vô ích cũng có thể góp phần răn đe một kẻ tấn công vô danh. Nếu mục tiêu được bảo vệ tốt, hoặc có sao lưu phòng bị và linh động để có thể phục hồi nhanh, thì tỉ số “rủi ro trên lợi ích” của ý định tấn công sẽ suy giảm. Cuối cùng, trong trường hợp lá cờ giả mạo không hoàn hảo và tin đồn về nguồn gốc một vụ tấn công được đông đảo mọi người xem là đáng tin cậy (mặc dù không có tính chất chứng minh trước tòa), thiệt hại về danh tiếng cho quyền lực mềm của kẻ tấn công có thể góp phần răn đe.
Khủng bố điện tử và chủ thể phi nhà nước thì khó răn đe hơn. Như ta đã thấy, tấn công điện tử không phải là lộ trình hấp dẫn nhất cho khủng bố ngày nay, nhưng khi nhiều nhóm phát triển khả năng gây thiệt hại lớn cho kiến trúc hạ tầng trong nhiều năm tới, sức cám dỗ sẽ tăng trưởng. Bởi vì xác định nguyên nhân sẽ rất khó, các biện pháp phòng thủ được cải thiện như tấn công phủ đầu và tình báo con người trở nên quan trọng. Ở cấp độ cơ bản hơn, nhiều chuyên gia tin rằng giải pháp lâu dài là một chương trình tái thiết kế Internet để khiến các cuộc tấn công tương tự khó khăn hơn so với cấu trúc Internet ngày nay, một cấu trúc nhấn mạnh tính dễ sử dụng hơn là bảo mật. Cách tiếp cận là giảm tính dễ tổn thương của một số khía cạnh nhạy cảm của kiến trúc hạ tầng quốc gia bằng cách giảm khả năng kết nối của chúng với Internet. Một số người đề xuất các động cơ khích lệ đặc biệt mang tính “tự nguyện tham gia” khuyến khích tư nhân sở hữu kiến trúc hạ tầng trọng yếu (chẳng hạn tài chính và điện) gia nhập các hệ thống có tính bảo mật, thay vì phụ thuộc vào mạng Internet mở (Internet sẽ tiếp tục tồn tại cho những ai có rủi ro thấp và sẵn sàng chịu được những rủi ro lớn hơn).
Cũng có thể giảm tội phạm điện tử bằng các biện pháp tương tự khiến truy cập vào một số hệ thống khó khăn hơn so với hiện nay. Thêm vào đó, có thể phát triển các mức độ hợp tác quốc tế tương tự những nỗ lực làm nản lòng cướp biển trong một kỷ nguyên trước để hạn chế tội phạm điện tử. Có thời, nhiều chính phủ cảm thấy đỡ rắc rối nếu chịu đựng một số tay cướp biển và thậm chí các tàu lùng cho thuê (trước Tuyên ngôn Paris năm 1856), và ngày nay, một số chính phủ có thái độ tương tự với tội phạm Internet. Ví dụ, Nga và Trung Quốc đã từ chối ký Hiệp định về Tội phạm Điện tử của Ủy hội châu Âu trong khi có hơn ba mươi nước đã ký. Nhưng thái độ của hai nước này có thể thay đổi theo thời gian nếu cái giá vượt quá lợi ích. Ví dụ, “Các tội phạm điện tử của Nga không còn tuân theo những quy tắc không can thiệp khi nói đến các đối tượng mục tiêu tổ quốc, và cơ quan chính quyền Nga đang bắt đầu bỏ chính sách laisser faire*”77. Mặc dù trước mắt, triển vọng thực hiện hiệp định này không mấy hứa hẹn, nhưng có thể mường tượng sự xuất hiện của các liên minh sẵn lòng thiết lập một tiêu chuẩn cao hơn và cùng nhau hợp tác để nâng cái giá phải trả cho những ai vi phạm một quy chuẩn mới thiết lập, cũng như cách hoạt động của các quy định tài chính về rửa tiền hoặc sáng kiến an ninh chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
* Chính sách “tự do kinh tế (nền kinh tế tự vận hành)”: Chủ trương chính phủ để cho kỹ nghệ trong nước được tự do hoạt động, mà không có những phương thức kiềm chế như thuế má hoặc có những cơ sở độc quyền của chính phủ. Lý thuyết này ngược lại với lý thuyết kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Gián điệp Internet có khả năng sẽ tiếp tục tồn tại mà không thuyên giảm trừ phi có các cách tiếp cận mới mang tính nhà nước. Gián điệp có mặt từ xa xưa và không vi phạm điều khoản rõ ràng nào của luật quốc tế. Tuy nhiên, đôi khi các chính phủ đã thiết lập luật đi đường để hạn chế gián điệp và tham gia vào các mô hình ăn miếng trả miếng để tạo ra động cơ khuyến khích sự hợp tác. Các cuộc thí nghiệm đã cho thấy những đối tác trong trò chơi Song đề tù nhân* và trò chơi Hàng hóa công cộng** có thể phát triển sự hợp tác nếu chơi nhiều lần trong các giai đoạn kéo dài78. Mặc dù khó thấy trước các hiệp ước có thể thi hành trong đó các chính phủ đồng ý không tham gia vào gián điệp, ta có thể tưởng tượng sự tồn tại của một quá trình lặp lại nhiều lần (ăn miếng trả miếng) nhằm phát triển luật đi đường có thể hạn chế thiệt hại về thực tế. Theo lời của Howard Schmidt, Trưởng ban An ninh Điện tử Mỹ, “Một trong những điều mấu chốt này đã và đang trở lại các quốc gia nơi nó dường như đã phát sinh rồi nói: Nếu không phải là quý vị, thì quý vị cần phải điều tra chuyện này”79. Nếu không có phản ứng thì có thể theo sau là trả đũa có kiểm soát.
* Song đề tù nhân: Một trò chơi gồm hai người chơi, mỗi người đều muốn giành thuận lợi cho mình, bất chấp tình trạng của người kia. Kết quả của trò chơi này sẽ tốt nhất nếu cả hai người hợp tác với nhau.
** Hàng hóa công cộng: Một trò chơi kinh tế thực hành.
Theo học thuyết pháp lý quốc tế, có thể thực hiện các đối sách tương xứng để đáp lại mối nguy hại nảy sinh từ một nhà nước, cho dù chính phủ không đứng đằng sau mối nguy hại đó. Tuy không hoàn hảo nhưng vẫn có thể nỗ lực để đối phó với các chủ thể phi nhà nước bằng cách buộc các nhà nước phải chịu trách nhiệm cho những hành động nảy sinh trong phạm vi ranh giới thuộc thẩm quyền của mình. Để tránh tình trạng leo thang hay “nhốt lại không cho đào tẩu”, cần sẵn sàng hỗ trợ và tham gia vào các cuộc thảo luận có thể phát triển những cảm nhận thường gặp của các bên, nếu không phát triển các quy chuẩn được hoàn toàn nhất trí. Quá trình “thụ đắc” này vẫn còn ở giai đoạn đầu trong lĩnh vực điện tử, tương tự những gì đã xảy ra trong kỷ nguyên hạt nhân đầu những năm 195080.
Vào giai đoạn này, các hiệp ước kiểm soát vũ khí quy mô lớn có vẻ không hứa hẹn nếu không tồn tại năng lực xác minh, mặc dù có thể sẽ có nhiều thỏa thuận hạn chế hơn81. Suốt những năm 2000, Đại Hội đồng LHQ thông qua một chuỗi các nghị quyết lên án hoạt động tội phạm và kêu gọi chú ý vào những biện pháp phòng thủ mà chính phủ có thể thực thi. Trong cùng khoảng thời gian này, Nga theo đuổi một hiệp ước có chức năng giám sát rộng hơn Internet quốc tế, cấm lừa đảo, chèn mã hay mạch điện độc hại có thể kích hoạt nếu xảy ra chiến tranh. Nhưng phía Mỹ đã lập luận rằng các biện pháp cấm tấn công có thể gây thiệt hại cho công tác phòng thủ chống lại những cuộc tấn công hiện thời và sẽ không thể nào xác minh hay buộc phải thi hành được. Hơn nữa, Mỹ đã kháng cự lại những thỏa thuận có khả năng hợp pháp hóa việc kiểm duyệt Internet của các chính phủ chuyên chế. Tuy nhiên, Mỹ đã bắt đầu có nhiều thảo luận thân mật với Nga82. Ngay cả những người ủng hộ bộ luật quốc tế cho các hoạt động thông tin cũng hoài nghi về một hiệp ước đa phương tương tự Hiệp định Geneva có thể chứa các điều luật chi tiết và chính xác trước sự biến đổi không ngừng về công nghệ trong tương lai, nhưng họ lập luận rằng các nhà nước cùng quan điểm với nhau có thể tuyên bố những điều luật tự trị có khả năng định hình các quy chuẩn cho tương lai83.
Các khác biệt về quy chuẩn đặt ra khó khăn trong việc đạt được bất kỳ thỏa thuận tổng quát nào về việc điều tiết nội dung trên Internet. Như ta đã thấy trước đó, Mỹ từng kêu gọi tạo ra “những quy chuẩn về hành vi giữa các nhà nước” nhằm “khuyến khích tôn trọng mảnh đất chung được liên kết toàn cầu”, nhưng như Jack Goldsmith lập luận, “cho dù có thể chặn tất cả các vụ tấn công điện tử từ mảnh đất của mình, chúng ta cũng sẽ không muốn làm vậy. Về tư, xâm nhập trái phép vì mục đích chính trị có thể là một công cụ giải phóng. Về công, phòng thủ tốt nhất cho các hệ thống máy tính trọng yếu đôi khi chính là tấn công tốt”84. Theo quan điểm của Mỹ, Twitter và YouTube là chuyện tự do cá nhân; nhìn từ phía Bắc Kinh hay Tehran, chúng là các công cụ tấn công. Ngay cả về vấn đề khiêu dâm trẻ em, tuy đông đảo các nhà nước đều có chung những quy chuẩn lên án việc này, nhưng các chính phủ có khả năng sẽ đơn phương xúc tiến các công nghệ lọc quốc gia thay vì ban hành một thông báo yêu cầu gỡ bỏ thông tin tới nhà cung cấp dịch vụ rồi trông cậy nhà nước đăng nội dung sẽ khởi tố pháp lý. Ví dụ, Úc đã áp đặt một trong số những bộ lọc Internet mạnh nhất liên quan đến tội phạm mà bất kỳ nền dân chủ lâu đời nào cũng đề xuất85. Tự lực vẫn là phương thức nổi trội.
Lĩnh vực điện tử là một môi trường nhân tạo vừa mới mẻ vừa dễ biến đổi. Các đặc trưng của không gian điện tử làm giảm một số chênh lệch về quyền lực giữa các chủ thể, do đó cung cấp một ví dụ rất hay về sự phân tán quyền lực vốn điển hình cho chính trị toàn cầu trong thế kỷ này. Các cường quốc lớn nhất khó có khả năng thống trị lĩnh vực này như thống trị các lĩnh vực khác, chẳng hạn đường biển hay đường không. Nhưng không gian điện tử cũng chứng tỏ rằng phân tán quyền lực không đồng nghĩa với cân bằng quyền lực hay thay thế các chính phủ trong vai trò chủ thể quyền lực nhất trên chính trường thế giới. Ngay cả các Tiểu Vương quốc Ả-rập Thống nhất nhỏ bé cũng đã ép buộc được nhà sản xuất điện thoại BlackBerry thỏa hiệp. “Research in Motion* đang học được bài học mà các công ty khác trước đây đã học. Năm 2000, Yahoo thất bại trong nỗ lực duy trì diễn đàn bán đồ lưu niệm Đức Quốc Xã ở Pháp, và trong những năm gần đây, Google liên tục nỗ lực nhằm mang đến những kết quả tìm kiếm không bị kiểm duyệt ở Trung Quốc; từ hai sự kiện này, ta thấy không nhà cung cấp dịch vụ thông tin nào được miễn khỏi quyền lực của nhà nước. Rủi ro quá cao nên chính phủ không thể chỉ nhường sân cho các lợi ích riêng”86. Nhưng mặc dù các công ty có động cơ khích lệ để tuân thủ luật, những chủ thể phi nhà nước khác như tội phạm và khủng bố vẫn không bị ràng buộc như vậy.
* Tên công ty sản xuất điện thoại BlackBerry.
Mặc dù không gian điện tử có thể tạo ra một số chuyển dịch quyền lực giữa các nhà nước bằng cách mở ra các cơ hội hạn hẹp để các nhà nước nhỏ nhảy vọt bằng chiến tranh bất đối xứng, khó có khả năng đây sẽ là yếu tố thay đổi cuộc chơi trong các chuyển tiếp quyền lực mà ta sẽ nói đến ở chương tiếp theo. Tuy nhiên, trong khi, vẫn để các chính phủ làm các chủ thể mạnh nhất, lĩnh vực điện tử có khả năng sẽ chứng kiến sự gia tăng phân tán quyền lực đến chủ thể phi nhà nước và chứng kiến vai trò trọng tâm của mạng như một khía cạnh then chốt của quyền lực trong thế kỷ XXI.