Booker T. Washington (1856-1915) là một người Mỹ da đen sinh ra trong một gia đình nô lệ. Thuở nhỏ, Washington không được đi học nhưng về sau, ông lại trở thành nhà giáo dục gốc da đen ưu tú nhất hồi đầu thế kỷ 20. Ông là hiệu trưởng đầu tiên của Tuskegee Institute - một trường học dành cho người da đen. Ông còn là tác giả, và là cố vấn về các vấn đề sắc tộc cho hai vị tổng thống Mỹ, Theodore Roosevelt và William Taft. Trong đoạn trích dưới đây, Washington thuật lại câu chuyện về quyết tâm học tập thành tài của mình. Đó cũng chính là yếu tố giúp ông bước chân vào được Học viện Hampton ở bang Virginia.
Một ngày nọ, khi đang làm việc trong mỏ than, tôi tình cờ nghe hai người thợ mỏ bàn về một ngôi trường dành cho người da màu ở bang Virginia. Đây là lần đầu tôi được nghe về một nơi có vẻ là một trường học thật sự so với ngôi trường nhỏ dành cho trẻ da màu ở khu phố của tôi.
Trong cái mỏ than tối tăm ấy, tôi cố gắng tiến lại gần hai người đang trò chuyện kia. Một trong số họ bảo rằng ngôi trường ấy được xây dựng để cho những người da màu và những sinh viên nghèo theo học.
Lúc họ mô tả ngôi trường, tôi mường tượng ra nó là nơi tuyệt vời nhất trên thế giới này. Thậm chí thiên đường cũng chẳng cuốn hút tôi bằng cái nơi mà hai người kia gọi là Học viện Nông nghiệp Hampton ở bang Virginia. Tôi bỗng khao khát được theo học ở học viện đó dù vẫn chưa biết nó nằm ở đâu hay làm sao để được nhận vào học. Tôi chỉ nhớ mình đã nung nấu một quyết tâm phải được vào học tại Học viện Hampton bằng mọi giá. Suy nghĩ đó không ngừng ám ảnh tôi, bất kể ngày đêm.
Sau hôm đó, tôi tiếp tục làm việc ở mỏ than thêm vài tháng nữa. Một hôm trong lúc làm việc, tôi nghe mọi người bàn tán về một vị trí đang bỏ trống tại nhà của ông Lewis Ruffner – chủ xưởng muối và mỏ than. Bà Ruffner nổi tiếng trong vùng về sự hà khắc đối với đày tớ trong nhà nên rất ít người ở được với bà. Thế là tôi quyết định sẽ đến làm việc tại nhà bà Ruffner thay vì ở mỏ than và mẹ đã xin cho tôi vào vị trí còn trống ấy. Tôi được trả năm đô la mỗi tháng.
Tôi đã nghe khá nhiều về sự cay nghiệt của bà Ruffner nên rất lo lắng khi đến gặp bà. Nhưng một thời gian ngắn sau, tôi đã bắt đầu hiểu được bà Ruffner. Tôi nhận ra rằng bà muốn mọi thứ phải thật sạch sẽ và công việc phải được giải quyết nhanh gọn. Trên hết, bà đòi hỏi người làm phải chân thật, không được lười biếng và cẩu thả.
Tôi không nhớ mình đã làm việc tại trang trại bao lâu trước khi đến Hampton nhưng một điều chắc chắn rằng đó thật sự là quãng thời gian hữu ích với tôi. Những năm tháng làm việc cho bà Ruffner đáng giá hơn bất cứ sự giáo dục nào mà tôi đã nhận được tính cho đến thời điểm đó. Tới tận bây giờ, mỗi khi thấy mẩu giấy nào vứt bừa bãi trong nhà hay ngoài phố, tôi đều muốn nhặt chúng lên. Không khi nào thấy cái sân lấm lem mà tôi không quét, không cái hàng rào nào đổ mà tôi không muốn dựng lại và cũng không ngôi nhà nào chưa sơn hay quét vôi mà tôi không muốn sơn sửa lại. Tôi còn chú ý tới những chi tiết nhỏ nhặt như những chiếc cúc áo bị rơi hay vết dầu mỡ trên quần áo hoặc sàn nhà.
Từ cảm giác sợ sệt ban đầu, tôi dần chuyển sang coi bà Ruffner như một trong những người thân nhất của mình. Khi biết tôi là người có thể tin tưởng được, bà đã đặt hoàn toàn niềm tin vào tôi. Bà tạo điều kiện cho tôi đi học mỗi ngày một giờ suốt những mùa đông tôi ở với gia đình bà. Phần lớn thời gian học của tôi là vào ban đêm, tự mày mò hoặc nhờ ai đó dạy mình trong khả năng cho phép. Bà Ruffner luôn cảm thông và động viên tôi cố gắng học tập. Chính bà cũng là người giúp tôi biết đến thư viện đầu tiên trong đời. Tôi giữ lại một cái thùng đựng hàng, tháo một mặt của nó ra và chia bên trong thành nhiều ngăn rồi đặt vào đó những cuốn sách mà mình có được. Đó chính là “thư viện” của tôi.
Tuy cuộc sống ở nhà bà Ruffner diễn ra khá suôn sẻ nhưng tôi vẫn không từ bỏ ý định tới Học viện Hampton. Mùa thu năm 1872, tôi dự định thử đến đó một lần xem sao. Nhưng như đã nói, tôi không hề biết Hampton là nơi nào và phải tốn bao nhiêu tiền để tới được đó. Không ai ủng hộ mong muốn đó của tôi, ngoại trừ mẹ. Tuy vậy, bà cũng rất lo lắng về chuyến đi hão huyền này của tôi. Tuy không nhận được sự đồng ý tuyệt đối từ mẹ nhưng tôi vẫn quyết định lên đường. Cha dượng và những người khác trong gia đình đã tiêu gần hết số tiền ít ỏi tôi kiếm được, chỉ còn vài đô la để tôi mua quần áo và trang trải phí tàu xe. Anh John cũng giúp tôi hết sức trong khả năng anh ấy. Nhưng thật tình mà nói, với số tiền lương ít ỏi (mà đa phần được dùng để chi cho các khoản trong gia đình), số tiền anh giúp tôi chẳng thấm tháp vào đâu.
Có lẽ điều khiến tôi cảm động và dễ chịu nhất trong chuyến hành trình đến Hampton chính là sự thích thú của những người lớn tuổi. Họ chưa từng nghĩ đến việc có ai đó thuộc tầng lớp của mình sẽ được học tại ngôi trường nào đó. Chính vì vậy, họ rất vui mừng trước chuyến đi của tôi. Họ cho tôi những đồng năm xu, hai mươi lăm xu và có người lại cho tôi cả cái khăn choàng cổ của họ.
Ngày tuyệt vời ấy cuối cùng cũng đến, tôi khởi hành đi Hampton mà chỉ mang theo một cái cặp nhỏ đựng vài bộ quần áo. Lúc ấy, sức khỏe mẹ tôi đã khá yếu. Tôi không có hy vọng được gặp lại bà sau chuyến đi nên cuộc chia tay của chúng tôi trở nên buồn bã hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, phải thừa nhận mẹ là người dũng cảm nhất mà tôi được biết. Thời điểm đó không có tàu hỏa chạy suốt từ Tây Virginia tới Đông Virginia. Xe lửa chỉ chạy một đoạn, phần còn lại phải đi bằng xe ngựa.
Hết đi bộ, tôi chuyển sang đi nhờ trên xe ngựa hoặc ô tô. Vài ngày sau, tôi tới được thành phố Richmond, Virginia, cách Hampton khoảng tám mươi hai dặm. Tôi đến đó vào ban đêm trong tình trạng mệt mỏi, đói lả và bẩn thỉu. Tôi chưa bao giờ đến một thành phố lớn và điều đó càng khiến tôi cảm thấy mình nghèo khổ hơn. Lúc tới Richmond, tôi chẳng còn xu nào dính túi. Không người quen cũng không thạo đường sá nên tôi chẳng biết phải đi đâu. Tôi đến vài nơi xin trú tạm nhưng họ đều đòi tiền trọ trong khi tôi lại không có. Chẳng biết phải làm gì, tôi lang thang khắp mọi nẻo đường, ngang qua rất nhiều quầy thức ăn với gà rán và bánh táo trông thật hấp dẫn. Tất cả những gì tôi ao ước lúc đó chỉ là một cái đùi gà hoặc một miếng bánh táo. Nhưng không có bất kỳ thứ gì cả, đùi gà không, bánh táo cũng không.
Tôi lang thang tới tận nửa đêm và cuối cùng thì kiệt sức không thể bước tiếp nữa. Tôi đói lả và thật sự nản chí. Ngay lúc gần như kiệt sức hoàn toàn thì tôi nhận ra mình dừng lại một vỉa hè cao cao. Tôi lấy túi quần áo ra làm gối và nằm bệt xuống nền đất để ngủ. Đêm ấy, tôi vẫn mơ màng nghe thấy những tiếng bước chân đi qua đầu mình. Sáng sớm hôm sau, tôi cảm thấy tươi tỉnh hơn đôi chút dù vẫn rất đói. Khi trời sáng hẳn, tôi nhận ra mình đang đứng gần một con thuyền lớn và mọi người đang bốc dỡ hàng hóa trên nó. Tôi tiến về phía chiếc thuyền, xin thuyền trưởng cho được phụ bốc dỡ hàng hóa để có tiền mua thức ăn. Chủ tàu - một người da trắng tốt bụng - đã đồng ý cho tôi được làm cùng mọi người. Tôi làm việc hồi lâu, kiếm một bữa sáng và đến bây giờ, tôi vẫn nhớ đó là bữa ăn ngon lành nhất mà tôi từng có. Thấy tôi làm việc khá tốt, thuyền trưởng gợi ý nếu muốn thì tôi có thể làm ở đây mỗi ngày vài giờ. Tất nhiên là tôi rất vui mừng về điều đó. Dù làm việc trên con tàu ấy nhiều ngày nhưng sau khi mua thức ăn, số tiền còn lại dĩ nhiên không đủ để tôi đi tới Hampton ngay lập tức. Để tiết kiệm tiền, tôi tiếp tục ngủ ở vỉa hè nơi mình đã nương náu đêm đầu tiên tại Richmond. Một thời gian sau, những người da màu ở Richmond ngỏ ý muốn đón nhận tôi vào cộng đồng của họ. Buổi đón tiếp ấy cũng gợi cho tôi cảm giác thân thiện như đối với vỉa hè chỗ tôi ngủ vậy, và phải thừa nhận rằng tình cảm tôi dành cho cái vỉa hè cũng như cho buổi kết nạp ấy cũng thật chân thành.
Khi đã kiếm đủ tiền, tôi cảm ơn chủ tàu vì lòng tốt ông đã dành cho tôi và khởi hành lần thứ hai. Chuyến đi đó không có gì bất trắc và tôi đã đến được Hampton, còn dư năm mươi xu. Đối với tôi đó quả là một cuộc hành trình dài và có nhiều sự kiện xảy ra. Nhưng sau tất cả những gì đã trải qua, việc đến được Hampton và nhìn thấy ngôi trường ba tầng xây bằng gạch chính là phần thưởng lớn lao nhất đối với tôi.
- Booker T. Washington