Bước vào tháng Mười hai, mặc dù là ở phương Nam nhưng bãi bồi Hoa Tây vẫn mang theo vẻ đìu hiu vắng lặng của mùa đông. Sau khi những chiếc lá tùng bách rơi xuống phủ đầy mặt đất, tạo thành một tấm thảm vàng xanh rực rỡ, trải qua một đêm, mấy cái cây hệt như biến thành những gã trần truồng, gắng gượng đung đưa những cành khẳng khiu chỉ còn sót lại vài phiến lá vàng khô héo. Những cành cây trơ trọi biến thành những cọng chổi giương cao, vừa gầy guộc vừa xấu xí. Dế mèn đã thôi hát ca, chẳng biết chúng có tìm được hang động ấm áp nào để trú ẩn trong mùa đông giá lạnh này không. Sáng sớm ra khỏi nhà, cả bầu trời và mặt đất cùng phủ một màu xám bạc, há miệng hà hơi phù một cái, làn hơi trắng bay ra, nếu nhanh tay xuyên qua đám hơi trắng ấy, không chừng lòng bàn tay còn cảm nhận được hơi ấm còn sót lại nữa.
Cuối năm nay, tình hình đánh trận nơi tiền tuyến không mấy lạc quan. Quân Nhật đổ bộ bằng đường biển vào đánh chiếm Quảng Châu, nghe nói, cả một thành phố lớn chìm trong biển lửa, thương vong vô số. Mà ở Trường Sa14 thì quân mình lại phóng lửa đốt thành, sử dụng chiến thuật “tiêu thổ”. Để ổn định lòng dân lòng quân, Ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch phát biểu “Thư thông cáo quân và dân toàn quốc về việc Vũ Hán rút lui”, tuyên thệ quân và dân toàn quốc đồng lòng kháng chiến, quyết không đầu hàng.
14. Tên một thành phố thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc.
Chị tôi, Thư Nhã, khi ấy có viết một bài văn, tôi nhớ nó tên là “Mùa đông trên thiên đường”, được đăng trên tập san của trường trung học, chị mang về cho chúng tôi xem. Câu mở bài là: “Bãi bồi Hoa Tây cũng có mùa đông... người sống ở trần gian và địa ngục sẽ luôn tưởng tượng thiên đường đầm ấm và dễ chịu biết bao, đó là nơi mang theo sự nghiêm trang và hòa bình, là nơi được tự do cất tiếng ca, không còn nỗi sợ, không còn nghèo túng, không còn phong ba bão táp, đó là quê cha đất mẹ nơi Thượng Đế yêu thương những đứa trẻ... nếu như họ tưởng tượng như vậy, tôi phải thừa nhận, họ mới là những người hạnh phúc, thứ họ tưởng tượng ra trong đầu là một thiên đường còn đẹp hơn cả thiên đường. Tôi sẽ nói, những người biết tưởng tượng quả có phúc...”
Cha ngậm tẩu thuốc nghiền ngẫm từng câu chữ của bài văn, ông xem xong, suy nghĩ một hồi rồi nói: “Không tệ, có suy xét, cũng có biện chứng, đây là điểm tiến bộ.“ Nhưng cha cũng nói thêm: “Điều không hay là văn phong quá bi quan, Trung Quốc vẫn chưa mất nước, chúng ta vẫn đang kháng chiến. Trước khi nổ ra chiến tranh, quân Nhật cuồng vọng nói với Thiên Hoàng rằng, chỉ cần ba tháng chúng sẽ chiếm lĩnh được Trung Quốc, hiện giờ đã qua cái mốc ba tháng kia bao lâu rồi? Một năm lẻ ba tháng rồi! Chúng chiếm được Trung Quốc chưa? Bãi bồi Hoa Tây của chúng ta chẳng phải vẫn đi học, diễn kịch, nghe kể chuyện bình thường đấy sao?“ Cha gõ tẩu thuốc, chỉ vào từng đứa trẻ chúng tôi: “Hy vọng của Trung Quốc đặt trên người các con, không có thiên đường thì chúng ta xây nên thiên đường, các con cứ việc đi học, đọc sách, hưởng thụ tuổi ấu thơ, học lấy tri thức, bản lĩnh. Nhớ kỹ, nếu một ngày nào đó kháng chiến thắng lợi, vậy thì việc xây dựng lại Trung Quốc sẽ dựa vào các con.“
Anh Khắc Tuấn không hoàn toàn đồng ý với lời của cha, anh nói: Đọc sách quan trọng, thế nhưng với tình hình trước mắt, kháng chiến còn quan trọng hơn. Đầu tiên, học sinh của bãi bồi Hoa Tây phải là những đứa trẻ mang đầy nhiệt huyết, sau đó được tham gia đánh trận, là mong muốn duy nhất của anh. Chị Thư Nhã châm biếm anh, anh tòng quân ư? Bộ đội nhi đồng à? Anh trả lời, con người ta sẽ trưởng thành thôi. Chị lại bảo, đến lúc anh trưởng thành thì chiến tranh đã kết thúc từ lâu rồi. Anh hỏi ngược lại, kết thúc là ý gì? Là mất nước, hay là thắng lợi?
Cha híp mắt cười nhìn chúng tôi cãi nhau. Theo lời ông, đạo lý là phải càng tranh luận mới càng sáng tỏ.
Thế nhưng, bao giờ chúng tôi mới lớn được nhỉ? Trước giờ, tôi vẫn luôn cảm thấy ngày đó quá xa xôi, xa đến nỗi tôi nhón chân cũng không thấy được, hơn nữa, tôi cũng chưa tưởng tượng được mất nước là như thế nào, mà thắng lợi thì sẽ ra sao. Năm tôi khoảng mười tuổi, cơ thể cao lớn, chân tay dài ngoằng, gầy trơ xương, da dẻ đen sạm thô ráp. Từ sáng tới tối, lúc nào bụng cũng đói meo, chỉ mong được ăn thật nhiều thịt cá, thật nhiều đồ ăn vặt, nếu không có thì uống một bát nước đường đỏ cũng khiến tôi sung sướng biết bao. Tôi thừa nhận, tôi còn lâu mới ưu tú được như anh chị mình, sợ rằng tôi sẽ phụ lòng mong mỏi của cha mất thôi, không chừng đợi đến ngày “xây dựng Trung Quốc”, tôi còn là đứa con gái ngốc tăng thêm gánh nặng cho mọi người đấy.
Thế nhưng, Thẩm Thiên Lộ cũng là một người trước nay chưa bao giờ tham dự vào những cuộc thảo luận liên quan đến thời cục và tương lai, anh ấy luôn lẳng lặng học bài, miệng lầm rà lầm rầm học thuộc tiếng Anh, bận rộn từ sáng sớm tới tối mịt để đối phó với kỳ thi, trừ mẹ tôi, chẳng ai có thể kéo anh ấy ra khỏi đống bài tập cả. Mẹ tôi khen anh ấy biết cầu tiến, có quyết tâm “có công mài sắt có ngày nên kim”. Mẹ còn nói thêm, trong gia đình chúng tôi, anh ấy nhất định là viên gạch vụn xây tường, sẽ nhanh chóng vượt qua chúng tôi, không tin chúng tôi cứ chờ mà xem. Chúng tôi đều hiểu rằng mẹ nói vậy là để anh ấy yên tâm, với nền tảng của anh ấy, muốn đuổi kịp anh chị tôi không phải chuyện nói miệng là xong đâu.
Chớp mắt đã sắp đến lễ Giáng Sinh, trường học trên bãi bồi Hoa Tây đều là trường đại học Công giáo, lễ Giáng Sinh là ngày lễ quan trọng bậc nhất. Lúc trước, “Lễ hội cứu trợ mùa đông” đã được tổ chức rất thành công, cả người của nhà trường lẫn người bên ngoài đều vô cùng hứng khởi, nhiệt huyết bừng bừng. Lúc lễ Giáng Sinh đến, những người hoạt động xã hội tích cực càng nóng lòng muốn thử xem sao, các trường học đều muốn mượn dịp Giáng Sinh này để so tài.
Đương nhiên, tiết mục chủ chốt của trường Đại học Hoa Tây là hát thanh xướng15 kịch Messiah của George Frideric Handel, họ gần như đã bắt đầu luyện tập từ nửa năm trước, bác Phạm Mã Lệ tự mình phụ trách phần đệm đàn piano, chỉ huy hợp ca là cô Cách Thụy Phù (Grace) khoa Âm nhạc. Tôi cũng không biết tại sao mọi người lại gọi cô là “cô” nữa, bởi vì thật ra cô là một bà cụ tóc bạc phơ, vóc người bé xíu, nét mặt hiền từ, ánh mắt sắc bén, lúc nào tóc cũng búi tó gọn gàng sau gáy, cô mặc xường xám Trung Quốc màu chàm, lưng thẳng như cán bút đi tới đi lui trong sân trường. Còn giọng nữ cao đảm nhiệm vị trí lĩnh xướng là vợ của giáo sư Mai ở tầng dưới, bác ấy có mái tóc xoăn, mặc chiếc váy kiểu tây, vóc người to lớn, dáng đi giống hệt con gà Ireland lông đỏ của nhà họ, đều là cái dáng hùng hồn, mắt nhìn thẳng phía trước. Có lần, tôi nghe thấy bác ấy hát khúc ca tha hương: “Quê hương tôi ở bên bờ sông Tùng Hoa Đông Bắc...” bác ấy vừa cất tiếng hát, âm sắc mĩ miều như ngân đi ngân lại hàng trăm, nghìn lần, người sống ở tầng trên tầng dưới đều im lìm, đất trời dường như cũng trở nên ảm đạm, bi thương.
15. Hát thanh xướng: hay còn gọi là hát oratorio, là kiểu hát cổ điển quy mô lớn viết cho dàn nhạc giao hưởng, ca sĩ solo và dàn hợp xướng. Oratorio thường dùng để miêu tả một câu chuyện kịch nhưng khác với một vở opera là nó không có các hành động kịch, không dùng phục trang biểu diễn và trang trí sân khấu. Oratorio là kịch bằng âm nhạc, dùng hát có nhạc đệm để kể lại những câu chuyện.
Như thường lệ, Đại học Tề Lỗ lựa chọn tập luyện vở Kinh kịch truyền thống là “Pháp Môn Tự” và “Thăm Mẫu Ngồi Cung”. Mỗi lần họ tập, các diễn viên đều tập trung hát xướng từng câu từng chữ, cộng thêm cả đàn nhị hồ, chiêng trống, chũm chọe đủ loại, cạch cạch, chan chát náo nhiệt vô cùng. Người xem diễn đông như trẩy hội, còn náo nhiệt hơn cả buổi diễn chính nhiều. Tôi từng cùng đi xem với chị một lần rồi, vừa khéo xem đúng vở “Tô Vũ chăn dê”, diễn viên ngâm nga:“Mẹ già tóc bạc, ngóng trông con về... canh ba nằm mơ, hai bên đầu ai đang mơ ai...” Bên dưới bục, rất nhiều sinh viên ngâm nga hát theo, tiếng hát đau xót, nức nở nghẹn ngào.
Đại học Nữ sinh Kim Lăng diễn bài “Mặt trời mọc” của ông Tào Ngu, nghe nói họ đã mời đạo diễn hí kịch nổi tiếng của Trùng Khánh về làm giám chế, từ trang phục đến bối cảnh đều chăm chút vô cùng tỉ mỉ. Sinh viên trường Đại học Nữ sinh Kim Lăng trước giờ luôn rất kiêu ngạo, lúc tập luyện cứ che che giấu giấu không để cho người ta xem, khiến người ta lòng nóng như lửa đốt, chỉ mong sau một đêm ngủ dậy sẽ được nhìn thấy tấm áp phích dán lên tường.
Mặc dù anh chị tôi chỉ là học sinh trung học, nhưng cũng không cam tâm bị bỏ lại phía sau. Hơn nữa, đã làm là phải làm lớn, họ lựa chọn diễn vở “Giấc mộng đêm hè” của William Shakespeare. Bởi vì nội dung tình tiết của vở kịch này rất kỳ lạ, ca từ hoa mỹ, vừa có yêu tinh vừa có tiên nữ, lại còn sôi động náo nhiệt, phù hợp với thị hiếu của học sinh trung học. Anh tôi đã tự mình đảm đương, bỏ đi những đoạn đối thoại rườm rà, nặng nề của kịch bản, còn bỏ cả rất nhiều phân đoạn mà anh cho là “sến sẩm” như yêu nhau này, hôn nhau này, khiến cho vở kịch thiên về mộng ảo nhiều hơn, vô cùng thú vị.
Anh nói với tôi: “Hoàng Tranh Tử, cho em một cơ hội tham gia với bọn anh, đóng vai yêu tinh nhỏ trong vở kịch.”
Tôi giật cả mình, nói ngay: “Ớ? Em mới là học sinh tiểu học mà!”
“Học sinh tiểu học mới phù hợp diễn yêu tinh nhỏ, đây gọi là phù hợp với nhân vật.”
Chị đứng một bên cười khúc kha khúc khích. Chị đã được phân vào vai hoàng hậu tiên, đang tính xem buông xõa tóc tai rối bù lên sân khấu thì đẹp hơn, hay là búi lên thành một người phụ nữ cao quý thì đẹp hơn.
“Không vui.” Tôi đáp. “Em không biết diễn.”
“Thế em có biết học thuộc lời thoại không?”
“Em biết chứ.”
Anh vỗ tay bốp một cái: “Chẳng phải là được rồi sao? Đơn giản lắm mà, em mặc bộ quần áo của yêu tinh nhỏ bước lên bục, đứng ở giữa đọc lời thoại, thế rồi bước xuống là xong.”
“Hết rồi?”
“Hết rồi đấy.”
“Đơn giản thế ư?”
“Đơn giản như vậy đấy.”
“Vậy thì, diễn kịch có bánh... ăn không?”
“Hôm nào diễn xong anh sẽ mời em ăn bánh, hai cái, à không, ba cái!”
Tôi ngẫm nghĩ, thấy vẫn không có lời cho lắm, bởi vì nếu diễn như vậy thì thời gian sẽ bị vênh nhau, tôi sẽ không thể xem Tô Vũ hát “Mẹ già tóc bạc, ngóng trông con về” nữa.
“Không diễn thật đấy à?” Anh tôi nửa cười nửa không nhìn tôi. “Thế cũng được, anh mời Phạm Thư Văn dưới tầng diễn vậy, thật ra, em ấy hợp hơn em, không cần hóa trang cũng có thể lên bục diễn.”
Anh ra vẻ toan bỏ đi. Tôi vội vã hét toáng lên: “Đừng đi, đừng đi, em diễn!”
Dường như đã biết tỏng từ trước, anh nhún vai, quẳng cho tôi một tờ giấy. “Học thuộc nó trong ba ngày.”
Tôi hơi sững sờ, không biết chuyện vừa tiếp nhận trong một phút nông nổi kia là tốt hay là xấu.
Thẩm Thiên Lộ đi ra đi vào giúp mẹ tôi chuẩn bị bữa tối, chốc thì cầm quạt đi quạt than, lát lại múc nước rửa rau, tí lại vo gạo. Anh ấy trông thấy bộ dáng thất thần ngốc nghếch cầm kịch bản của tôi liền lẩm bẩm: “Dễ dỗ thật đấy.”
Tính phản nghịch của tôi lại trỗi dậy, ngẩng đầu hét lớn về phía anh ấy: “Người ta thích đấy, mắc mớ gì đến anh!”
Khóe miệng anh nhếch lên như nhoẻn cười. Trong nụ cười đấy rõ ràng có sự chế nhạo, khiến tôi càng thêm cáu.
Ngày nào sau khi tan học, tôi cũng ngồi bên mâm cơm học thuộc lòng lời thoại vừa trúc trắc vừa dài dòng kia:
Vượt qua khe suối và núi cao,
Xuyên qua gai cay và bụi cỏ,
Chạy qua bãi săn và vườn tược,
Lao qua thác gầm và lửa nóng.
...
Thẩm Thiên Lộ ngồi bên cạnh tôi chăm chú viết chữ, anh ấy chẳng hề ngẩng đầu lên cũng chỉ ra được lỗi sai của tôi: “Là chạc gai, không phải gai cay, hai chữ này không giống nhau.”
“Đáng ghét quá đi thôi!” Tôi hét toáng: “Anh viết chữ của anh đi.”
Anh nhướng mày, tiếp tục viết chữ.
Tôi tiếp tục học thuộc đoạn số hai:
Này rắn hoa hai lưỡi, này chú nhím lắm gai,
Không được quấy nhiễu giấc ngủ của cô ấy;
Này kỳ lân, này rắn mối, chớ mà đến gần,
Kẻo nọc độc quấy nhiễu sự yên tĩnh của cô ấy.
Này cô sơn ca, hãy cất cao tiếng ca thánh thót,
Hát cho chúng ta một khúc hát ngủ ngon:
Ngủ nào, ngủ nào, hãy ngủ đi nào! Ngủ nào, ngủ nào, hãy ngủ đi nào!
...
Tôi lén liếc nhìn thì thấy, anh ấy tuy cúi đầu, nhưng cây bút vẫn lơ lửng giữa không trung, chưa viết được chữ nào, tai vẫn còn đang dựng thẳng lên, ắt hẳn đang tập trung nghe lời thoại của tôi. Tôi đắc ý, càng cất cao tiếng hát. Em trai đang ngủ trên giường bị tôi làm giật mình tỉnh dậy, oe oe khóc lớn. Mẹ không thêu thùa được nữa, tức giận mắng tôi: “Khùng điên gì thế?”
Thẩm Thiên Lộ không nhịn nổi nữa, bật cười, quẳng bút ngẩng đầu nhìn tôi nói: “Ru ngủ chỗ nào chứ? Đến cả Lôi Công cũng bị em làm thức giấc rồi!”
Thức thì thức, dù sao thì mặc dù tôi diễn yêu tinh nhỏ đấy, nhưng tôi nhất định sẽ diễn thật hay, để Thẩm Thiên Lộ tức xì khói.
Học thuộc xong lời thoại, các diễn viên chúng tôi bắt đầu tập trung luyện tập. Bấy giờ, chị Thư Nhã mới phát hiện mình không phải nữ diễn viên chính, hai nhân vật chính trong vở kịch này là Hermia và Helena. Chị dẩu môi, có chút không vui. Có điều chị phát hiện vai hoàng hậu tiên nắm quyền lực rất lớn, cũng khá hay, có thể sai khiến nhóm tiên quay vòng vòng, nên lại bắt đầu vui vẻ trở lại, lúc đứng trên bục biểu diễn, chị rất gắng sức, diễn rất nhập tâm.
Tôi cũng rất thất vọng. Anh Khắc Tuấn đã lừa tôi, đâu phải chỉ có mình tôi diễn vai yêu tinh nhỏ, lúc diễn tập có cả một đoàn yêu tinh ra sân khấu, đúng ra đó là diễn tập thể đấy chứ. Ngoại trừ Phạm Thư Văn với mái tóc vàng óng và đôi mắt xanh biếc quá đặc biệt ra, có rất nhiều trẻ con trong viện được anh gọi đi, lúc chưa ra sân khấu, lũ trẻ ríu ra ríu rít như bầy chim sẻ, náo nhiệt vô cùng. Nhưng có điều vai diễn của tôi là thủ lĩnh của bầy yêu tinh nhỏ, có vài đoạn lời thoại phải nói trên bục, những đứa trẻ khác chỉ có thể đứng sau tôi lắc đầu. Ừm, nói thực lòng, anh tôi vẫn rất thiên vị tôi đấy chứ.
Thầy giáo Mỹ thuật của trường, cũng là tổng giám chế sân khấu đã lo lắng muốn chết về những bộ quần áo của đám yêu tinh nhỏ chúng tôi. Đầu tiên, không rõ là yêu tinh nhỏ nên mặc gì, tiếp đó nữa, đám trẻ con cần hóa trang thành yêu tinh nhỏ quá đông, không đủ tiền làm nhiều quần áo đến vậy. Sau cùng, anh tôi nghĩ ra một cách, phết lớp sơn vàng lên trang báo lớn, sau khi báo khô thì cắt một cái lỗ ở giữa tờ báo, chúng tôi khoác báo lên, thò đầu ra khỏi cái lỗ ở giữa, dưới tờ báo dán thêm một mảnh giấy đen làm đôi cánh, lúc chúng tôi đứng trên bục giơ tay ra múa, tờ báo sẽ phần phật mở ra, có ánh đèn chiếu vào, lớp sơn màu vàng sẽ lóng la lóng lánh, đại khái cũng tạm coi là xong.
Chị tôi cười tôi: “Còn yêu tinh gì chứ, là một đám ong vàng thì đúng hơn!”
Tôi chẳng thèm để ý đến lời chị, tôi sẽ không giống chị đâu, vì một món trang sức cài tóc của hoàng hậu tiên mà cứng đầu cứng cổ bắt mẹ cho mượn hai cây trâm bạc.
Kết quả thì sao, người tính không bằng trời tính, khi mọi thứ đều đã chuẩn bị xong xuôi hết rồi, trước ngày biểu diễn lễ Giáng Sinh một ngày, đột nhiên tôi phát sốt, sốt cao đến nỗi còn mê sảng, nửa đêm mẹ phải xuống tầng dưới nhờ cha của Phạm Thư Văn đến khám giúp. Giáo sư Phạm bảo rằng, tôi bị viêm phổi cấp tính, nhất định phải nằm viện điều trị.
Gay quá, hôm sau tôi phải biểu diễn rồi đấy! Tôi có hai đoạn lời thoại vô cùng khó đọc! Anh tôi cuống lên như kiến bò trên thớt, bởi vì nếu sát nút rồi mới tìm người thay thế thì rất khó đọc được lời thoại.
Bạn đoán xem vấn đề sau đó được giải quyết thế nào? Thẩm Thiên Lộ đã lên diễn đấy. Là anh ấy tự mình xung phong. Anh chị tôi, thậm chí cả tôi cũng không ngờ tới. Khoảng thời gian đó, ngày nào tôi cũng ở nhà học thuộc lời thoại, Thẩm Thiên Lộ nghe đến nỗi thuộc làu làu, anh ấy lên bục, mở miệng ra là nói được ngay. Còn nữa, anh ấy khá thấp, khi đứng lẫn trong đám học sinh tiểu học, nếu không nhìn kỹ thì sẽ không phát hiện ra đâu.
Sau này, chị nói với tôi, tiếng phổ thông của Thẩm Thiên Lộ đã khá lưu loát, cũng không biết anh ấy học từ bao giờ. Chị còn nói, thật ra Thẩm Thiên Lộ rất thông minh, trước đây chúng tôi đã coi thường anh ấy rồi.
Trên thế gian này, người có thể khiến chị tôi khâm phục chẳng có mấy ai.
Tôi nằm trên giường bệnh, uống canh phổi heo mẹ mang đến, buồn rầu vô ngần: Sớm biết thế này, sao tôi phải cực khổ học thuộc mấy đoạn lời thoại kia chứ? Còn toi công để Thẩm Thiên Lộ cười nhạo. Giá mà ngày nào tôi cũng chạy tới trường Đại học Tề Lỗ xem “Tô Vũ chăn dê” có phải sướng hơn biết bao không!