Mãi hơn một giờ chiều, chúng tôi mới về tới ấp Trường Thọ, xã Trường Xuân, huyện Thới Lai (Cần Thơ). Cô út, em vợ ông Năm Chữ, vừa từ trong bếp chui ra. Nhìn mấy anh em, gương mặt út sáng lên rạng rỡ, gọi rối rít: “Anh Năm về nè má! Giờ quá chiều rồi! Cả nhà chờ anh Năm hoài à”. “Thằng Năm đâu? Tội nghiệp!”.
Giọng một cụ bà chậm chạp vẳng ra từ phía trong...
Má Năm có chồng ra Bắc tập kết từ năm 1954. Khi ấy, má mới gần 30 tuổi, ở lại miền Nam với hai cô con gái. Thời đó, gia đình có người thân tập kết miền Bắc mặc nhiên bị quy là cộng sản. Mà đã thân cộng sản, sống trong vùng địch tạm chiếm thì chết nghẹt trong kìm kẹp. Suốt năm, suốt tháng, hết ấp trưởng rồi lính bảo an, dân vệ o ép, quản thúc hành cho thân tàn ma dại. Má Năm và má đẻ ông Năm Chữ (cũng bị coi là thành phần cộng sản) là hai chị em cùng cảnh ngộ thân thiết từ lâu. Cả hai thường bị địch bắt vô tù như cơm bữa. Bất kể trong ấp có chuyện gì xảy ra, từ vài người dân tụ tập biểu tình đến các cuộc tập kích nhỏ lẻ của du kích đánh vào đồn địch hay trật tự trị an ở ấp có chuyện, là các má lại bị bắt vô đồn. Mà đã vô đồn thì chúng tra tấn, hành hạ khổ sở. Năm Chữ và cô Hai nhà má Năm sau năm 1975 trở thành vợ chồng cũng có gốc rễ sâu xa từ tình thương của hai bà má thuở ấy...
Con kênh trước nhà má Năm đang mùa nước nổi, thuyền bè qua lại khá tấp nập. Lâu lắm rồi, dễ phải ngót nghét 20 năm tôi mới có dịp trở lại miền Tây. Vào dịp này, ông Năm Chữ bảo: “Bà con ở các ấp bắt đầu thu hoạch hải sản, thóc gạo, hoa quả tươi chất lên xuồng mang về chợ nổi Cái Răng bán”. Nhìn những chiếc xuồng to có, nhỏ có đầy ắp hàng hóa, nổ máy inh ỏi lướt nhanh trên mặt các con kênh, rạch chằng chịt dọc ngang ở vùng đất trù phú này, tự dưng trong tôi dấy lên một tình cảm đặc biệt...
Thiếu tướng, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Minh Chữ. Ảnh do nhân vật cung cấp.
Từ nhà má Năm tới nhà ông Năm Chữ chỉ độ hai cây số rưỡi. Ở trước ngôi nhà cấp bốn, nơi ông sinh ra, nhìn về phía kênh Ông Tám (kênh Ngàn Ba Tám Thuận), ông Chữ kể: “Con kênh này nhiều lần cứu sống tôi. Nhớ nhất vào năm 1961-1962 gì đó, tôi vừa ra khỏi nhà, đang trên đường đến nơi tập trung đội du kích thì bỗng trên đầu hai chiếc trực thăng gào rú lao tới. Hoảng quá, tôi nhảy đại xuống bờ kênh cứ thế ép mình vào bờ chạy. Tụi Mỹ rượt tôi suốt từ sáng tới chiều, thế mà kỳ lạ thay tôi lại thoát chết. Khi về tới nhà, ba má tôi như người mất hồn”. Ông Mười Đáng, một cựu du kích thời những năm 60, một tay súng bắn tỉa khét tiếng, từng làm cho đám bảo an, dân vệ khắp vùng nghe đến tên đã khiếp đảm. Gặp chúng tôi trong căn nhà sơ sài bên con rạch ngầu nước phù sa, ông luôn miệng xuýt xoa: “Trời đất, thằng Năm về hồi nào vậy? Mừng quá mừng! Hồi đó nó vô du kích bé bằng từng này này. Chút xíu vậy mà gan lì hổng có sợ chi hết”.
Vào du kích được ba năm, đến đầu năm 1964, Năm Chữ được huyện đội gọi lên tập trung. “Hồi ấy có biết chi đâu, huyện tập trung số du kích trẻ rồi nửa đêm cả đoàn lần theo kênh rạch mà đi, mấy ngày sau đến nơi tập kết mới biết mình biên chế vào Tiểu đoàn Tây Đô-bộ đội chủ lực tỉnh. Đánh nhau dăm trận, cuối năm 1964, cả tiểu đoàn hành quân lên miền Đông Nam Bộ, chính thức gia nhập bộ đội chủ lực miền, thuộc Trung đoàn 2, Sư đoàn 9”-ông Năm Chữ kể-“Vừa chân ướt chân ráo vào chủ lực đã đụng đầu ngay tụi Mỹ. Mới đánh nhau ở Lai Khê, Đất Cuốc xong thì cả sư đoàn mở trận tập kích vào lính Mỹ đóng dã ngoại ở Bầu Bàng. Hồi đó, tôi là y tá Đại đội 8, Tiểu đoàn 5, trận đánh kéo dài đến hơn ba giờ, lính Mỹ bị tập kích bất ngờ không kịp trở tay, tháo chạy tán loạn, chết chồng chất lên nhau. Bên ta cũng thương vong vô kể. Nhưng đây là trận đánh Mỹ đầu tiên của chúng tôi ở chiến trường Đông Nam Bộ, cũng là đòn chiến thắng phủ đầu. Nó làm cho lính Mỹ hoang mang và quân ta được khích lệ tinh thần, không sợ chi Mỹ và đánh thắng Mỹ”.
Suốt những năm 1965 đến 1975, trong cuộc đời chiến trận của mình, ông Năm Chữ bảo không thể nhớ hết bao nhiêu trận đánh, chỉ biết quần nhau với địch tối ngày. Bị thương, vào bệnh xá chữa trị rồi ra đánh tiếp, ăn xong chưa kịp nghỉ đã có lệnh xuất kích, vừa chợp mắt đã bật dậy nhao vô chiến hào, suốt ngày mù mịt trong lửa đạn. Mà đánh giặc miết rồi cũng thành quen, cũng giống như đi cày ruộng, có lúc nào rảnh tay chân đâu. Những năm 1966-1967 và nhất là sau Mậu Thân 1968, Mỹ điên cuồng huy động lực lượng lớn đánh vào các căn cứ của quân ta. Cơ sở cách mạng và bộ đội địa phương bị tổn thất lớn phải dạt lên biên giới, nhiều vùng ta giải phóng trước đây bị địch chiếm lại. Có thể nói, đó là thời kỳ gian khổ ác liệt vô cùng. Quân ta gặp khó khăn, thương vong nặng nề, thiếu thốn đủ thứ, bữa ăn toàn củ sắn, củ chụp, quả rừng thay cơm mà vẫn quần nhau với địch cả ngày... “Tôi nhớ nhất là trận đánh vào đồn Karapao bên Campuchia. Vào khoảng đầu năm 1970, Mỹ bắt tay với quân Lon Non lật đổ Xihanúc. Sau đó, chúng huy động hàng vạn quân sang Campuchia tiến công sâu vào vùng biên giới. Mục đích của Mỹ là tiêu diệt khối cơ quan đầu não kháng chiến của ta ở miền Nam và khối bộ đội chủ lực miền”-ông Chữ cho biết. Về trận đánh này, lịch sử Sư đoàn 9 ghi: “Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ở Trung đoàn 2 có anh hùng Nguyễn Minh Chữ (sau này là Thiếu tướng, Phó tư lệnh Quân khu 9), bị thương nặng vẫn không rời trận địa. Trong trận đánh Tà Xia tháng 3-1970, Nguyễn Minh Chữ được giao làm Trung đội trưởng kiêm y tá đại đội. Khi đơn vị đang tiếp cận trận địa thì bị lộ, địch bắn ra dữ dội, hai trung đội lạc đường, đồng chí Chữ đã băng qua hỏa lực địch, tìm và đưa hai bộ phận bị lạc về đội hình chiến đấu kịp thời. Nguyễn Minh Chữ chỉ huy nhanh nhẹn, dũng cảm, vừa tiêu diệt địch, vừa băng bó, cấp cứu cho đồng đội. Trận đánh kết thúc, địch trút pháo như mưa xuống trận địa, đồng chí xung phong ở lại tìm kiếm, băng bó, lần lượt chuyển toàn bộ thương binh ra nơi an toàn, đưa được cả súng của thương binh về đơn vị...”.
Ngày 19-5-1972, Năm Chữ được tuyên dương Anh hùng LLVT nhân dân. Ông bảo: “Lúc đó thật nhiều cảm xúc nhưng đánh nhau miết, còn thời gian đâu nữa!”. Năm Chữ là vậy, mọi vinh quang và cay đắng cũng thoáng đi qua, cũng bình thản và lì lợm như khi đứng trước họng súng quân thù, không ồn ào khoa trương, cũng không dễ dàng khuất phục. Những người từng là đồng đội, đồng chí với ông có chung nhận xét: Lì lợm mà linh hoạt, táo bạo mà cẩn trọng, quyết đoán, nói và làm, dám chịu trách nhiệm...
Sau này, khi ông lên chỉ huy trung đoàn, rồi phụ trách những chức vụ cao hơn, tính cách người lính trận trong ông năm xưa vẫn không thay đổi. Anh em ở Quân đoàn 4 kể, hồi đơn vị mới từ Campuchia về, bao nhiêu đất đai trước đây được địa phương giao cho quân đoàn để sản xuất cải thiện đời sống, khi đi nhờ địa phương quản lý giúp, đều bị dân chiếm hết. Quân đoàn mất bao công sức, tìm đủ cách vào dân đòi đất nhưng không thành. Nhiều vùng công giáo quá khích còn dùng cả vũ khí, gậy gộc đánh bộ đội. Vậy là Năm Chữ một mình với lái xe đến tận vùng căng thẳng nhất, kiên trì thuyết phục nhân dân, cuối cùng, toàn bộ đất đai quân đoàn thu lại được hết mà không xảy ra phiền phức hay chống đối nào. Thế mới biết, với kẻ thù là một chuyện, còn với dân, những người từng sẻ chia miếng cơm manh áo, thậm chí cả máu và nước mắt với mình thì dù họ sai cũng không thể cậy quyền mà cứng nhắc, bất chấp đạo lý làm người...
Chính vì có tấm lòng chân thành, tin dân và nghe dân mà Năm Chữ được dân trọng, dân thương. Một lần, do đóng quân ở nhiều vùng khác nhau, bộ đội đau ốm thường phải gửi đi điều trị ở tuyến trên. Và cũng nhân chuyện một đại gia ở Bình Dương, vì yêu mến Năm Chữ đã năm lần bảy lượt đề nghị đến quân đoàn tặng riêng ông số tiền 4 tỷ đồng. Năm Chữ đưa chuyện này ra Bộ tư lệnh, chuyển toàn bộ số tiền trên vào xây bệnh viện cho quân đoàn. Hồi ấy, việc xây bệnh viện tốn kém. Cũng may được nhiều đơn vị ủng hộ nên chỉ một thời gian sau, bệnh viện khánh thành đi vào sử dụng hiệu quả. Thế nhưng cũng có người bảo ông là ngang, tự tiện xây bệnh viện không báo cáo cấp trên. Cũng như việc trồng cao su. Quân đoàn có nhiều đất chưa sử dụng đến, đời sống bộ đội còn khó khăn. Ông bàn với anh em không xin tiền ngân sách, quân đội cũng không cấp cho đồng nào, nhưng quân đoàn có cách làm hiệu quả. Cứ mỗi lô cao su trồng xuống, khoảng đất giữa các lô bỏ không, quân đoàn cho bà con nông dân tận dụng canh tác và khoán luôn cho họ quản lý, chăm sóc. Dân có đất canh tác thì mừng hết nói. Họ bỏ công sức vừa trồng hoa màu thu hoạch, vừa chăm bón cao su cho quân đoàn. Vì vậy, giá thành 1 héc-ta cao su quân đoàn trồng chỉ bằng 1/10 giá thành của các đơn vị cùng trồng cao su vào thời điểm đó. Một cán bộ ở Quân đoàn 4 bình luận về việc này: “Không kêu ca, không chạy chọt xin xỏ, không tham ô, lãng phí và cũng không thể tiết kiệm hơn...”. Đây là một việc làm có ý nghĩa lớn và cũng là vốn liếng, là tài sản lớn nhất mà quân đoàn có được từ sau thống nhất đất nước...
Ông Năm Chữ về hưu đã ngót chục năm mà đến đâu cũng huynh đệ củ nằn một lòng cốt tử. Về quê thì bạn già du kích sống chết thuở ấu thơ. Ở Cần Thơ, đồng đội nhường cơm sẻ áo thời bom rơi đạn lửa, xóm làng khu phố lại quây quần bạn hữu chiến binh một thời gối đất nằm sương. Họ ngồi với nhau, quần tụ bên nhau uống dăm chum rượu với vài món nhậu sơ sài, sống thanh thản, bình yên ấy cũng là phúc lộc tuổi già với ông vậy...
Thiếu tướng, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Minh Chữ (tức Năm Chữ) sinh năm 1946; nguyên quán: Xã Trường Xuân, huyện Thới Lai (Cần Thơ). Ông tham gia cách mạng từ năm 1960. Từ năm 1960 đến năm 1975, ông chiến đấu trong đội hình Sư đoàn 9, Bộ CHQS Miền. Ông được phong danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân năm 1972. Ông từng đảm nhiệm các chức vụ: Phó tư lệnh về chính trị Quân đoàn 4; Phó tư lệnh Quân khu 9; đại biểu Quốc hội khóa XI thuộc Đoàn đại biểu Trà Vinh.
TRẦN ANH THÁI