KHOA HỌC VỀ TÂM TRÍ
Khả năng học hỏi của chúng ta cao hơn rất nhiều so với các loài động vật khác. Nếu trải qua huấn luyện thì các kỹ năng về tinh thần của chúng ta có thể phát triển, giống như các kỹ năng về thể chất, hay không? Phải chăng việc đào tạo tâm trí có thể khiến cho chúng ta chú tâm, vị tha và thanh thản hơn? Những câu hỏi này đã được các nhà khoa học về thần kinh và tâm lý học, những người đã cộng tác với các hành giả, tìm hiểu trong suốt 20 năm qua. Chúng ta có thể học cách chế ngự những cảm xúc phiền muộn tối ưu nhất hay không? Các phương pháp thiền định khác nhau gây ra những sự biến đổi nào về mặt cấu trúc và chức năng trong não bộ? Cần bao nhiêu thời gian để có thể quan sát được sự biến đổi đó ở những người mới bắt đầu thiền định?
Matthieu: Mặc dù người ta tìm thấy trong các văn bản Phật giáo nhiều bài luận về các loại “khoa học truyền thống” – y dược học, thiên văn học, thực vật học, logic học v.v. – nhưng Phật giáo Tây Tạng không cố gắng mở rộng tri thức về thế giới thông qua các ngành khoa học tự nhiên đến mức như các nền văn minh phương Tây. Thay vào đó, nó đã theo đuổi một cuộc nghiên cứu toàn diện về tâm trí trong 2.500 năm và đã tích lũy được một kho tàng kinh nghiệm qua hàng thế kỷ. Rất nhiều người đã dành toàn bộ cuộc đời cho bộ môn khoa học chiêm nghiệm này. Ngành tâm lý học hiện đại phương Tây bắt đầu với William James chỉ mới hơn một thế kỷ trước. Tôi không thể không nhớ tới lời nhận xét của Stephen Kosslyn, khi đó là trưởng khoa Tâm lý học ở Harvard, tại buổi hội thảo “Điều tra về tâm trí” của tổ chức Mind & Life diễn ra ở MIT năm 2003. Ông đã bắt đầu bài phát biểu của mình bằng câu nói: “Đầu tiên, tôi xin nói rằng những khám phá của tôi là hết sức nhỏ bé so với lượng dữ liệu khổng lồ mà các nhà chiêm nghiệm đang mang đến cho tâm lý học hiện đại.”
Việc suy ngẫm về cách thức hoạt động của tâm lý con người cùng những lý thuyết trau chuốt phức tạp về nó, giống như Freud đã làm, là không đủ. Những cấu trúc do trí thức dựng nên không thể thay thế cho hai thiên niên kỷ điều tra trực tiếp cách thức hoạt động của tâm trí thông qua việc xâm nhập vào bên trong do những tâm trí đã trải qua rèn luyện, đã trở nên ổn định và thông suốt, thực hiện. Bất kỳ một học thuyết phức tạp nào xuất phát từ một trí óc siêu việt nào đó nhưng không dựa trên bằng chứng thực nghiệm đều không thể so sánh với những trải nghiệm tích lũy của hàng trăm người, mà mỗi người trong số đó đều dành một phần lớn cuộc đời để tìm hiểu những khía cạnh vi tế nhất của tâm trí thông qua trải nghiệm trực tiếp.
Với phương pháp tiếp cận bằng thực nghiệm và một phương tiện phù hợp là một tâm trí được tu luyện tốt, những nhà chiêm nghiệm này đã tìm ra nhiều cách thức hiệu quả để chuyển biến từ từ cảm xúc, tâm trạng, và đặc điểm, cũng như bào mòn ngay cả những khuynh hướng cứng nhắc nhất có thể gây phương hại đến bản thể tối ưu nhất. Những thành tựu như vậy có thể thay đổi chất lượng của từng khoảnh khắc cuộc đời thông qua việc nâng cao các đặc tính cơ bản của con người như sự yêu thương, bình an nội tại và sức mạnh tiềm ẩn bên trong.
Wolf: Ngài có thể nói cụ thể hơn về tuyên bố khá táo bạo này không? Tại sao những gì tự nhiên mang đến cho chúng ta về cơ bản lại tiêu cực, đòi hỏi phải trải qua quá trình tu luyện tinh thần đặc biệt để loại bỏ chúng, và tại sao phương pháp tiếp cận này lại vượt trội hơn việc giáo dục thông thường hoặc, nếu mâu thuẫn phát sinh, lại vượt trội hơn các hình thái trị liệu tâm lý khác nhau, bao gồm cả phân tâm học?
Matthieu: Những gì tự nhiên mang đến cho chúng ta không hề hoàn toàn tiêu cực; nó chỉ là nền tảng. Hầu hết các khả năng thiên bẩm của chúng ta sẽ luôn ngủ yên trừ khi chúng ta làm gì đó, chẳng hạn như tu luyện, để đưa chúng đến điểm vận hành tối ưu. Chúng ta đều biết rằng tâm trí có thể là người bạn tốt nhất hoặc kẻ thù tồi tệ nhất của chúng ta. Tâm trí mà tự nhiên ban tặng cho chúng ta có tiềm năng tốt đẹp vô cùng to lớn, nhưng nó cũng tạo ra nhiều khổ đau không cần thiết cho chính bản thân ta và những người khác. Nếu chúng ta thành thực nhìn thẳng vào chính mình thì chúng ta phải thừa nhận rằng mình là một sự pha trộn giữa ánh sáng và bóng tối, giữa ưu điểm và khuyết điểm. Đây có phải là những gì tốt nhất mà chúng ta có thể trở thành không? Đó có phải là bản thể tối ưu không? Những hoài nghi này đáng được hỏi, đặc biệt nếu chúng ta xem xét một số loại hình biến chuyển vừa đáng kỳ vọng lại vừa khả thi.
Rất ít người dám thành thật nói rằng chẳng có gì đáng cải thiện trong cách sống cũng như cách trải nghiệm thế giới của họ nữa. Một số người lại xem những điểm yếu và cảm xúc mâu thuẫn của mình là một phần có giá trị và đặc trưng trong “tính cách” của họ, một điều góp phần tạo nên sự viên mãn của cuộc đời họ. Họ tin rằng đó là những điều khiến họ độc đáo và họ cho rằng nên chấp nhận bản thân như đúng con người mình. Nhưng phải chăng đây chỉ là cái cớ để họ không phải cải thiện chất lượng cuộc sống của mình, một việc mà chỉ cần họ dành một chút lý trí và nỗ lực?
Tâm trí ta thường chứa đầy những vấn đề. Một phần lớn thời gian chúng ta bị những suy nghĩ đau đớn, lo lắng hay tức giận chi phối. Chúng ta thường ao ước có thể chế ngự cảm xúc của mình đến mức thoát khỏi được những trạng thái tinh thần luôn làm phiền và che mờ tâm trí. Quả thực, khi chúng ta không biết làm thế nào để đạt được sự giải thoát này thì việc chấp nhận tất cả đều “bình thường”, đó là “bản chất con người”, có vẻ dễ dàng hơn. Tất cả mọi thứ được tìm thấy trong tự nhiên đều là “tự nhiên”, nhưng như vậy không nhất thiết là chúng đáng ao ước. Ví dụ như bệnh tật xảy đến với tất cả mọi người và hoàn toàn tự nhiên, nhưng điều này có ngăn cản chúng ta cố gắng tìm cách chữa trị không?
Không ai thức dậy vào buổi sáng và nghĩ: “Mình ước mình có thể đau khổ cả ngày và nếu có thể thì cả đời”. Bất kể chúng ta có bận rộn với điều gì thì chúng ta cũng luôn hy vọng rằng mình sẽ thu được từ nó một số lợi ích hoặc sự hài lòng nào đó, cho bản thân hoặc cho người khác, hoặc ít nhất là giảm đi sự đau khổ của chúng ta. Nếu chúng ta nghĩ rằng các hành động của mình sẽ không đem lại điều gì ngoài tình trạng khổ đau thì chúng ta sẽ chẳng làm gì cả, và chúng ta sẽ rơi vào tuyệt vọng.
Chúng ta thấy việc dành nhiều năm để học đi, đọc và viết, hay có được các kỹ năng chuyên môn chẳng có gì lạ lẫm. Chúng ta dành hàng giờ đồng hồ tập thể dục để có được thân hình đẹp. Thỉnh thoảng ta lại sử dụng một lượng lớn năng lượng thể chất để đạp một chiếc xe đạp đứng yên chẳng đi đến đâu cả. Để duy trì những nhiệm vụ này đòi hỏi ít nhất phải có chút hứng thú hoặc lòng nhiệt tâm. Sự hứng thú này đến từ niềm tin rằng những nỗ lực đó sẽ mang lại lợi ích cho chúng ta về lâu dài. Làm việc với tâm trí cũng tuân theo logic tương tự. Làm sao nó có thể thay đổi mà không cần bất kỳ nỗ lực nào, chỉ ngồi không và ước? Chúng ta không thể trượt tuyết nếu chỉ tập vài phút mỗi năm.
Chúng ta nỗ lực rất nhiều để cải thiện các điều kiện bên ngoài, nhưng cuối cùng thì tâm trí mới chính là thứ tạo ra trải nghiệm của chúng ta về thế giới và diễn giải trải nghiệm này thành hạnh phúc hoặc khổ đau. Nếu chúng ta biến đổi cách mình nhận thức mọi thứ thì chúng ta cũng sẽ làm thay đổi chất lượng cuộc sống của chúng ta. Loại biến đổi này xuất hiện nhờ một hình thức rèn luyện tâm trí được gọi là thiền định.
Chúng ta đánh giá khá thấp khả năng thay đổi của chúng ta. Những điểm đặc trưng của chúng ta sẽ vẫn giữ nguyên nếu chúng ta không làm gì để thay đổi chúng, và nếu chúng ta tiếp tục chấp nhận cũng như củng cố những thói quen, khuôn mẫu của mình, từ suy nghĩ này đến suy nghĩ khác. Sự thật là trạng thái mà chúng ta gọi là “bình thường” chỉ là điểm khởi đầu chứ không phải là mục tiêu mà ta nên đặt ra cho bản thân. Cuộc sống của chúng ta đáng giá hơn thế nhiều. Chúng ta hoàn toàn có thể, từng chút một, đạt đến bản thể tối ưu.
Tự nhiên cũng cho chúng ta khả năng thấu hiểu tiềm năng thay đổi của mình, bất kể chúng ta là ai và chúng ta đã làm gì. Khái niệm này là một nguồn cảm hứng mạnh mẽ để chúng ta tham gia vào quá trình biến đổi bên trong. Có thể bạn sẽ không thành công một cách dễ dàng, nhưng ít nhất hãy cảm thấy được khích lệ bởi một ý tưởng như vậy; bạn có thể tập trung toàn bộ năng lượng của mình vào quá trình biến đổi này và chỉ riêng việc đó thôi đã là một quá trình chữa lành.
Giáo dục hiện đại thông thường không chú trọng vào việc biến đổi tâm trí và trau dồi những phẩm chất cơ bản của con người như lòng yêu thương và chánh niệm. Như chúng ta sẽ thấy sau đây, khoa học chiêm nghiệm Phật giáo có nhiều điểm chung với những liệu pháp nhận thức, đặc biệt với những người dùng chánh niệm làm nền tảng để khắc phục sự mất cân bằng tinh thần. Đối với phân tâm học, nó dường như khuyến khích việc trầm tư và không ngừng khám phá các chi tiết cũng như những phức tạp bên trong các đám mây của sự hỗn loạn tinh thần và tự cho mình là trung tâm, thứ che giấu khía cạnh căn bản nhất của tâm trí: sự nhận thức minh triết.
Wolf: Tức là sự trầm tư sẽ đối nghịch với thiền?
Matthieu: Hoàn toàn đối nghịch. Người ta biết rõ rằng việc trầm tư liên tục là một trong những triệu chứng cơ bản của trầm cảm.
Wolf: Thật đáng phấn khởi khi cuộc đối thoại của chúng ta có những góc nhìn tương phản về các chiến lược chữa trị tâm trí. Tôi cho rằng việc thực hành thiền định thường bị hiểu lầm. Tôi có rất ít kinh nghiệm với nó, nhưng tôi biết nó không phải là gì. Nó không phải là một nỗ lực đối diện với các vấn đề chưa được giải quyết nhằm tìm kiếm nguyên nhân và loại bỏ chúng. Có vẻ ngược lại thì đúng hơn.
Matthieu: Khi nhìn vào quá trình trầm tư, chúng ta sẽ dễ nhận ra nó là một kẻ gây rối. Điều mà chúng ta cần làm là thoát khỏi chuỗi phản ứng trong tâm trí, mà đây lại là thứ sự trầm tư liên tục tạo ra. Người ta nên học cách để cho những suy nghĩ tự do nảy sinh và biến mất ngay khi vừa xuất hiện, thay vì để chúng xâm chiếm tâm trí. Trong sự tươi mới của thời khắc hiện tại, quá khứ đã qua, tương lai chưa tới, và nếu ta tồn tại trong chánh niệm cùng sự tự do thuần khiết thì có khả năng những tư tưởng phiền não sẽ khởi phát và biến mất mà không để lại dấu vết.
Wolf: Ngài đã từng nói trong một quyển sách của mình rằng tất cả mọi người đều sở hữu trong tâm trí mình một “thỏi vàng”, một hạt nhân tinh khiết và có những phẩm chất tích cực, tuy nhiên, bị che giấu và lu mờ trước một loạt các đặc điểm và cảm xúc tiêu cực làm biến dạng nhận thức của mọi người và là nguyên nhân chính của khổ đau. Với tôi, đây là một giả thuyết lạc quan thái quá và chưa được kiểm chứng. Nó giống như giấc mơ của Rousseau và dường như mâu thuẫn với những trường hợp kiểu cậu bé người rừng Kaspar Hauser. Sự tiến hóa đã định hình chúng ta bằng gen và văn hóa, thông qua giáo dục, những tiêu chuẩn đạo đức và quy tắc xã hội. Vậy thì cái “thỏi vàng” đó là gì?
Matthieu: Đó là một thỏi vàng vẫn còn chôn sâu trong quặng của nó, trong một tảng đá, hoặc trong bùn. Vàng không mất đi độ tinh khiết nội tại của nó, nhưng giá trị của nó không được phát huy. Tương tự như vậy, tiềm năng của con người cần có những điều kiện thích hợp để được biểu lộ đầy đủ.
NHẬN THỨC VÀ CẤU TRÚC TINH THẦN
Matthieu: Ý tưởng ý thức có bản chất không bao giờ hư hại không phải là một đánh giá ngây thơ về bản chất con người. Nó dựa trên lý luận và trải nghiệm nội tâm. Nếu chúng ta xem xét những suy nghĩ, cảm giác, xúc cảm hay bất kỳ biến cố tinh thần nào, chúng ta thấy tất cả chúng đều có một mẫu số chung, đó là khả năng nhận biết. Trong Phật giáo, phẩm chất cơ bản này của ý thức được gọi là bản chất quang minh của tâm trí. Nó quang minh theo nghĩa là nó đem ánh sáng ra thế giới bên ngoài thông qua tri giác đồng thời soi sáng nội tâm thông qua cảm xúc, suy nghĩ, ký ức về quá khứ, mong đợi về tương lai và ý thức về khoảnh khắc hiện tại. Nó trái ngược với một vật vô tri vô giác, hoàn toàn tối tăm về nhận thức.
Hãy dùng hình ảnh ánh sáng. Nếu bạn có một ngọn đuốc và bạn chiếu lên một khuôn mặt tươi cười hay giận dữ, một núi châu báu hay một đống rác, thì ánh sáng cũng không trở nên tử tế hay giận dữ, quý báu hay bẩn thỉu. Một hình ảnh khác là tấm gương. Tấm gương đặc biệt ở chỗ nó có thể phản chiếu tất cả các loại hình ảnh, nhưng không ai trong số chúng thuộc về, xâm nhập hay nằm trong gương. Nếu thế thì tất cả những hình ảnh này sẽ chồng lên nhau, và tấm gương trở nên vô dụng. Tương tự như thế, phẩm chất cơ bản của tâm trí cho phép tất cả mọi cấu trúc tinh thần – yêu thương và giận dữ, hân hoan và đố kỵ, vui sướng và đau khổ – phát sinh nhưng không bị chúng làm thay đổi. Những biến cố tinh thần không cố hữu thuộc về khía cạnh cơ bản nhất của ý thức. Chúng chỉ xảy ra bên trong không gian của nhận thức, thuộc những khoảnh khắc khác nhau của ý thức, và chúng xuất hiện được là nhờ nhận thức cơ bản này. Như vậy, phẩm chất này có thể được gọi là nhận thức cơ bản, nhận thức thuần khiết hoặc bản chất căn bản nhất của tâm trí.
Wolf: Những gì ngài nói có hai ngụ ý. Thứ nhất là ngài dường như gán giá trị cho sự ổn định hoặc tính khách quan; nó giống như một tiêu chuẩn xác nhận. Thứ hai là ngài phân tách nhận thức có ý thức ra khỏi nội dung của nó. Ngài cho rằng có một nền tảng trong não bộ có chức năng như một chiếc gương lý tưởng, không có bất kỳ sự biến dạng nào trong tự thân, không bị ảnh hưởng bởi nội dung mà nó phản chiếu. Có phải ngài đang bảo vệ cho một lập trường nhị nguyên, một sự chia đôi giữa tâm trí vô nhiễm và người quan sát, ở một mặt, với những nội dung trong tâm trí này mà sau đó đầy rẫy những thể loại can thiệp và biến dạng? Những quan điểm đương đại về tổ chức não bộ phủ nhận những sự phân biệt rõ ràng giữa các chức năng giác quan và các chức năng điều hành. Chúng coi ý thức là một thuộc tính mới nổi có những chức năng không thể thiếu của bộ não. Vì vậy, tôi gặp vấn đề về việc phân biệt giữa một tấm gương vô nhiễm với những gì nó phản chiếu. Tôi không thể hình dung ra được một nền tảng trống rỗng của ý thức – nếu nó trống rỗng thì nó sẽ không tồn tại; nó cũng sẽ không thể được định nghĩa.
Matthieu: Không hề! Đó không phải là nhị nguyên. Không có hai dòng ý thức. Đúng hơn, đó là các khía cạnh khác nhau của ý thức: một là khía cạnh cơ bản, nhận thức thuần khiết, luôn hiện hữu; và các khía cạnh phiêu lưu, những cấu trúc tinh thần luôn thay đổi. Chúng ta nên dùng từ “liên tục”. Ý thức, ở mọi cấp độ, đều là một dòng chảy động được tạo thành từ những khoảnh khắc nhận thức, có hoặc không có nội dung. Vào bất cứ lúc nào, đằng sau tấm màn của những tư tưởng, người ta có thể nhận ra một cơ quan nhận thức thuần khiết là nền tảng cho tất cả mọi suy nghĩ.
Wolf: Việc này sẽ đòi hỏi ít nhất hai thực thể riêng biệt: một không gian trống rỗng, đóng vai trò như một bình chứa với tất cả các tính chất mà ngài mô tả; và phần nội dung mà dù hỗn loạn thế nào thì cũng không ảnh hưởng đến cái bình.
Matthieu: Tại sao cần hai thực thể? Tâm trí có thể nhận thức được chính nó mà không cần tâm trí thứ hai. Nhận thức thuần khiết, khía cạnh cơ bản nhất của tâm trí, cũng có thể nhận biết chính nó mà không đòi hỏi người quan sát thứ hai. Nếu tấm gương và những gì nó chứa đựng khiến bạn gặp vấn đề thì có thể so sánh ý thức thuần khiết với một mảnh đất sét còn các cấu trúc tinh thần là các hình dạng khác nhau mà cùng mảnh đất sét đó có thể hình thành. Dù bạn có tạo ra bất kể hình dạng nào cho mảnh đất sét thì mảnh đất sét vẫn là mảnh đất sét và không bao giờ thay đổi về căn bản.
Wolf: Để có được đôi mắt bên trong vô nhiễm như vậy, một tấm gương lý tưởng như vậy, không bị ảnh hưởng bởi mọi cảm xúc và hoàn toàn tách rời khỏi chúng thì theo tôi, đòi hỏi một sự tách rời nhân cách. Sẽ có một người quan sát vô nhiễm, tách riêng khỏi những xúc cảm, thương cảm, và nhận thức sai lầm, và rồi sẽ có một người khác, cũng là một phần của bạn, bị mắc kẹt trong những xung đột, tình huống đánh giá sai lầm bởi chìm đắm trong tình yêu hoặc thất vọng. Liệu rằng việc luyện tâm có phải là công cụ để đạt được sự tách rời bản thân như vậy? Kinh nghiệm của ngài ở đây là gì? Liệu việc tạo ra sự tách rời – nếu đây thực sự là mục đích của thiền định – có phải là một thử nghiệm nguy hiểm?
Matthieu: Vấn đề không phải là phân mảnh bản ngã mà là sử dụng năng lực của tâm trí để quan sát và thấu hiểu chính nó, nhằm giải thoát khỏi khổ đau. Chúng ta hãy nói vềnhận thức bất nhị chiếu sáng tự thân, nhằm nhấn mạnh điểm này. Không cần thiết phải phân ly nhân cách vì tâm trí luôn tồn tại năng lực quan sát chính nó, giống như một ngọn lửa thì không cần một ngọn lửa khác soi sáng cho nó. Chỉ riêng sự chiếu sáng của nó đã là đủ.
Điểm thực tiễn của tất cả những điều này là bạn có thể nhìn vào những suy nghĩ của mình, bao gồm cả những cảm xúc mạnh, từ quan điểm của chánh niệm thuần khiết. Suy nghĩ là những biểu hiện của nhận thức thuần khiết, giống như những ngọn sóng dâng lên và lại tan biến trở vào đại dương. Đại dương và những con sóng không phải là hai thứ tách biệt về mặt bản chất. Thông thường, chúng ta bị cuốn theo nội dung của những suy nghĩ đến mức chúng ta hoàn toàn đồng nhất mình với những suy nghĩ và không nhận thức được bản chất căn bản của ý thức, nhận thức thuần khiết. Bởi vậy, chúng ta dễ dàng bị lừa gạt và chúng ta đau khổ.
Toàn bộ con đường của đạo Phật là những phương cách khác nhau để loại bỏ ảo tưởng. Lấy ví dụ chúng ta đang trải nghiệm một cơn giận rất mãnh liệt. Chúng ta hợp nhất với cơn giận. Cơn giận tràn ngập toàn bộ tinh thần của chúng ta và phóng chiếu những méo mó về thực tại của nó lên con người cũng như các sự kiện. Khi chúng ta bị cơn giận áp đảo, chúng ta không thể tách rời khỏi nó. Chúng ta cũng duy trì một vòng luẩn quẩn tai họa khi khơi dậy cơn giận mỗi lần chúng ta thấy hoặc nhớ về người đã khiến cho ta tức giận. Mặc dù giận dữ rõ ràng không phải trạng thái hay ho của tâm trí nhưng chúng ta không thể ngăn mình không kích hoạt nó hết lần này đến lần khác, chẳng khác gì liên tục đổ dầu vào lửa. Vì thế, chúng ta trở nên nghiện những gì gây nên khổ đau. Nhưng nếu chúng ta tách biệt khỏi cơn giận và nhìn nó một cách hờ hững với chánh niệm thuần khiết thì chúng ta có thể thấy rằng đó chỉ là một đống những suy nghĩ và chẳng có gì là đáng sợ. Cơn giận không mang theo vũ khí, nó không bùng cháy như ngọn lửa hay nghiền nát ai đó như một tảng đá; nó không là gì khác ngoài một sản phẩm của tâm trí chúng ta.
Wolf: Liệu như vậy có phải là những cảm xúc tích cực cũng có hại không kém bởi chúng dẫn đến những nhận thức sai lầm và do đó, làm phát sinh khổ đau?
Matthieu: Không nhất thiết là vậy. Tất cả đều phụ thuộc vào việc liệu rằng một biến cố tinh thần có bóp méo thực tế hay không. Ví dụ, nếu tâm trí nhận ra rằng tất cả chúng sinh đều mong muốn được giải thoát khỏi khổ đau và được lấp đầy bởi lòng yêu thương vị tha cùng khao khát giải thoát họ khỏi khổ đau, thì miễn là có trí tuệ này, nó vẫn có thể hòa hợp với thực tại. Nó nhận ra sự phụ thuộc lẫn nhau của tất cả chúng sinh, thừa nhận tất cả đều có mong muốn chung là tránh khỏi đau khổ và đạt được hạnh phúc, cũng như xác định được nguyên nhân sâu sắc dẫn đến khổ đau của họ. Nếu, thêm vào đó, lòng yêu thương vị tha không bị ảnh hưởng bởi những bám chấp khác nhau của chúng ta thì nó sẽ không gây phiền não. Thay vì che mờ trí tuệ, nó sẽ bộc lộ như là biểu hiện tự nhiên của trí tuệ.
Nhưng để kết thúc phân tích về sự tức giận, thay vì “trở thành” cơn giận và hoàn toàn hợp nhất với nó, chúng ta chỉ cần đơn giản là nhìn vào sự tức giận và duy trì sự chú ý vào nó. Điều gì sẽ xảy ra khi ta làm như vậy? Cũng giống như khi ta ngừng đổ dầu vào lửa, ngọn lửa rồi sẽ sớm tắt; sự giận dữ không thể tiếp tục lâu dưới cái nhìn của chánh niệm. Nó sẽ tan biến.
Wolf: Và cũng tương tự với tình yêu, sự đồng cảm, nỗi mất mát, và tất cả những xúc cảm sâu sắc khác. Ngài có nhắm đến một tâm trí sáng suốt, không có cảm xúc không? Tôi ngờ rằng làm sao những con người không có cảm xúc ấy có thể tồn tại và sinh sản nếu họ không có đặc quyền sống trong một môi trường được bảo vệ nghiêm ngặt.
XỬ LÝ NHỮNG CẢM XÚC
Matthieu: Mục đích không phải là chấm dứt những trải nghiệm về cảm xúc mà là tránh trở thành nô lệ cho chúng. Trong ngôn ngữ phương Tây, từ “cảm xúc” (emotion) xuất phát từ gốc từ tiếng Latin là emove có nghĩa là “đặt vào trong sự vận động”. Cảm xúc là thứ đặt tâm trí ta vào trong sự vận động, nhưng phụ thuộc nhiều vào cách làm của nó. Tâm trí bạn có thể bị đặt vào trong sự vận động bởi mong muốn làm giảm bớt khổ đau cho một ai đó. Điều này không gây hại. Ngoài ra, thật vô nghĩa khi cố gắng ngăn chặn những suy nghĩ và cảm xúc phát sinh bởi dù sao đi nữa thì chúng sẽ vẫn dâng trào trong tâm trí. Điểm quan trọng là điều gì sẽ xảy ra tiếp đó. Nếu những cảm xúc phiền não xâm chiếm tâm trí thì bạn sẽ gặp rắc rối. Nếu, tại thời điểm chúng khởi phát, bạn tìm được cách để chúng tự cởi bỏ và biến mất, thì tức là bạn đã khéo léo xử lý được chúng.
Chẳng hạn, bằng cách giải phóng sự tức giận khi nó vừa phát sinh, ta đã tránh được hai cách đối phó không thực tế. Chúng ta đã không để cho cơn giận bùng nổ, ngăn chặn được tất cả những hậu quả tiêu cực phát sinh từ nó như làm tổn thương người khác, hủy diệt an lạc nội tại hay khiến ta trở nên cáu giận thường xuyên và dễ dàng hơn. Chúng ta cũng tránh được việc trấn áp cơn giận theo kiểu đặt một cái nắp lên trên, đậy nó lại, không làm gì với nó, bỏ mặc nó, như một quả bom hẹn giờ, trong một góc tối nào đó của tâm trí. Chúng ta phải đối phó với cơn giận thật thông minh, bằng cách để cho ngọn lửa của nó lụi tàn. Nếu ta cứ làm thế lặp đi lặp lại thì cơn giận sẽ bắt đầu ít phát sinh hơn và có cường độ yếu hơn. Từ đó, xu hướng giận dữ sẽ dần dần bị bào mòn, và các đặc tính của chúng sẽ được biến đổi.
Wolf: Thế thì những gì chúng ta phải học là làm sao để áp dụng một cách tiếp cận tế nhị hơn với nhà hát xúc cảm bên trong mình, làm sao để xác định những hàm nghĩa khác nhau của cảm xúc theo cách hiệu quả hơn nhiều.
Matthieu: Đúng vậy. Ban đầu, rất khó để thực hiện điều đó ngay khi một cảm xúc khởi phát, nhưng nếu bạn ngày càng trở nên quen thuộc với cách tiếp cận này thì nó sẽ trở thành tự nhiên. Bất cứ khi nào cơn giận vừa mới ló mặt, chúng ta nhận biết nó ngay lập tức và xử lý nó trước khi nó trở nên quá mạnh. Nếu bạn biết ai đó là kẻ móc túi thì bạn sẽ sớm nhận ra hắn ngay cả khi hắn hòa vào đám đông 20 hoặc 30 người, và bạn sẽ để mắt đến hắn ta cẩn thận để hắn không thể đánh cắp chiếc túi của bạn.
Wolf: Vậy thì mục đích là tăng cường sự nhạy cảm của mình với dòng chảy tinh tế của những cảm xúc để có thể điều phục chúng trước khi chúng trở thành mối đe dọa.
Matthieu: Đúng, bằng cách trở nên ngày càng quen thuộc với các hoạt động của tâm trí và tu luyện chánh niệm về khoảnh khắc hiện tại, bạn sẽ không để cho tia lửa cảm xúc phiền muộn nhỏ nhoi bùng phát thành một đám cháy lớn không thể kiểm soát và phá hủy hạnh phúc của chính mình và người khác. Ở thời điểm ban đầu, điều này đòi hỏi phải nỗ lực có mục đích. Sau đó, nó có thể trở nên dễ dàng, không cần nỗ lực.
Wolf: Việc này hoàn toàn giống khoa học ngoại trừ việc nỗ lực phân tích được hướng vào bên trong thay vì hướng ra thế giới bên ngoài. Khoa học cũng cố gắng hiểu được thực tại bằng cách gia tăng sức mạnh giải quyết của các phương tiện, đào luyện tâm trí để nắm bắt những mối quan hệ phức tạp, và phân tách các hệ thống thành các thành tố nhỏ hơn.
Matthieu: Người ta nói rằng trong giáo lý của đạo Phật, không có công việc nào khó đến mức không thể phân chia thành một chuỗi những việc nhỏ và dễ hơn.
Wolf: Đối tượng điều tra của ngài dường như là bộ máy tinh thần và công cụ phân tích nội tâm. Đây là một cách tiếp cận tự tham chiếu thú vị, khác với khoa học về tâm trí của phương Tây vì nó nhấn mạnh quan điểm của người trực tiếp trải nghiệm và làm sụp đổ, theo một nghĩa nào đó, phương tiện điều tra với đối tượng của nó. Phương pháp tiếp cận của phương Tây, trong khi sử dụng quan điểm của người trực tiếp trải nghiệm để định nghĩa các hiện tượng tinh thần, rõ ràng cũng ủng hộ việc sử dụng góc nhìn của người bên ngoài để điều tra. Tôi tò mò muốn khám phá xem những kết quả của việc phân tích nội tâm có khớp với kết quả khoa học thần kinh nhận thức thu được hay không. Cả hai cách tiếp cận này rõ ràng đều cố gắng phát triển một cái nhìn thực tế và phân biệt về những quá trình nhận thức. Có thể là cách sử dụng nội tâm của phương Tây chúng ta chưa đủ sự tinh tế. Sự thật là một số khái niệm về tổ chức não bộ của con người được bắt nguồn từ trực giác và nội tâm đang xung đột với các khái niệm bắt nguồn từ điều tra khoa học – điều này đôi khi làm nảy sinh những cuộc tranh luận gay gắt giữa các nhà thần kinh học và các học giả về con người. Điều gì bảo chứng rằng kỹ thuật quan sát nội tâm dùng cho việc giải phẫu hiện tượng tinh thần là đáng tin cậy? Nếu đó là sự đồng thuận giữa những người tự coi mình là chuyên gia thì làm cách nào các ngài so sánh và xác nhận các trạng thái tinh thần chủ quan? Không có gì mà một người khác có thể nhìn vào và xác nhận; những người quan sát chỉ có thể dựa vào sự xác nhận bằng lời của các trạng thái chủ quan.
THAY ĐỔI TỪ TỪ VÀ BỀN VỮNG
Matthieu: Nó cũng giống như kiến thức khoa học. Trước tiên, bạn phải dựa vào sự xác nhận đáng tin cậy của nhiều nhà khoa học, nhưng sau đó bạn có thể tu luyện trong các chủ đề và trực tiếp xác minh những điều được tìm thấy. Điều này khá giống với khoa học chiêm nghiệm. Đầu tiên bạn cần tinh chỉnh chiếc kính viễn vọng trong tâm trí mình và các phương pháp nghiên cứu trong nhiều năm để tự mình tìm ra những điều mà các nhà chiêm nghiệm khác đã tìm thấy và tán thành. Trạng thái trống rỗng của ý thức thuần khiết, nhìn qua có vẻ khó hiểu, là điều mà tất cả các nhà chiêm nghiệm đều đã trải qua. Vì vậy, nó không phải là một dạng học thuyết giáo điều nào đó của Phật giáo. Bất cứ ai gặp khó khăn trong việc ổn định và gạn lọc tâm trí đều có thể trải nghiệm nó.
Về việc kiểm tra chéo kinh nghiệm giữa các cá nhân thì cả nhà chiêm nghiệm và các văn bản nói đến những trải nghiệm khác nhau mà một thiền giả có thể gặp phải đều khá chính xác trong các mô tả của họ. Khi một thiền sinh báo cáo về trạng thái bên trong của tâm trí mình cho một thiền sư giàu kinh nghiệm thì các mô tả không chỉ mơ hồ và thơ mộng. Thiền sư sẽ hỏi những câu hỏi chính xác rồi học trò sẽ trả lời, và rõ ràng là họ đang nói về một điều đã được xác định và có sự thấu hiểu lẫn nhau.
Tuy nhiên, cuối cùng thì điều thực sự quan trọng là cách một người dần dần thay đổi. Nếu trải qua nhiều tháng và nhiều năm, một người trở nên nhẫn nại hơn, ít bị tức giận, và ít bị xé nát bởi những hy vọng cùng sợ hãi, thì phương pháp mà họ đã và đang sử dụng là thực sự có giá trị. Nếu một người không thể nghĩ đến việc làm hại người khác, nếu người đó dần dần phát triển những nguồn lực bên trong để đối phó thành công với những thăng trầm của cuộc đời, thì họ đã đạt được những tiến bộ thực sự. Người ta nói trong các giáo lý rằng thật dễ để trở thành một thiền sư khi ngồi dưới ánh mặt trời với một cái bụng no đủ, nhưng các thiền giả chỉ thực sự bị thử thách khi đối diện với những hoàn cảnh bất lợi. Đó là lúc bạn sẽ thực sự đo lường được sự thay đổi đã xảy ra trong bản thể mình. Khi bạn đối mặt với những người chỉ trích hoặc làm nhục mình, nếu bạn không thổi bùng lên ngòi nổ mà biết cách xử lý khéo léo với họ trong khi vẫn duy trì được an lạc nội tại, thì tức là bạn đã đạt được sự cân bằng cảm xúc đích thực và sự tự do bên trong. Bạn sẽ trở nên ít bị tổn thương hơn trước các điều kiện ngoại cảnh và những suy nghĩ sai lầm của chính mình.
Một nghiên cứu đang được tiến hành dường như chỉ ra rằng trong khi thiền định, các thiền sinh có thể phân biệt rõ ràng, giống như những người không bị phân tâm, cảm giác dễ chịu và khó chịu, nhưng họ ít phản ứng cảm tính hơn so với những người không thiền.
Trong khi vẫn duy trì khả năng nhận thức đầy đủ về một điều gì đó, họ không bị cuốn theo những phản ứng xúc cảm của mình. Những người bình thường hoặc không nhận thức được kích thích (ví dụ như khi bị người khác cố ý làm phân tâm bằng cách yêu cầu họ thực hiện một nhiệm vụ khó khăn về mặt nhận thức) và không phản ứng hoặc nhận thức được nó và phản ứng mạnh mẽ.
Wolf: Tôi có thể thấy được đức hạnh của thái độ này. Tuy nhiên, những cảm xúc tiêu cực cũng có chức năng quan trọng cho sự sống còn. Không phải ngẫu nhiên mà chúng tiến hóa và được bảo tồn. Chúng giúp chúng ta sống sót. Chúng bảo vệ ta và giúp ta tránh khỏi những tình huống bất lợi. Chúng ta chỉ mới nói về việc ngắt kết nối và tách rời các thành tố tiêu cực trong khi vẫn giữ nguyên những yếu tố tích cực – như sự thấu hiểu, yêu thương, quan tâm, cần mẫn và chánh niệm. Bởi những nguyên do tương tự, chúng ta nên cho rằng những cảm xúc tích cực cũng ngăn trở một cái nhìn không thiên lệch về thế giới và phai mờ theo việc tu luyện tinh thần.
Matthieu: Nếu tình yêu và sự thấu hiểu bị thiên lệch do sự gắn kết và bám chấp thì chắc chắn chúng sẽ đồng hành với sự biến dạng thực tại. Vì vậy, từ quan điểm Phật giáo, sự thấu hiểu có tính thiên vị và tình yêu bám chấp không mang ý nghĩa tích cực vì chúng dẫn đến đau khổ. Trái lại, tình yêu vị tha có tác động tích cực đến tất cả những gì liên quan: người thụ hưởng cũng như người bày tỏ tình yêu đó. Tương tự, sự phẫn nộ mạnh mẽ khi đối mặt vối bất công có thể thúc đầy người ta tham gia tích cực vào các hành động thay đổi điều ác. Nếu sự phẫn nộ ấy không bị trộn lẫn với thù hận và không chồng lấn lên thực tại, thì nó mang tính xây dựng, không giống như sự giận dữ ác ý, ngoài tầm kiểm soát. Nó sẽ dẫn đến ít đau khổ hơn và nhiều hạnh phúc hơn cho tất cả mọi người. Bản chất tích cực hoặc tiêu cực của một cảm xúc nên được đánh giá dựa trên động lực của nó – vị tha hay ích kỷ – và hậu quả của nó dưới dạng hạnh phúc hay khổ đau.
Wolf: Làm thế nào chúng ta có thể hình dung được một quá trình hoàn toàn do bộ não chúng ta khởi tạo? Chúng ta muốn thay đổi điều gì đó trong bộ não mình bằng cách giảm thiểu càng nhiều càng tốt sự xen vào từ bên ngoài; chúng ta có thể bắt đầu một cuộc dạo chơi dài xuyên qua bộ não đang cố gắng gợi lên những cảm xúc nhất định. Điều này dường như đòi hỏi một sự phân ly nhất định, một sự chia tách cấp độ, bởi cần một tác nhân hoạt động trên một cấp độ khác để tạo ra thay đổi. Chúng ta cần theo dõi những xúc cảm của mình, chúng ta cần cảnh báo những giác quan bên trong để có được những cảm xúc đó – bởi vì tôi nghĩ rằng chỉ có thể xử lý chúng nếu kích hoạt chúng – và sau đó, phải học cách để phân biệt chúng. Ngài làm điều đó như thế nào? Ngài có những công cụ gì?
SỰ LÀM GIÀU BÊN TRONG VÀ BÊN NGOÀI
Matthieu: Tâm trí rõ ràng là có khả năng nhận biết và rèn luyện chính nó. Người ta làm điều đó thường xuyên, chỉ là họ không gọi nó là thiền định mà thôi. Họ tự giác ghi nhớ mọi thứ, giống như một học sinh; họ nâng cao những kỹ năng tinh thần trong khi chơi cờ và giải quyết các vấn đề khác nhau thông qua tu luyện tâm trí. Thiền định chỉ đơn giản là một phương pháp có hệ thống hơn để thực hiện những điều này một cách khôn ngoan – tức là, với sự hiểu biết về cơ chế cấu tạo của hạnh phúc và khổ đau. Quá trình này đòi hỏi sự kiên định. Bạn cần phải tập đi tập lại nhiều lần. Bạn không thể biết cách chơi quần vợt nếu chỉ cầm vợt vài phút mỗi tháng. Với thiền định, chúng ta không nỗ lực phát triển một kỹ năng thể chất mà là sự phong phú nội tâm. Tôi biết rằng các chức năng của não phát triển là do tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Nếu bạn bị mù bẩm sinh thì những khu vực thị giác của não bộ sẽ không phát triển, và thậm chí sẽ bị xâm lấn bởi các chức năng thính giác, điều mà hữu ích hơn đối với một người mù. Vào cuối những năm 1990, nghiên cứu cho thấy những con chuột bị nhốt trong hộp các-tông thể hiện sự suy giảm kết nối thần kinh. Nhưng nếu chúng được cho vào một công viên giải trí dành cho chuột, nơi có những bánh xe, đường hầm và đồng loại, thì trong vòng một tháng, chúng sẽ tạo ra nhiều kết nối mới. Ngay sau đó, sự dẻo dai về thần kinh này cũng được chứng minh là tồn tại trong suốt cuộc đời của con người. Tuy nhiên, phần lớn thời gian, sự tương tác của chúng ta với thế giới là bán thụ động. Chúng ta được tiếp xúc với một thứ gì đó và phản ứng lại nó, từ đó gia tăng những trải nghiệm cho bản thân. Chúng ta có thể miêu tả quá trình này là một sự làm giàu từ bên ngoài.
Trong trường hợp thiền định và rèn luyện tâm trí, môi trường bên ngoài có thể chỉ thay đổi rất ít. Ở những trường hợp cực đoan, bạn có thể ở trong một thất đơn giản, nơi mà chẳng có gì thay đổi, hoặc ngồi một mình đối diện với một khung cảnh bất biến ngày này qua ngày khác. Vì vậy, sự làm giàu bên ngoài hầu như là con số không, nhưng sự làm giàu nội tại lại đạt mức cực đại. Bạn đang rèn luyện tâm trí mình suốt cả ngày dài với sự kích thích từ ngoại cảnh là ít nhất. Vả lại, quá trình làm giàu như vậy không phải là thụ động, mà là tự giác và được định hướng một cách có phương pháp.
Khi bạn dành tám giờ một ngày hoặc nhiều hơn cho việc trau dồi một số trạng thái tinh thần nhất định mà bạn đã quyết định trau dồi và học cách trau dồi, thì bạn đang tái lập trình bộ não.
Wolf: Trong một nghĩa nào đó, ngài biến bộ não mình thành đối tượng của một quá trình nhận thức tinh vi được xoay vào trong thay vì hướng ra bên ngoài thế giới xung quanh. Ngài áp dụng những khả năng nhận thức của bộ não vào việc nghiên cứu cách nó tổ chức và vận hành, và ngài làm như vậy theo một cách có chủ ý và tập trung, tương tự như khi ngài tham dự các sự kiện ở thế giới bên ngoài và khi ngài tổ chức những tín hiệu giác quan thành các khái niệm mạch lạc. Ngài gán giá trị cho các trạng thái nhất định và cố gắng gia tăng sự phổ biến của chúng, điều có thể song hành cùng với sự thay đổi trong kết nối khớp thần kinh theo cách tương tự như khi nó xảy ra với quá trình học hỏi từ những tương tác với thế giới bên ngoài.
Chúng ta hãy tóm tắt ngắn gọn cách bộ não con người thích ứng với môi trường bởi quá trình phát triển này cũng có thể được xem như là một sự sửa đổi hay tái lập trình những chức năng của não. Sự phát triển của bộ não được đặc trưng bởi sự gia tăng khổng lồ những kết nối và song song với một quá trình định hình mà thông qua đó, các kết nối hình thành được ổn định hoặc bị xóa bỏ tùy theo các tiêu chí chức năng, sử dụng kinh nghiệm và tương tác với môi trường làm tiêu chuẩn xác nhận. Việc tái tổ chức có tính phát triển này tiếp diễn cho đến tuổi 20. Các giai đoạn đầu tiên phục vụ cho việc điều chỉnh các chức năng cảm giác và vận động, còn các giai đoạn sau chủ yếu liên quan đến các hệ thống não bộ chịu trách nhiệm cho những năng lực xã hội. Một khi các quá trình phát triển này kết thúc, các kết nối của bộ não trở nên cố định, và các thay đổi quy mô lớn sẽ không còn khả thi nữa.
Matthieu: Ở một mức độ nào đó thì vậy.
Wolf: Vâng, ở một mức độ nào đó. Những kết nối khớp thần kinh đang tồn tại vẫn có thể sửa đổi, nhưng chúng ta không thể phát triển các kết nối tầm xa mới. Ở một vài vùng đặc trưng của não, như vùng hồi hải mã và hành khứu giác, các tế bào thần kinh mới được sinh ra trong suốt cuộc đời và được chèn vào những mạch đang hiện hữu, nhưng tiến trình này không có quy mô lớn, ít nhất là không trong phần tân vỏ não, nơi mà các chức năng nhận thức cao hơn được cho là sẽ được thực hiện.
Matthieu: Một nghiên cứu về những người đã thực hành thiền định trong một thời dài cho thấy rằng sự kết nối về mặt cấu trúc giữa các khu vực khác nhau của não bộ ở những thiền giả cao hơn hẳn so với người không thiền. Như vậy, phải có một dạng thay đổi nào đó được bộ não cho phép.
CÁC QUY TRÌNH BIẾN ĐỔI THẦN KINH
Wolf: Tôi không gặp khó khăn trong việc thừa nhận một quá trình học tập có thể thay đổi sự phân bố hành vi, ngay cả ở người đã trưởng thành. Có nhiều bằng chứng về việc này từ các chương trình giáo dục lại, nơi mà việc thực hành dẫn đến những thay đổi nhỏ nhưng tăng dần về hành vi. Cũng có những bằng chứng khác cho những thay đổi khá kịch tính và đột ngột trong nhận thức, trạng thái cảm xúc và các chiến lược đối phó. Trong trường hợp này, chính các cơ chế hỗ trợ cho việc học – phân phối những thay đổi trong hiệu suất của các kết nối khớp thần kinh – dẫn đến sự biến đổi mạnh mẽ của các trang thái não bộ chung. Lý do là bởi trong một hệ thống phi tuyến, phức tạp cao như não bộ, những thay đổi tương đối nhỏ trong việc ghép nối các tế bào thần kinh có thể dẫn đến những sự hoán chuyển giai đoạn mà có thể làm thay đổi triệt để các đặc tính của hệ thống. Điều này có thể xảy ra trong sự kết hợp với những trải nghiệm đau thương hoặc xúc cảm bộc phát mạnh mẽ. Sự khởi phát đột ngột hiếm hoi của rối loạn tâm thần cũng có thể do những thay đổi trạng thái chung như vậy, nhưng đây có lẽ không phải là điều xảy ra với thiền định vì sự luyện tập này dường như dẫn đến những thay đổi chậm chạp.
Matthieu: Bạn cũng có thể thay đổi dòng chảy hoạt động của các tế bào thần kinh, giống như khi lưu lượng giao thông trên đường tăng lên một cách đáng kể.
Wolf: Vâng. Điều mà học tập và rèn luyện thay đổi ở người trưởng thành là dòng chảy của hoạt động. Phần cứng cố định của những kết nối giải phẫu khá ổn định sau tuổi 20, nhưng vẫn có khả năng định tuyến hoạt động một cách linh hoạt từ A đến B hoặc từ A đến C bằng cách thêm các dấu hiệu nhất định vào những hoạt động mà đảm bảo rằng một khuôn mẫu kích hoạt nào đó không phát tán tới tất cả các vùng não được kết nối mà chỉ gửi đến các vùng đích đã được chọn. Sức mạnh của sự tương tác giữa các trung tâm có thể được sửa đổi bằng cách thực sự điều biến hiệu suất của các khớp thần kinh kết nối hoặc cấu hình năng động những đường cao tốc ảo. Chiến lược sau có lẽ dựa trên nguyên tắc giống như điều chỉnh kênh để nhận sóng của một đài phát thanh cụ thể nào đó. Thiết bị nhận có cùng một tần số dao động như nguồn phát. Trong bộ não, vô số nguồn phát đều trong trạng thái hoạt động mọi lúc. Những thông điệp của chúng phải được dẫn truyền đến những mục tiêu cụ thể một cách có chọn lọc, và việc định tuyến này phải tùy thuộc vào nhiệm vụ. Do đó, các mạng lưới chức năng khác nhau cần được cấu hình trong từng khoảnh khắc, và điều này phải đạt được tại quy mô thời gian nhanh hơn nhiều so với những thay đổi hiệu suất của khớp thần kinh mà phụ thuộc vào việc học. Giai đoạn rèn luyện trong thiền định có lẽ đang tận dụng những hiệu chỉnh chậm và liên quan đến học tập về hiệu suất của các khớp thần kinh, trong khi sự tương tác nhanh ở một trạng thái thiền định nhất định, điều các chuyên gia dường như làm được, có khả năng dựa vào những chiến lược định tuyến năng động hơn.
Matthieu: Vì vậy, bạn có thể từ từ giảm dần lưu lượng trên con đường thù hận và mở rộng những con đường từ bi. Cho đến nay, kết quả của các cuộc nghiên cứu thực hiện với những thiền giả đã trải qua huấn luyện cho thấy rằng họ có năng lực tạo ra những trạng thái tâm trí tinh khiết, mạnh mẽ, rõ ràng, và năng lực này có liên quan đến một số mô hình não bộ cụ thể. Việc rèn luyện tinh thần cho phép con người sản sinh ra những trạng thái theo ý muốn và điều chỉnh cường độ của chúng, ngay cả khi đối mặt với những hoàn cảnh phiền não, ví dụ như những kích thích cảm xúc mạnh mẽ mang tính tích cực hoặc tiêu cực. Từ đó, người ta đạt được khả năng duy trì sự cân bằng cảm xúc nói chung, điều sẽ hỗ trợ cho sức mạnh nội tại và sự an lạc.
Wolf: Vì vậy, ngài phải sử dụng khả năng nhận thức của mình để xác định rõ hơn và phác họa kỹ hơn những trạng thái cảm xúc khác nhau, phải rèn luyện hệ thống điều khiển của mình, có thể nằm ở thùy trán để tăng hoặc giảm có chọn lọc hoạt động của các hệ thống phụ chịu trách nhiệm cho việc tạo nên những cảm xúc khác nhau.
Matthieu: Bạn chắc chắn có thể tinh chỉnh kiến thức của mình về những khía cạnh khác nhau của các quá trình tinh thần.
Wolf: Dĩ nhiên. Ngài nhận thức được chúng, và ngài có thể quen với chúng bằng cách tập trung sự chú ý của mình vào và sau đó phân biệt chúng, tạo thành các ranh giới hạng mục như người ta vẫn làm khi nhận thức thế giới bên ngoài.
Matthieu: Bạn cũng có thể xác định những quá trình tinh thần dẫn đến khổ đau và tách biệt chúng khỏi những quá trình mang đến hạnh phúc, tách biệt những quá trình nuôi dưỡng sự rối loạn tinh thần khỏi những quá trình lưu giữ sự nhận thức sáng suốt.
Wolf: Một điều khác tương tự quá trình sàng lọc này là khả năng phân biệt các đối tượng nhận thức được cải thiện tùy theo việc học tập. Chỉ với chút ít kinh nghiệm, chúng ta đã có thể nhận ra một con vật là con chó. Với nhiều trải nghiệm hơn, chúng ta có thể làm đôi mắt mình sắc bén và có khả năng phân biệt với độ chính xác cao hơn những con chó có vẻ ngoài giống nhau. Tương tự như vậy, việc luyện tâm có thể giúp bạn trau chuốt đôi mắt nội tại để phân biệt các trạng thái cảm xúc. Trong trạng thái chất phác, bạn chỉ có thể phân biệt được những cảm xúc tốt và xấu một cách chung chung. Với rèn luyện, những tách biệt này sẽ trở nên ngày càng tinh tế cho đến khi bạn có thể phân biệt được nhiều sắc thái khác nhau. Khi đó, việc phân loại các trạng thái tinh thần sẽ trở nên khác biệt hơn. Nếu như vậy thì các nền văn hóa đang khai phá việc rèn luyện tâm như một nguồn của tri thức phải có một vốn từ vựng phong phú cho các trạng thái tinh thần hơn là các nền văn hóa dành nhiều sự quan tâm cho việc điều tra hiện tượng của thế giới bên ngoài.
CÁC SẮC THÁI CẢM XÚC
Matthieu: Hệ thống phân loại Phật giáo mô tả 58 sự kiện tinh thần chính và nhiều sự kiện phụ khác nhau. Khá đúng rằng khi tiến hành một điều tra sâu sắc về các sự kiện tinh thần, người ta ngày càng có khả năng phân biệt các sắc thái vi tế. Nếu bạn nhìn vào một bức tường từ xa, nó sẽ trông khá đồng nhất. Tuy nhiên, nếu nhìn gần, bạn sẽ thấy rất nhiều điểm không hoàn hảo: bề mặt không bằng phẳng, có những lỗ hổng, những chỗ gồ lên, nhiều đốm trắng, vàng, đen v.v. Tương tự, khi chúng ta nhìn sâu vào cảm xúc của mình, ta thấy rằng chúng có rất nhiều khía cạnh khác nhau. Hãy lấy cơn giận làm ví dụ. Thường thì sự tức giận có thể bao gồm một thành phần là ác ý, nhưng nó cũng có thể là sự phẫn nộ đúng đắn khi đối mặt với bất công. Giận dữ có thể là một phản ứng cho phép chúng ta nhanh chóng vượt qua một trở ngại ngăn cản mình đạt được được một điều gì đó giá trị hoặc loại bỏ một chướng ngại đang đe dọa chúng ta. Tuy nhiên, nó có thể cũng phản ánh là chúng ta có khuynh hướng dễ dàng nóng giận.
Nếu bạn nhìn kỹ cơn giận, bạn sẽ thấy nó chứa đựng các khía cạnh rõ ràng, tập trung và hiệu quả, mà bản thân chúng không hề gây hại. Tương tự như vậy, ham muốn có yếu tố phúc lạc khác biệt với chấp trước, kiêu hãnh có yếu tố tự tin mà không sa vào kiêu ngạo, và ghen tỵ kéo theo một động lực hành động mà bản thân nó vẫn chưa bị lừa dối, như thứ mà sau này nó sẽ trở thành khi trạng thái tâm trí đố kỵ tai hại xen vào.
Vì vậy, nếu bạn có khả năng nhận ra những khía cạnh vẫn chưa tiêu cực đó và để tâm trí mình ở nguyên trong chúng, mà không trôi dạt đến các phương diện phá hoại, thì bạn sẽ không gặp rắc rối và hoang mang trước những cảm xúc này. Chắc chắn quá trình này không dễ, nhưng người ta có thể trau dồi nó thông qua kinh nghiệm.
NHỮNG KỸ NĂNG DỄ DÀNG
Matthieu: Một kết quả khác của việc trau dồi kỹ năng tinh thần là sau một thời gian, bạn sẽ không còn phải ép mình nỗ lực nữa. Bạn có thể đối phó với sự phát sinh của các nhiễu loạn tinh thần như những chú đại bàng mà tôi thấy từ cửa sổ ẩn thất của mình trên dãy Himalaya. Lũ quạ thường xuyên tấn công chúng, mặc dù quạ nhỏ hơn nhiều. Chúng lao từ trên cao, dùng mỏ tấn công đại bàng. Tuy nhiên, thay vì cảnh giác và bay vòng quanh để tránh lũ quạ, đại bàng chỉ đơn giản là thu một cánh về tại thời khắc cuối cùng, để lũ quạ đâm bổ qua, và sau đó lại tiếp tục giương cánh trở lại. Toàn bộ quá trình này đòi hỏi rất ít nỗ lực và vô cùng hiệu quả. Việc có kinh nghiệm đối phó với những xúc cảm phát sinh đột ngột trong tâm trí cũng hoạt động theo một cách tương tự. Khi bạn có thể duy trì trạng thái nhận thức rõ ràng, bạn sẽ thấy những ý niệm khởi phát, bạn để cho chúng đi ngang qua tâm trí mình mà không cố gắng ngăn chặn hoặc khuyến khích chúng, và chúng sẽ biến mất mà không để lại nhiều dấu vết.
Wolf: Điều đó nhắc tôi nhớ về những việc làm của mình khi gặp phải những khó khăn nghiêm trọng đòi hỏi những giải pháp nhanh, chẳng hạn như một tình huống giao thông phức tạp. Chúng ta ngay lập tức nhớ lại một bản danh mục các chiến lược đào thoát mà ta đã được học và thực hành, sau đó chọn lựa chủ yếu dựa trên kinh nghiệm vô thức mà không có quá nhiều lý trí. Rõ ràng, nếu chúng ta không có kinh nghiệm với việc thực hành chiêm nghiệm, chúng ta sẽ không thể tốt nghiệp “trường quản lý những xung đột về cảm xúc”. Ngài có cho đây là một sự so sánh hợp lý không?
Matthieu: Đúng, các tình huống phức tạp trở nên đơn giản hơn rất nhiều thông qua rèn luyện và sự trau dồi nhận thức. Khi bạn học cưỡi ngựa, lúc mới bắt đầu, bạn thường xuyên bận tâm, lúc nào cũng cố gắng để không ngã. Đặc biệt khi con ngựa bắt đầu phi nước đại, bạn rơi vào trạng thái cảnh giác cao độ. Nhưng khi bạn trở thành một tay đua chuyên nghiệp, mọi thứ trở nên dễ dàng hơn. Chẳng hạn như những tay đua ở miền Đông Tây Tạng có thể làm tất cả những trò nhào lộn, ví như bắn tên vào mục tiêu hoặc tóm lấy một thứ gì đó trên mặt đất, trong khi vẫn phi nước đại, và họ làm việc đó một cách dễ dàng với nụ cười tươi rói luôn nở trên môi.
Một nghiên cứu với các thiền giả cho thấy họ có thể duy trì sự tập trung ở mức tối đa trong một thời gian dài. Khi thực hiện một nhiệm vụ kéo dài, ngay cả sau 45 phút, họ vẫn không hề trở nên căng thẳng và không bị phân tâm dù chỉ một khắc. Khi tôi tự mình làm nhiệm vụ này, tôi nhận thấy rằng vài phút đầu tiên có tính thử thách và đòi hỏi nhiều nỗ lực, nhưng một khi đã bước vào trạng thái chú tâm thì nó trở nên dễ dàng hơn.
Wolf: Điều này giống như một chiến lược chung mà bộ não áp dụng khi đạt được những kỹ năng mới. Trong trạng thái chất phác, người ta sử dụng sự kiểm soát có ý thức để thực hiện một nhiệm vụ. Nhiệm vụ lại được chia nhỏ thành một chuỗi các nhiệm vụ con mà sẽ được thực hiện tuần tự. Điều này đòi hỏi sự chú ý, tốn thời gian, và cần nỗ lực. Sau đó, khi đã rèn luyện, việc thực hiện sẽ trở nên tự động hóa. Thông thường, việc thực thi những hành vi khéo léo khi đó được hoàn thành bởi các cấu trúc não bộ khác với các cấu trúc não bộ liên quan đến việc học tập và thực hiện ban đầu. Một khi sự thay đổi này xảy ra, việc thực hiện trở nên tự động, nhanh chóng, dễ dàng và không còn đòi hỏi phải kiểm soát về nhận thức nữa. Loại hình học tập này được gọi là học tập theo quy trình và yêu cầu phải thực hành. Những kỹ năng được tự động hóa này thường sẽ cứu bạn trong những tình huống khó khăn vì bạn có thể truy cập chúng một cách nhanh chóng. Chúng cũng có thể thường xuyên đương đầu với nhiều biến số đồng thời nhờ việc xử lý xong song. Việc xử lý có ý thức được tuần tự hóa hơn, và do đó, cũng tốn nhiều thời gian hơn. Ngài có nghĩ rằng mình có thể áp dụng cùng một chiến lược học tập này cho những cảm xúc bằng cách học chú ý đến chúng, phân biệt chúng, và từ đó, làm quen với động năng của chúng để sau này có thể dựa vào các quy trình tự động để quản lý chúng trong những trường hợp xung đột không?
Matthieu: Bạn dường như đang mô tả quá trình thiền định. Theo giáo lý thì khi người ta bắt đầu thiền, trên sự từ bi, chẳng hạn thế, thì người đó trải qua một hình thức từ bi nhân tạo, miễn cưỡng. Tuy nhiên, bằng cách tạo ra lòng từ bi hết lần này đến lần khác, nó trở thành bản năng thứ hai và sẽ phát ra một cách tự nhiên, ngay cả khi ở giữa một tình huống phức tạp và đầy thử thách. Khi lòng từ bi thực sự trở thành một phần trong luồng tâm trí mình, bạn không phải nỗ lực đặc biệt để duy trì nó. Chúng tôi gọi đó là “thiền mà không thiền”, có nghĩa bạn không chủ động “thiền”, nhưng đồng thời bạn cũng không bao giờ tách khỏi thiền. Bạn đơn giản là an trú dễ dàng mà không bị xao nhãng trong trạng thái tâm trí thiện lành, từ bi này.
Wolf: Sẽ thực sự thú vị nếu quan sát, với những công cụ của thần kinh học, rằng liệu ngài có cùng sự thay đổi chức năng mà ngài quan sát trong những trường hợp khác, những trường hợp mà việc làm quen thông qua học tập và rèn luyện dẫn đến sự tự động hóa các quy trình, hay không. Trong quá trình quét bộ não, người ta quan sát thấy rằng các cấu trúc não bộ được kích hoạt khi ban đầu các kỹ năng được thực hiện dưới sự kiểm soát của ý thức khác với các cấu trúc não bộ được kích hoạt khi các kỹ năng này trở nên tự động.
Matthieu: Dường như đây chính là điều được chỉ ra trong một nghiên cứu của Julie Brefczynski và Antoine Lutz tại phòng thí nghiệm của Richard Davidson. Brefczynski và Lutz đã tìm hiểu hoạt động não bộ của những người mới tập thiền, những người đã có trải nghiệm tương đối và những người giàu kinh nghiệm khi những người này tập trung chú ý. Họ quan sát được các khuôn mẫu hoạt động khác nhau, tùy thuộc vào mức độ kinh nghiệm của thiền giả. Những thiền giả có kinh nghiệm tương đối (với trung bình 19.000 giờ thực hành) cho thấy mức độ hoạt động nhiều hơn ở các vùng não liên quan đến sự chú ý so với những người mới. Nhưng nghịch lý thay, những thiền giả giàu kinh nghiệm nhất (với trung bình 44.000 giờ thực hành) đã cho thấy mức độ hoạt động ít hơn những người không có nhiều kinh nghiệm. Những thiền giả cao cấp này có vẻ đã thu được một mức độ kỹ năng cho phép họ đạt được một trạng thái tâm trí tập trung với ít nỗ lực hơn. Các hiệu ứng này giống với kỹ năng của những nhạc sĩ và vận động viên lão luyện có khả năng đắm mình trong “dòng chảy” của màn trình diễn với nỗ lực kiểm soát tối thiểu. Quan sát này phù hợp với những nghiên cứu khác chứng minh rằng khi một người đã làm chủ được một nhiệm vụ, các cấu trúc não tham dự vào quá trình hoàn thành nhiệm vụ thường ít hoạt động hơn so với khi bộ não vẫn đang còn trong giai đoạn học tập.
Wolf: Điều này gợi ý rằng các đoạn mã thần kinh trở nên thưa thớt hơn, có lẽ liên quan đến ít tế bào thần kinh hơn nhưng các tế bào thần kinh lại phải chuyên biệt hơn, một khi những kỹ năng trở nên rất quen thuộc và được thực hiện bởi chuyên môn rất cao. Vậy thì để trở thành một thiền sư đích thực dường như đòi hỏi phải rèn luyện ít nhất như một nghệ sĩ vĩ cầm hoặc dương cầm đẳng cấp thế giới. Nếu luyện tập bốn giờ mỗi ngày, sẽ mất 30 năm thiền định để đạt được 44.000 giờ. Thật phi thường!
LIÊN KẾT VỚI THẾ GIỚI
Matthieu: Rèn luyện tâm trí dẫn đến một sự hiểu biết tinh tế về việc một suy nghĩ hoặc cảm xúc là phiền não, hòa hợp với thực tại hay chỉ dựa trên một nhận thức hoàn toàn méo mó về thực tế.
Wolf: Sự khác biệt giữa hai cái này là gì? Ngài cho rằng trạng thái phiền não đang hành hạ, thu hẹp, che dấu nhận thức đúng đắn – tóm lại, là một trạng thái về cơ bản là tiêu cực, không phù hợp với thực tại. Tôi hoàn toàn hiểu rằng chiến lược của ngài hoạt động tốt nếu mâu thuẫn chỉ bắt nguồn từ bệnh lý của riêng ngài, nhưng hầu hết những xung đột khởi phát từ việc tương tác với thế giới, nơi mà rõ ràng là đầy rẫy xung đột. Có phải ngài không giả định rằng thế giới này là lý tưởng, tốt đẹp và việc thanh tẩy tâm trí con người là đủ để họ có thể nhận thức được thực tế này?
Matthieu: Có hai cách nhìn nhận vấn đề này. Cách thứ nhất là nhận biết một cách rõ ràng những khuyết điểm và thiếu sót của thế giới, nơi chúng sinh hầu hết bị thống trị bởi sự hoang mang về tinh thần, cảm xúc mờ mịt và đau khổ. Cách còn lại là thừa nhận rằng mỗi một và hết thảy chúng sinh trên thế gian này đều có khả năng thoát khỏi những phiền não và hiện thực hóa trí tuệ, lòng từ bi cùng những phẩm chất khác tương tự.
Những trạng thái tinh thần phiền não bắt đầu với việc chỉ quan tâm đến bản thân, làm gia tăng khoảng cách giữa bản thân và người khác, giữa bản thân và thế giới. Chúng được kết hợp với cảm giác phóng đại về tầm quan trọng của bản thân, sự trân trọng bản thân thái quá, thiếu sự quan tâm chân thành dành cho người khác, hy vọng và sợ hãi không hợp lý, bám chấp mãnh liệt vào các đối tượng và con người mình ưa thích. Những trạng thái như vậy đi kèm với một mức độ biến dạng thực tế cao. Người ta củng cố thực tế bên ngoài và tin rằng những phẩm chất tốt hoặc xấu, mong muốn hay không mong muốn của những thứ bên ngoài thực chất là thuộc về họ thay vì hiểu rằng chúng chủ yếu chỉ là những phóng chiếu của tâm trí chúng ta.
Ngược lại, một hành động từ bi vô điều kiện, rộng lượng thuần khiết, như khi bạn làm điều gì đó khiến một đứa trẻ hạnh phúc, giúp đỡ ai đó đang gặp khó khăn, cứu một mạng người, mà không có bất cứ ràng buộc nào, thậm chí không ai biết bạn đã làm gì, tạo ra sự hài lòng và trọn vẹn sâu sắc.
Wolf: Tôi bị cuốn hút bởi thực tế rằng những gì ngài nói với tôi dường như nhấn mạnh vào việc rèn luyện tự thân. Không phải thứ bản ngã ích kỷ, thích sở hữu, mà là bản thể mạnh mẽ và tự tin.
Matthieu: Tôi không nói về sức mạnh của bản ngã hay sự quan tâm quá mức về bản thân, đó là những điều luôn gây rắc rối, mà tôi nói về cảm giác tự tin sâu sắc đến từ việc thu được một số kiến thức về cơ chế bên trong của hạnh phúc và đau khổ, từ việc biết cách đối phó với những cảm xúc, và từ việc gom nhặt các nguồn lực nội tại để xử lý bất cứ điều gì xảy ra trên con đường của bạn.
NGƯỜI TRẺ CÓ THỂ BẮT ĐẦU THIỀN NHƯ THẾ NÀO?
Wolf: Tôi xin lấy chính mô tả của ngài là việc thiền định đòi hỏi một mức độ kiểm soát nhận thức cao. Tuy nhiên, việc kiểm soát nhận thức phụ thuộc vào vỏ não trước trán, thứ chỉ trở nên đầy đủ chức năng vào cuối giai đoạn dậy thì. Điều này có ngụ ý rằng chỉ có những người trưởng thành mới có thể thực hành thiền định? Nếu không thì phải chăng không thích hợp khi bắt đầu thiền định càng sớm càng tốt để tận dụng sự dẻo dai của não bộ và khiến nó trở thành một phần không thể thiếu của giáo dục? Chúng ta biết rằng việc thu được những khả năng khác, ví dụ như chơi đàn vĩ cầm hay học một ngôn ngữ thứ hai, đều dễ dàng hơn khi còn nhỏ. Vậy trẻ em có thể làm chủ một kỹ thuật đòi hỏi quá nhiều khả năng kiểm soát nhận thức hay không?
Matthieu: Quả thực có những giai đoạn trong sự phát triển cảm xúc của chúng ta, nhưng tôi nghĩ rằng thậm chí trong những giai đoạn đầu, vẫn có khả năng để thực hiện một số loại rèn luyện. Trong tu viện của chúng tôi ở Shechen, chúng tôi thường dạy thiền cho trẻ em và những người trẻ (từ 8 đến 14 tuổi) theo cách không chính thống. Nhưng chúng thực sự tham gia vào những nghi lễ dài trong chùa. Những nghi lễ này giống như việc hành thiền tập thể và trong suốt thời gian diễn ra luôn có một bầu không khí nhẹ nhàng, tĩnh lặng, giúp cảm xúc được ngơi nghỉ, vì vậy trẻ con bắt đầu được tiếp xúc với những trạng thái tâm trí này ở độ tuổi nhỏ. Tôi chắc chắn rằng việc cung cấp một môi trường xoa dịu tâm trí đem lại rất nhiều lợi ích, hơn là liên tục khuấy lên những làn sóng cảm xúc rối loạn, như thường xảy ra ở phương Tây, với tiếng ồn, bạo lực trên truyền hình, trò chơi điện tử và những điều tương tự.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh Phật giáo truyền thống, trẻ nhỏ chủ yếu được dạy qua việc làm gương. Chúng thấy cha mẹ và các bậc đạo sư của chúng cư xử trên cơ sở các nguyên tắc bất bạo động đối với con người, động vật và môi trường. Người ta không thể đánh giá thấp sức mạnh của sự lan truyền cảm xúc, cũng như sự lan truyền cách sống. Những phẩm chất bên trong của một người có ảnh hưởng vô cùng to lớn đến những ai chia sẻ cuộc sống với họ. Một trong những vấn đề quan trọng nhất là giúp bọn trẻ có được những kỹ năng trong việc xác định cảm xúc của chúng cũng như của những người khác, và cho chúng thấy những phương pháp cơ bản trong việc đối phó với những cơn bùng nổ cảm xúc.
Wolf: Đây là một trong những mục tiêu của mọi hệ thống giáo dục, để tăng cường khả năng kiểm soát cảm xúc của con người, và một danh mục các công cụ có sẵn để đạt được điều này: khen thưởng và trừng phạt, tạo nên sự gắn kết với các tấm gương, những trò chơi mang tính giáo dục, kể chuyện v.v. Tất cả các nền văn hóa đã công nhận những phẩm chất tốt đẹp của việc kiểm soát cảm xúc và phát triển một loạt các chiến lược giáo dục khác nhau theo hướng này.
Matthieu: Tôi phải nói thêm rằng mặc dù để đạt được sự ổn định lâu dài trong việc kiểm soát cảm xúc chắc chắn đòi hỏi một mức độ trưởng thành nào đó, nhưng vẫn có khả năng bắt đầu quá trình này ngay khi còn nhỏ. Trẻ em luôn tìm thấy những chiến thuật để cân bằng lại cảm xúc và sự an lạc nội tại sau khi trải qua những biến động tình cảm. Trong một cuốn sách có tên The Joy of Living (Sống một đời vui), thiền sư Mingyur Rinpoche kể lại khi còn bé ông rất hay lo lắng và thường xuyên bị hoảng loạn. Khi đó ông sống ở Nubri, trong những dãy núi của Nepal gần biên giới với Tây Tạng. Thiền sư vốn xuất thân từ một gia đình tốt đẹp, đầy yêu thương – cha và ông nội của ông đều là những thiền sư lớn – và không trải qua bất kỳ biến cố đau thương đặc biệt nào, nhưng ông lại có những cơn bùng phát nỗi sợ hãi bên trong không thể kiểm soát được. Đến năm ông sáu hoặc bảy tuổi, ông đã tìm ra cách để giảm bớt những cơn hoảng loạn của mình. Thiền sư thường tìm đến một cái cốc gần nhà và ngồi đó một mình, thiền theo cách riêng trong vài giờ. Ông cảm thấy một cảm giác hoan hỷ, bình yên và nhẹ nhõm, như thể ông đang tắt ngọn lửa đi, và ông thực sự trân trọng phẩm chất của những giây phút chiêm nghiệm đó. Tuy nhiên, điều đó là không đủ để giúp ông thoát khỏi sự lo lắng đang dần xâm chiếm trở lại.
Đến năm 13 tuổi, ông cảm thấy có một khát vọng mãnh liệt được thực hiện một khóa tu chiêm nghiệm và đã tham gia khóa tu truyền thống kéo dài ba năm thường được thực hành trong Phật giáo Tây Tạng. Ban đầu, mọi thứ thậm chí còn trở nên tệ hơn. Vì vậy, một ngày nọ, thiền sư quyết định thế là quá đủ và đã đến lúc ông phải sử dụng tất cả những lời dạy nhận được từ cha mình để đi sâu vào vấn đề của bản thân. Ông đã thiền liên tục trong ba ngày không nghỉ, không rời khỏi phòng và nhìn sâu vào bản chất của tâm trí. Đến cuối của quá trình ấy, ông đã thoát khỏi nỗi lo lắng của mình mãi mãi. Giờ đây, khi bạn gặp người đàn ông vô cùng tốt bụng, ấm áp và cởi mở này, người tỏa ra sự an lành và an lạc nội tại, thể hiện sự ấm áp và khiếu hài hước tuyệt vời cũng như chỉ dạy với sự trong trẻo về bản chất của tâm trí, bạn sẽ cảm thấy khó mà tin rằng ông đã từng trải nghiệm bất cứ vấn đề gì liên quan đến lo lắng. Ông là một bằng chứng sống về sức mạnh của việc rèn luyện tâm trí và hơn nữa là khả năng để bắt đầu nó từ khi còn là một đứa trẻ.
NHỮNG BIẾN DẠNG TINH THẦN
Wolf: Ở Đức, chúng tôi có câu nói “Komm zu dir”, có nghĩa là “cắt đứt chuỗi”, những sợi dây gắn kết chúng ta với một thứ gì đó, khiến chúng ta làm những gì người khác muốn, tin những gì người khác tin, trở nên tử tế vì ai đó muốn chúng ta phải tử tế. Nếu ai đó bị kẹt trong mạng lưới phụ thuộc này thì chúng tôi nói rằng họ đang “đánh mất chính mình”. Đó là lý do vì sao một môi trường có tác dụng bảo vệ nhưng vẫn hào phóng trao quyền tự quyết là không thể thiếu, miễn là cơ chế kiểm soát nhận thức của trẻ đủ mạnh để bảo vệ chúng khỏi đánh mất bản thân trước những xâm phạm và kỳ vọng áp đặt.
Matthieu: Khi bình tĩnh lại sau một cơn giận dữ, chúng ta thường nói: “Đó không phải là tôi” hay “Tôi đã không là chính mình”.
Wolf: “Ich war außer mir” – “Tôi đã đánh mất chính mình” – chúng tôi thường nói như vậy trong tiếng Đức. Cuộc sống thỉnh thoảng lại ném chúng ta vào những tình huống mà chúng ta không thể đối phó bằng cách giữ bình tĩnh và nó khiến ta “đánh mất chính mình”. Tuy nhiên, chúng ta đã phát triển những chiến lược để phục hồi trạng thái cân bằng. Một số có thể là bẩm sinh, trong khi số còn lại có thể đạt được bằng cách học tập.
Matthieu: Điều này chính là thành quả của việc thực hành. Những xúc cảm mạnh mẽ vẫn có thể nảy sinh trong tâm trí, nhưng thay vì xâm chiếm và chế ngự tâm trí, chúng tan biến như một lời thì thầm.
Wolf: Nghe thật tuyệt vời. Thông thường, phải mất khá lâu để trở về trạng thái tĩnh lặng. Một trong những lý do là bởi các hoóc-môn căng thẳng được tiết ra trong những tình huống gây khó chịu cao độ biến mất khá chậm.
Matthieu: Với kinh nghiệm thì không cần phải mất quá nhiều thời gian. Trên thực tế, nó có thể hạ xuống nhanh như sữa nóng được nhấc ra khỏi lửa. Nếu bạn để cho cảm xúc, ngay cả những cảm xúc mạnh mẽ nhất, đi qua tâm trí mình mà không đổ dầu vào nó, không để vòng xoáy suy nghĩ vượt ngoài tầm kiểm soát, thì cảm xúc sẽ không kéo dài và tự tan biến.
SỰ CHÚ Ý VÀ KIỂM SOÁT NHẬN THỨC
Wolf: Lúc trước, chúng ta đã nói chuyện về khả năng sử dụng việc rèn luyện tinh thần như một công cụ để điều chỉnh con mắt nội tâm và năng lực sử dụng sự chiêm nghiệm để khám phá các chức năng nhận thức của não cũng như học cách hình thành các hạng mục cảm xúc cùng các hạng mục quá trình nhận thức được phân biệt rõ hơn, theo cùng một phương pháp mà người ta dùng để điều chỉnh nhận thức theo thế giới bên ngoài. Những chuyên gia trong các nhà máy nước hoa, những “chiếc mũi”, học hỏi thông qua thực hành để phân biệt các hỗn hợp mùi mà hầu hết chúng ta đều ngửi thấy giống nhau. Có thể hình dung rằng việc rèn luyện tinh thần làm được điều tương tự với khả năng nhận thức của não bộ và giúp tăng cường sự nhận biết về các quá trình nhận thức của riêng mỗi người. Điều này thực sự đòi hỏi một lượng kiểm soát nhận thức đáng kể bởi vì trong trường hợp này, sự chú ý – không giống với trường hợp của những “chiếc mũi” – phải hướng đến các quá trình bắt nguồn từ bên trong bộ não.
Hiện nay có những bằng chứng sinh học thần kinh thuyết phục cho thấy rằng việc rèn luyện tinh thần sử dụng các cơ chế chú ý để kích hoạt và phân tích những quy trình nội bộ mà từ đó chúng có thể trở thành đối tượng của các quá trình học tập. Tôi muốn ám chỉ đến công trình tiên phong của Richard Davidson và Antoine Lutz, những người đã ghi lại điện não đồ của ngài và các thiền giả khác khi các ngài đang thiền. Khi tôi lần đầu tiên thấy những dữ liệu này tại buổi hội thảo được tổ chức ở Paris để tưởng nhớ Francisco Varela, một người bạn tốt của cả hai chúng ta, tôi đã bị sốc bởi sự thật là có một sự gia tăng đáng kinh ngạc về biên độ dao động ở dải tần số 40 Hz, tức tần số gamma, trong bộ não của các thiền giả. Những dao động này đã được phát hiện khoảng 25 năm trước trong vỏ não thị giác và bị nghi ngờ là đóng một vai trò quan trọng trong những quá trình nhận thức. Kể từ đó, nhiều công trình đã được thực hiện để nghiên cứu các chức năng giả định của những dao động và sự đồng bộ trong quá trình xử lý thần kinh.
Trong số nhiều chức năng khác nhau mà việc tạo hình tạm thời của hoạt động thần kinh này có khả năng thực hiện, sự tham gia của nó vào các cơ chế chú ý là đặc biệt quan trọng trong bối cảnh hiện tại. Một vài phòng thí nghiệm đã cung cấp bằng chứng cho thấy sự chú ý tập trung có liên hệ với việc tăng cường dao động gamma và sự đồng bộ thần kinh. Nếu sự chú ý được hướng đến một hệ thống con nào đó trong não bộ để chuẩn bị cho việc xử lý, người ta sẽ quan sát thấy sự gia tăng đồng loạt của dao động gamma trong hệ thống đó. Nếu bạn định hướng sự chú ý của mình vào một đối tượng thị giác thì việc dự đoán phải xử lý những tín hiệu từ đối tượng thị giác này sẽ làm tăng hoạt động dao động trong dải tần số beta và gamma ở trung khu thị giác nằm trong võ não.
Tương tự như vậy, nếu người ta dự đoán rằng mình sẽ phải xử lý một tín hiệu thính giác, và phải sử dụng tín hiệu này để khởi đầu cho một hành động vận động, thì bộ não sẽ bắt đầu đồng bộ hóa hoạt động dao động giữa các khu vực sẽ tham gia vào quá trình đó trong tương lai – trong trường hợp này là vỏ não thính giác, khu vực tiền vận động và vận động. Điều này tạo điều kiện cho việc “bắt tay” nhanh chóng giữa các khu vực liên quan cũng như chuẩn bị sự phối hợp cần thiết giữa các cấu trúc cảm giác và điều hành.
Do đó, khi một kích thích thực sự xuất hiện thì các phản ứng với kích thích này được tăng cường và đồng bộ hóa tốt hơn so với khi kích thích không được dự đoán. Điều kiện tiên quyết này là cần thiết để đảm bảo việc xử lý thông tin nhanh chóng và truyền dẫn kết quả tính toán an toàn trên mạng lưới vỏ não.
Hiện tượng cạnh tranh hai mắt minh họa cho mối quan hệ mật thiết giữa hoạt động dao động đồng bộ, nhận thức có ý thức và sự chú ý. Nếu hai mắt được tiếp nhận các khuôn mẫu khác nhau mà không thể hợp nhất thành một hình ảnh mạch lạc duy nhất, thì sẽ chỉ một trong hai hình ảnh được tiếp nhận trong mỗi một thời điểm nhất định. Ví dụ, nếu một tập hợp những đường thẳng đứng được hiển thị cho mắt phải và một tập hợp các đường ngang được hiển thị cho mắt trái, thì người ta sẽ không cảm nhận thấy sự chồng lên nhau của chúng như một cái bàn cờ. Thay vào đó, người ta chỉ thấy hoặc những đường thẳng đứng hoặc những dòng kẻ ngang, và những cảm nhận này liên tục luân phiên nhau sau mỗi vài giây bởi cơ chế chuyển mạch bên trong. Vậy câu hỏi là quá trình lựa chọn và chuyển đổi này đạt được ở cấp độ tế bào thần kinh như thế nào?
Ở những giai đoạn đầu của quá trình xử lý thị giác ở khu vực vỏ não thị giác chính, sự chuyển đổi trong nhận thức này được kết nối với một thay đổi trong việc đồng bộ hóa các phản ứng thần kinh với những kích thích. Kích thích này, thực sự được cảm nhận tại một thời điểm nhất định, gợi lên những phản hồi được đồng bộ hóa tốt hơn trong phạm vi dải tần 40 Hz so với những phản hồi với kích thích không được cảm nhận tại thời điểm đó. Về mặt vật lý, mỗi mắt luôn “nhìn thấy” cùng một khuôn mẫu trong mọi lúc, nhưng chủ thể chỉ cảm nhận được là dọc hoặc là ngang. Các thí nghiệm này cho thấy rằng các tín hiệu tri giác dễ dàng tiếp cận mức độ xử lý có ý thức hơn nếu chúng được đồng bộ hóa tốt.
Matthieu: Tại sao việc chuyển đổi này xảy ra mà không có một chủ thể có thể kiểm soát được nó?
Wolf: Những tín hiệu đến từ mắt trái hoặc mắt phải bị ức chế để tránh việc nhìn thấy những hình ảnh kép. Chúng ta thực hiện việc ức chế này mọi lúc mà không nhận thức được nó, và chỉ trong điều kiện thí nghiệm, chúng ta mới chú ý đến hiện tượng ức chế nội nhãn này. Bởi vì nó liên quan đến một quá trình nội bộ để quyết định tín hiệu cảm giác đang hiện hữu nào nên được tiếp cận với ý thức, nên sự ức chế nội nhãn thường được sử dụng như một mô hình để điều tra các dấu hiệu của hoạt động thần kinh, vốn là điều kiện cần thiết để bất kỳ hoạt động thần kinh nào đạt đến mức độ nhận thức có ý thức. Trong bối cảnh này, điều đáng chú ý là những người thực hành thiền định có thể chủ ý làm chậm tỷ lệ luân phiên của sự cạnh tranh hai mắt. Tôi đã tự mình trải nghiệm điều này sau vài ngày thực hành thiền định trong khi nhìn chằm chằm vào bức tường trắng trước mặt. Như tôi có thể suy luận từ những đổi thay ở vùng ngoại vi xa của thị giác, những tín hiệu được hai mắt truyền đến não bộ bị ức chế luân phiên với nhịp độ chậm đáng kể là vài giây.
Matthieu: Tôi đã làm điều đó một lần với Brent Field tại phòng thí nghiệm của Anne Treisman ở Princeton và tôi nhận ra rằng có thể làm chậm quá trình chuyển đổi tự động giữa hình ảnh bên trái và bên phải cũng như giữ nhận thức chỉ một hình ảnh duy nhất lên đến 30 giây hoặc thậm chí là một phút.
Wolf: Mối tương quan về mặt thần kinh giữa nhận thức có ý thức với việc xử lý vô thức có vẻ là một sự gia tăng đột ngột và mạnh mẽ của giai đoạn đồng bộ chính xác – hoặc cũng có thể nói là sự kết hợp của hoạt động dao động, trước tiên là trong dải tần số gamma và sau đó là trong giai đoạn duy trì cũng trong những dải tần số thấp hơn. Việc tiếp cận vào ý thức dường như đòi hỏi trạng trái tổng thể của bộ não phải vô cùng trật tự.
Matthieu: Vậy nó tương tự như “thí nghiệm khuôn mặt Mooney” của Francisco Varela?
Wolf: Vâng, nó liên quan khá gần với thí nghiệm những khuôn mặt Mooney của Francisco. Ông đã nhận thấy một sự gia tăng của dao động gamma và sự đồng bộ giữa các vùng vỏ não, khi các đối tượng có khả năng xác định một khuôn mặt người trong những bức ảnh chỉ bao gồm các đường đen và trắng. Nếu họ không nhìn thấy khuôn mặt và chỉ nhận thấy những đường vô nghĩa thì các dao động gamma có biên độ nhỏ hơn và cũng được đồng bộ kém hơn.
Giờ đây, chuyến du ngoạn này đã khá dài nhưng là cần thiết, vì ngài sẽ thấy rằng nó liên hệ mật thiết với mối tương quan giữa thần kinh với thiền định – điều mà Richard Davidson đã nhìn thấy trong não ngài khi ngài hành thiền.
Matthieu: Tất nhiên không chỉ riêng tôi, mà còn vài thiền giả khác…
Wolf: …khá nhiều người khác, may mắn thay, bởi vì trong khoa học cần sự lặp lại. Ông ấy đã thấy sự gia tăng đáng ngạc nhiên của một hoạt động dao động ở tần số gamma trong khoảng từ 40 – 60 Hz.
Tuy nhiên, quan sát thú vị nhất là sự gia tăng này xảy ra trên vùng não trung tâm và não trước mà không xảy ra, như trường hợp khi hướng sự chú ý ra thế giới bên ngoài, trên các khu vực cảm giác. Phát hiện này cho thấy rằng ngài đã dùng cơ chế chú ý của mình để tập trung sự chú ý vào quá trình ở vùng vỏ não cao hơn, những khu vực xử lý các khái niệm, biểu tượng có tính trừu tượng cao, và có thể là cả cảm giác và xúc cảm.
Rất khó dùng điện não đồ để xác định vị trí các khu vực được kích hoạt, nhưng nguồn gốc của hoạt động này có khả năng không nằm ở các khu vực cảm giác chính bởi không có sự kích thích giác quan. Một sai lầm nguy hiểm trong những phương pháp như vậy là các tạo tác do những quá trình phi thần kinh gây ra, ví dụ như co thắt cơ và chuyển động mắt. Tôi hy vọng rằng những nguồn có khả năng gây ra những tạo tác này đã được kiểm soát trong các thí nghiệm trên các thiền giả.
Một cách giải thích những phát hiện này là ngài cố tình kích hoạt những hình ảnh đại diện ở bên trong, tập trung sự chú ý vào chúng, và sau đó xử lý chúng theo cách tương tự như khi ngài xử lý thông tin bên ngoài. Ngài áp dụng khả năng nhận thức của mình vào các sự kiện bên trong.
Matthieu: Hoặc bạn giữ một nhận thức tổng hợp về một trạng thái cụ thể mà mình đang cố gắng phát triển, chẳng hạn như từ bi, và duy trì trạng thái thiền này trong từng khoảnh khắc –
Wolf: – giữ cho sự chú ý của ngài tập trung vào những trạng thái nội tại xác định, có thể là cảm xúc hoặc nội dung của trí tưởng tượng. Về bản chất, nó là chiến lược người ta áp dụng với nhận thức về thế giới bên ngoài – ngoại trừ việc hầu hết chúng ta đều ít quen thuộc với việc tập trung sự chú ý vào các trạng thái bên trong.
Matthieu: Điều này phù hợp với định nghĩa thiền định, tức là sự trau dồi một trạng thái tâm trí đặc biệt mà không bị xao nhãng. Có hai chữ mà người Á Đông thường dùng để phiên dịch từ “thiền”: Trong tiếng Phạn, bhavana có nghĩa là “trau dồi”, và trong tiếng Tây Tạng, gom có nghĩa “trở nên quen thuộc với một điều gì đó có những phẩm chất và cái nhìn mới cũng như một bản thể mới”. Vì vậy, việc thiền định không thể bị hạ thấp xuống thành những lời sáo rỗng thông thường như “làm trống rỗng tâm trí” hay “thư giãn”.
Wolf: Cũng giống như trong các trường hợp mà chúng ta tập trung sự chú ý vào những sự kiện bên ngoài, việc học tập xảy ra như là kết quả của việc chú ý vào một điều gì đó. Khi một người chăm chú quan sát một vật thể, người đó sẽ học về nó. Những thay đổi trong sự kết nối khớp thần kinh giữa các tế bào thần kinh xảy ra, và lần tới khi người đó quan sát vật thể, nó sẽ trở nên quen thuộc hơn. Nó được nhận ra dễ hơn và cũng nhanh hơn, có thể được gợi lên từ bộ nhớ và đi vào nhận thức – nhưng tất cả những điều này chỉ có thể xảy ra nếu người ta hướng sự chú ý về phía đối tượng khi tiếp nhận nó.
Matthieu: Nó có thể duy trì và nuôi dưỡng trải nghiệm lòng nhân từ. Tình yêu vị tha thỉnh thoảng xảy ra trong tâm trí mọi người, nhưng nó chỉ thường thoáng qua và nhanh chóng được thay thế bằng một trạng thái tâm trí khác. Bởi vì chúng ta không nuôi dưỡng tình yêu vị tha một cách có hệ thống, nên trạng thái tồn tại ngắn ngủi này sẽ không được tích hợp tốt trong tâm trí và sẽ không dẫn đến những thay đổi lâu dài trong tính cách chúng ta. Tất cả chúng ta đều trải qua những suy ngẫm về lòng nhân ái, rộng lượng, an lạc nội tại, và tự do thoát khỏi xung đột. Song những suy nghĩ này thoáng qua và sẽ sớm bị thay thế bởi những suy nghĩ khác, bao gồm các phiền não như giận dữ và đố kỵ. Để tích hợp được đầy đủ lòng vị tha và trắc ẩn vào dòng tâm trí của mình, chúng ta cần trau dồi chúng trong một thời gian dài hơn. Chúng ta cần đưa chúng vào tâm trí ta và sau đó nuôi dưỡng chúng, lặp lại chúng, bảo tồn chúng, và nâng cao chúng, để chúng dần lấp đầy mảnh đất tâm của ta theo một cách bền bỉ hơn.
Ý tưởng là không chỉ tạo ra mà còn duy trì một trạng thái tinh thần mạnh mẽ được hợp nhất với lòng nhân từ trong một khoảng thời gian dài. Các yếu tố lặp lại và bền bỉ đều có trong mọi hình thức rèn luyện. Tuy nhiên, điều đặc biệt ở đây là những kỹ năng mà bạn đang phát triển là những phẩm chất cơ bản của con người như lòng trắc ẩn, sự chú ý và cân bằng cảm xúc.
Wolf: Đúng vậy. Khi đó thì thiền định là một quá trình có tính chủ động và tập trung cao. Bằng cách tập trung sự chú ý vào các trạng thái bên trong ấy, ngài tập cho bản thân mình quen với chúng, hiểu về chúng và điều này tạo điều kiện để gợi chúng lại nếu ngài muốn kích hoạt chúng lần nữa.
Điều này phải đi cùng với những thay đổi lâu dài ở cấp độ tế bào thần kinh. Bất cứ hoạt động nào trong não bộ xảy ra dưới sự kiểm soát của sự chú ý đều được ghi nhớ. Có những sửa đổi trong việc truyền dẫn liên quan đến điểm mà tín hiệu di chuyển từ tế bào thần kinh này sang tế bào thần kinh khác; các khớp thần kinh sẽ được tăng cường hoặc suy yếu. Điều này, đến lượt nó, sẽ dẫn đến những thay đổi trong trạng thái năng động của các tổ hợp tế bào thần kinh. Do đó, thông qua việc rèn luyện tinh thần, bạn tạo ra những trạng thái mới lạ của tâm trí đồng thời cũng học được cách khôi phục lại chúng theo ý muốn. Tôi thấy thật phi thường khi khả năng này đã được phát hiện ra. Động cơ nào khiến người ta muốn chấm dứt sự chú ý vào thế giới bên ngoài, hướng nó đến các trạng thái bên trong, dùng nhận thức phân tích chúng và sau cùng là đạt được sự kiểm soát chúng một cách toàn bộ? Tại sao những truyền thống phương Đông lại tập trung quá nhiều vào bên trong mà không phải vũ trụ bên ngoài?
Matthieu: Chà, tôi đoán chính những trạng thái tinh thần này là yếu tố quyết định cho hạnh phúc và khổ đau. Điều này thực sự quan trọng trong cuộc sống của bất kỳ ai. Điều tôi thấy thậm chí còn đáng ngạc nhiên hơn là thế giới phương Tây dành rất ít sự chú ý cho những điều kiện nội tại của hạnh phúc và mọi người thường đánh giá thấp khả năng của tâm trí trong việc làm biến đổi cái cách mà chúng ta trải nghiệm mọi thứ.
Wolf: Một khía cạnh đặc biệt hấp dẫn là loại hình đào tạo tinh thần này dẫn đến những thay đổi lâu dài trong não, vượt ra ngoài cả quá trình thiền định. Một nghiên cứu gần đây của đại học Havard chỉ ra rằng ở các thiền giả lâu năm, thể tích của võ não được tăng lên tại một số khu vực nhất định của bộ não. Một nghiên cứu khác được hoàn thành tại phòng thí nghiệm của Tania, con gái tôi, cũng cho thấy những thay đổi về cấu trúc xảy ra trong não của các đối tượng mà ban đầu chưa hề thiền nhưng được huấn luyện trong chín tháng bằng ba loại bài tập: ba tháng về chánh niệm, ba tháng về nắm bắt quan điểm và ba tháng về lòng yêu thương. Mỗi kiểu thiền tạo ra sự thay đổi cấu trúc trong một khu vực cụ thể và hoàn toàn khác biệt nhau. Sự gia tăng về thể tích như vậy cũng được quan sát thấy sau khi trau dồi những kỹ năng vận động hoặc kích thích cảm giác mạnh và do sự gia tăng phụ thuộc vào học tập của vùng kết thần kinh (tức nơi chứa kết nối giữa các tế bào thần kinh). Số lượng, kích thước của các khớp thần kinh và mục tiêu của chúng, các gai của một trong những phần ngắn như sợi chỉ ở rìa của một tế bào thần kinh, mang thông điệp đến tế bào, cũng tăng lên tương tự như các hình thức huấn luyện và học tập khác.
CÁI CHỚP MẮT CỦA SỰ CHÚ Ý
Wolf: Một nghiên cứu khác cũng có phát hiện tương tự và đề xuất rằng có những sửa đổi dài hạn đối với các cơ chế kiểm soát sự chú ý. Dường như việc giữ gìn một mức độ chú ý cao, điều cần thiết để duy trì trạng thái thiền định, là nguyên nhân gây ra sự điều chỉnh các cơ chế duy trì sự chú ý.
Hãy để tôi giải thích về phát hiện này. Một nhà nghiên cứu tại phòng thí nghiệm của Anne Treisman, một chuyên gia trong lĩnh vực nghiên cứu sự chú ý, đã điều tra một hiện tượng gọi là cái chớp mắt của sự chú ý ở các thiền giả lâu năm. Người ta có thể cho hiển thị một chuỗi các từ ngữ hoặc hình ảnh liên tục với tốc độ cao và điều chỉnh những tham số làm sao để các chủ thể chỉ nhận thức được một phần kích thích. Một khi các chủ thể nhận thức được một hình ảnh thì sẽ không nhận thức được hình ảnh tiếp theo, thậm chí là hai hình ảnh tiếp theo, bởi bộ não vẫn đang tương tác với quá trình xử lý hình ảnh đầu tiên và do đó không còn nguồn lực chú ý để xử lý hình ảnh kế tiếp. Việc thiếu khả năng xử lý những hình ảnh tiếp theo được gọi là cái chớp mắt của sự chú ý. Quan điểm ở đây là trong khi sự chú ý đang bận xử lý một hình ảnh được nhận thức một cách có ý thức thì sẽ không rảnh để xử lý hình ảnh tiếp theo. Heleen Slagter và Antoine Lutz cũng đã chỉ ra rằng sau ba tháng tu luyện chuyên sâu về thiền định với ý thức trọn vẹn thì hiện tượng cái chớp mắt của sự chú ý đã giảm đi đáng kể.
Matthieu: Vì vậy, khi bạn có một chuỗi những hình ảnh, chữ cái hoặc từ ngữ xuất hiện chớp nhoáng, và xác định được rõ ràng một trong số chúng, thì quá trình đó cần sự hoạt động của tâm trí đến mức bạn sẽ không thể nhìn thấy một hoặc nhiều hình ảnh theo sau cái mà bạn đã nhận ra trước đó.
Wolf: Khoảng thời gian ở giữa mà bạn xem như bị “mù” này nằm trong khoảng từ 50 đến vài trăm mi li giây, tùy thuộc vào sự phức tạp của hình ảnh phải xử lý và độ tuổi của chủ thể nhận thức. Một phát hiện đáng ngạc nhiên là các thiền giả giàu kinh nghiệm, ngay cả khi đã đạt đến một độ tuổi nhất định – khoảng thời gian chớp mắt gia tăng theo tuổi tác vì các cơ chế chú ý dần chậm lại – có khoảng thời gian chớp mắt ngắn đáng ngạc nhiên. Họ nhận thức từng kích thích dù chúng xuất hiện ở tốc độ cao.
Matthieu: Có một kết quả chưa được công bố về một thiền giả 65 tuổi không hề gặp tình trạng cái chớp mắt của sự chú ý một chút nào.
Wolf: Chúng tôi đã xác nhận điều này. Ở những thiền giả lâu năm lớn tuổi, cái chớp mắt của sự chú ý cũng ngắn như ở những người trẻ. Phát hiện này chỉ ra rằng việc thiền định kéo dài đã làm thay đổi những cơ chế chú ý. Một phát hiện đáng kinh ngạc khác đã được báo cáo trong nghiên cứu tiếp theo mà Richard Davidson thực hiện với ngài và những đồng môn của ngài. Nó cho thấy một mối quan hệ chặt chẽ giữa biên độ các dao động gamma đồng bộ cao, có liên quan đến sự chú ý, trên các vùng vỏ não trung tâm và sự đánh giá chủ quan của ngài về độ sâu thực tế cũng như sự rõ ràng của trạng thái thiền định. Điều quan trọng là phải chứng minh những mối tương quan như vậy giữa các biện pháp đo lường sinh lý và các hiện tượng chủ quan; nếu có một mối quan hệ đáng kể về mặt thống kê thì nhiều khả năng đây không còn là một sự trùng hợp ngẫu nhiên hay thậm chí là một mối quan hệ nhân quả. Theo những gì tôi biết, những dữ liệu mạnh mẽ và đầy thuyết phục này cho thấy việc thiền định được kết nối với một trạng thái đặc biệt của bộ não và thực sự có ảnh hưởng lâu dài đến các chức năng của não.
Matthieu: Về cái chớp mắt của sự chú ý, từ góc độ bên trong, có vẻ như sự chú ý của một ai đó thường bị đối tượng nắm giữ bởi nó hướng đến đối tượng, gắn chặt với đối tượng và sau đó phải tách biệt khỏi đối tượng. Có một khoảnh khắc suy nghĩ là: “Ồ, tôi đã thấy một con hổ” hay “Tôi đã thấy từ đó”. Sau đó phải mất một thời gian để nó rời đi. Nhưng nếu bạn luôn ở trong trạng thái hiện diện cởi mở, tức trạng thái tốt nhất để giảm thiểu cái chớp mắt của sự chú ý, thì bạn sẽ chỉ chứng kiến hình ảnh mà không gắn kết với nó và do đó, sẽ không phải tách rời khỏi nó. 1/20 giây sau, khi hình ảnh tiếp theo lóe lên, thì bạn vẫn ở đó và sẵn sàng nhận thức.
Wolf: Vậy quá trình thiền định có hai tác dụng: Đầu tiên, ngài học cách xử lý các cơ chế chú ý của chính mình, rồi sau đó trở thành chuyên gia trong việc kết nối và tách rời sự chú ý tùy theo ý muốn. Câu hỏi đặt ra là các chuyên gia này xử lý từng hình ảnh riêng biệt sâu đến mức nào. Rõ ràng họ ít gắn chặt sự chú ý vào từng hình ảnh riêng biệt và vì thế có thể nhận thức những hình ảnh tiếp theo dễ dàng hơn. Liệu rằng có khả năng vì họ xử lý ít triệt để hơn nên có thể theo dõi nhanh hơn so với những người không thiền, và cũng chính vì họ thực hiện ít phân tích hơn, do đó ít bị tác động hơn hay không? Có phải các thiền giả nhìn chung thường đối phó với hiện tượng trong thế giới ngoại lai theo một cách khác, có lẽ là hời hợt hơn, chỉ lướt qua nó và không nghiêm túc với bất cứ điều gì?
Matthieu: Tôi nghĩ vấn đề không phải là “nghiêm túc” mà là mức độ bám chấp với các nhận thức tri giác cũng như hiện tượng bên ngoài.
Wolf: Không bám chấp với chúng ư?
Matthieu: Đúng. Phật giáo nói rằng nếu chúng ta không liên tục tham gia vào quá trình hút vào và đẩy ra thì đó là giải thoát. Bạn cũng đã nói về các phương tiện giúp con người mở rộng nhận thức của mình như kính hiển vi và kính viễn vọng. Từ góc độ chiêm nghiệm, việc tinh chỉnh nội tâm cho phù hợp với các quá trình nhận thức và tinh thần, thay vì bất lực và bị cuốn theo một cách mù quáng vào các cơ chế tự động của chúng, cũng giống như việc nâng cao chất lượng và sức mạnh của chiếc kính viễn vọng trong tâm trí mình. Điều này cho phép một người thấy được những quá trình đó đang thực sự xảy ra, không bị chúng cuốn đi hay lừa gạt.
Dường như các phương pháp thiền định khác nhau đã được nghiên cứu đều có những điểm đặc trưng riêng trong não bộ. Tất cả có thể tạo ra những sóng gamma với cường độ khác nhau, nhưng chắc chắn chúng kích hoạt các khu vực riêng biệt của não.
Wolf: Đó là điều sẽ xảy ra vì nếu bạn hướng sự chú ý của mình vào những cảm xúc đặc biệt, rèn luyện để phát triển lòng trắc ẩn hoặc sự chú ý thuần khiết, đồng thời dọn sạch không gian làm việc của ý thức, thì có lẽ bạn đang tương tác với các hệ thống não bộ khác nhau, dẫn đến kích hoạt các mô hình khác nhau. Bạn sẽ có thể luôn tìm thấy các mô hình kích hoạt phụ thuộc vào sự chú ý bởi thiền định luôn đòi hỏi phải tập trung chú ý, nhưng những mô hình kích hoạt liên quan đến nội dung sẽ phụ thuộc vào việc liệu rằng bạn hướng sự chú ý của mình vào các nội dung hình ảnh, cảm xúc hay xã hội. Thêm vào đó, người ta kỳ vọng sẽ tìm thấy những mô hình kích hoạt chuyên biệt trong các vùng não tương ứng. Một điều nghe có vẻ ngạc nhiên là mẫu số chung của các phương pháp thiền định là chúng đều có mức độ kiểm soát nhận thức cao.
Matthieu: Sau hội thảo Mind & Life năm 2000, tôi đã đến gặp Paul Ekman, chuyên gia hàng đầu thế giới về biểu hiện cảm xúc trên khuôn mặt tại phòng thí nghiệm của ông ở San Francisco. Ông đã nhờ một vài người trong chúng tôi tham gia một bài kiểm tra mà trong đó, chúng tôi được xem những gương mặt mang biểu cảm trung tính. Sau đó, trong 1/30 giây, một bức ảnh lóe lên. Trong ảnh là vẫn gương mặt đó nhưng thể hiện một trong sáu cảm xúc cơ bản phổ biến với tất cả con người: vui vẻ, buồn bã, giận dữ, bất ngờ, sợ hãi và ghê tởm. Bạn có thể thấy có một sự thay đổi, nhưng nó diễn ra rất, rất nhanh. Nếu đi chậm lại, từng khung hình một, thì bạn sẽ thấy rõ hình ảnh duy nhất có cảm xúc đó – một nụ cười tươi, một cái nhăn mặt ghê tởm v.v. Nhưng khi nó chỉ được hiển thị trong 1/30 giây thì nó giống như chỉ có một cơn co giật nhanh trên mặt rồi sau đó ngay lập tức trở lại biểu hiện trung tính ban đầu. Vì vậy, rất khó xác định cảm xúc được thể hiện trong một khoảng thời gian ngắn đó nếu không được đào tạo. Nhữngbiểu cảm vi mô đó, như cách mà Paul gọi, vô tình xảy ra mọi lúc trong cuộc sống hằng ngày và là những chỉ báo trung thực về nội tâm con người, nhưng thông thường chúng ta không giỏi trong việc xác định chúng.
Wolf: Chính xác!
Matthieu: Hóa ra chỉ một số ít người có khả năng tự nhiên nhận biết tốt những biểu cảm vi mô này, nhưng bạn có thể học cách nhận diện chúng thông qua rèn luyện. Trong trường hợp của chúng tôi, có hai thiền giả đã tham gia bài kiểm tra. Cá nhân tôi cảm thấy mình không hoàn thành tốt bài kiểm tra và cảm giác rằng kỹ năng cần thiết ở đây không liên quan nhiều đến thiền định. Tuy nhiên, hóa ra là chúng tôi đã thực sự đạt được điểm cao hơn, chính xác và nhạy bén hơn với các biểu cảm vi mô so với vài nghìn người khác đã thử nghiệm trước đó.
Theo Paul, khả năng xác định những biểu cảm vi mô này có thể liên quan đến tốc độ gia tăng của nhận thức, từ đó giúp cho việc cảm nhận các kích thích nhanh nói chung trở nên dễ dàng hơn, hoặc sự hòa hợp tốt hơn với cảm xúc của người khác, từ đó giúp cho việc đọc chúng dễ dàng hơn. Nói chung, năng lực nhận diện những biểu hiện thoáng qua này đại diện cho một khả năng khác thường về sự đồng cảm chính xác. Những người làm tốt hơn trong việc nhận ra những cảm xúc tinh tế ấy sẽ hứng thú, tò mò và cởi mở hơn trước những trải nghiệm mới. Họ cũng được biết đến là những người có lương tâm, đáng tin cậy và hiệu quả.
Wolf: Nó có thể liên quan đến việc giảm tình trạng cái chớp mắt của sự chú ý và đơn giản là kết quả từ khả năng nhận thức các sự kiện diễn ra trong thời gian ngắn, hoặc thực sự nó có thể chỉ ra rằng những nhận thức về cảm xúc của ngài tinh tế hơn.
CHÚ Ý, CHIÊM NGHIỆM VÀ HIỆN DIỆN CỞI MỞ
Matthieu: Bạn thấy đấy, liên quan đến sự chú ý, nếu tâm trí bạn lang thang đâu đó thì khi xảy ra sự thay đổi đột ngột trên biểu cảm khuôn mặt, nó sẽ thu hút trở lại sự chú ý của bạn, nhưng lúc đó thì đã quá muộn. Biểu cảm đã đi mất. Nhưng nếu sự chú ý của bạn rõ ràng đang ở trong giây phút hiện tại, trong trạng thái sẵn sàng mọi lúc, thì khi sự kiện đó xảy ra, bạn sẽ nhận thức được. Bạn không cần một sự thay đổi đột ngột mang bạn trở về thực tại. Vì vậy, hoặc là sự chú ý, hoặc là sự nhạy cảm, hoặc là sự cởi mở của bạn đối với cảm xúc của người khác đã được gia tăng – cũng có thể là kết hợp của tất cả. Giờ tôi có nên quay lại những quan điểm khác mà bạn đã đề cập đến không?
Wolf: Chắc chắn rồi!
Matthieu: Bạn đã nói về việc hướng sự chú ý vào bên trong. Nhưng thực tế là sự chú ý của chúng ta luôn hướng ra bên ngoài. Trong hầu hết thời gian, chúng ta đều hướng sự chú ý của mình ra thế giới bên ngoài, chú ý đến các hình thức, màu sắc, âm thanh, thị hiếu, mùi vị, chất liệu v.v.
Wolf: Đây là điều quan trọng với sự sống còn.
Matthieu: Dĩ nhiên, không phải thắc mắc về điều đó. Nếu bạn cần sang đường thì bạn phải nhận thức được tất cả mọi thứ đang xảy ra. Một trong những bậc thầy vĩ đại của Tây Tạng thường quay lòng bàn tay ra ngoài. Sau đó ông sẽ quay lòng bàn tay vào trong, đồng thời giải thích: “Bây giờ chúng ta nên nhìn vào trong và chú ý đến những gì đang diễn ra trong tâm trí cũng như bản chất của nhận thức”. Đây là một trong những điểm mấu chốt của thiền định. Một số người thấy việc làm này hơi kỳ lạ. Họ nghĩ rằng thật là không lành mạnh khi chú ý quá nhiều vào các quá trình tinh thần và chúng ta nên tiếp tục tương tác với thế giới. Số khác thậm chí còn thấy cuộc phiêu lưu này thật đáng sợ.
Wolf: Tôi xin phép cắt ngang. Hôm qua, ngài đã nói rằng việc đắm chìm vào bản thân và những trạng thái bên trong mình là sự trầm tư và nó trái ngược với thiền định. Ngài có thể phân biệt điều đó với những gì mình nói bây giờ không?
Matthieu: Điều đó khác với sự trầm tư. Trầm tư là mặc cho cuộc trò chuyện nội tâm cứ tiếp tục, để cho những suy nghĩ về quá khứ xâm chiếm tâm trí, lại buồn bã về những gì đã xảy ra, dự đoán không ngừng về tương lai, thổi bùng hy vọng và sợ hãi, liên tục bị phân tâm trong thực tại. Làm như vậy, bạn sẽ trở nên ngày càng lo lắng, tự cho mình là trung tâm, bận rộn, phiền não với những điều bịa đặt của tinh thần và sau cùng là trầm cảm. Bạn không thực sự để ý đến khoảnh khắc hiện tại mà chỉ chìm đắm vào những suy nghĩ của bản thân trong một cái vòng luẩn quẩn, nuôi dưỡng cái tôi và sự tự cao của chính mình. Bạn hoàn toàn lạc lối trong sự mê loạn nội tâm, cũng giống như cách mà bạn liên tục bị phân tâm bởi những sự kiện luôn thay đổi bên ngoài. Điều này trái ngược với sự chú ý trần trụi. Hướng sự chú ý của bạn vào trong có nghĩa là nhìn thẳng vào nhận thức thuần khiết và an trú, mà không bị phân tâm, không tận hưởng những bịa đặt về tinh thần, một cách dễ dàng, trong sự tươi mới của thời khắc hiện tại.
Chúng tôi đã thực hiện một số thí nghiệm khác với Paul Ekman và Robert Levenson tại Đại học California (Berkeley), mà tôi nghĩ có liên quan khá lớn đến khái niệm nhận thức trần trụi này. Chúng liên quan đến phản xạ giật mình mà, chẳng hạn, xảy ra khi một người nghe thấy một âm thanh lớn đến kinh ngạc. Nó kích hoạt một biểu cảm ngạc nhiên mạnh mẽ trên khuôn mặt, kết hợp với một cú giật mạnh của cơ thể và những phản ứng sinh lý đáng kể (thay đổi nhịp tim, huyết áp, nhiệt độ da v.v.). Giống như tất cả những phản xạ khác, giật mình phản ánh hoạt động của não bộ mà bình thường nằm ngoài phạm vi điều chỉnh chủ ý. Thông thường, mọi người phản ứng càng nhiều thì họ càng có xu hướng trải nghiệm mạnh hơn những cảm xúc tiêu cực, như sợ hãi, ghê tởm v.v.
Trong trường hợp của chúng tôi, các nhà khoa học đã sử dụng một âm thanh chạm ngưỡng chịu đựng của thính giác – một vụ nổ rất lớn, giống như tiếng súng hoặc tiếng pháo nổ ở sát một bên tai. Nhìn chung, một số người giỏi hơn những người khác trong việc kiểm soát sự giật mình, nhưng nhiều năm nghiên cứu đã chỉ ra rằng trong số hàng trăm người tham gia thí nghiệm, không ai có thể ngăn trở sự co thắt của cơ mặt cũng như hành động giật bắn mình của cơ thể. Một số người gần như ngã khỏi ghế, và vài giây sau cơn giật mình, lại biểu lộ sự nhẹ nhõm hoặc thích thú. Tuy nhiên, khi chúng tôi áp dụng chiến lược thiền định về sự hiện diện rộng mở, giật mình gần như biến mất.
Wolf: Thậm chí ngài đã không biết chuyện gì sẽ xảy ra?
Matthieu: Trong một số thử nghiệm, bạn có thể nhìn thấy việc đếm ngược từ 10 đến 1 trên màn hình trước tiếng nổ, và trong những thí nghiệm khác bạn chỉ biết rằng nó sẽ xảy ra trong vòng năm phút nữa. Thiền giả được yêu cầu hoặc là ngồi trong trạng thái trung tính hoặc tham gia vào một trạng thái thiền định cụ thể. Cá nhân tôi, khi sử dụng trạng thái thiền định hiện diện rộng mở, thì tiếng nổ dường như nhẹ nhàng và ít làm phiền hơn. Sự hiện diện rộng mở là một trạng thái nhận thức rõ ràng mà ở đó tâm trí rộng lớn như bầu trời. Khi ấy, tâm không tập trung vào bất cứ điều gì, nhưng vô cùng sáng suốt, hiện diện trọn vẹn, sống động và tinh khiết. Nó thường không có những suy nghĩ rời rạc, nhưng lại không hề có ý ngăn chặn hoặc hoặc phòng ngừa chúng phát sinh. Những suy nghĩ sẽ tự biến mất khi chúng xuất hiện, mà không sinh sôi nảy nở hoặc để lại dấu vết. Nếu bạn có thể ở đúng trong trạng thái này thì tiếng nổ trở nên ít gây xáo trộn hơn nhiều. Trong thực tế, nó còn có thể tăng cường sự trong trẻo cho trạng thái mở.
Wolf: Vậy nó không tập trung chú ý vào bất kỳ nội dung nào –
Matthieu: – nhưng nó cũng không bị phân tâm.
Wolf: Ngài mở cánh cửa sổ chú ý của mình –
Matthieu: – đúng, nhưng không cần cố gắng. Không có sự tán gẫu trong tâm trí cũng như sự tập trung chú ý đặc biệt mà chỉ có việc nghỉ ngơi trong nhận thức thuần khiết, thay vì tập trung vào nó. Tôi không thể tìm được từ ngữ nào tốt hơn; nó là một thứ gì đó chói lọi, rõ ràng và ổn định mà không cần nắm bắt. Đó là trạng thái của tâm trí mà tiếng nổ hầu như không tạo được phản ứng xúc cảm nào trên gương mặt cũng như không có bất kỳ thay đổi nào ở nhịp tim.
Khi chúng tôi lặp lại những thí nghiệm đó trong hai dịp khác, tôi đã cố gắng tham gia vào sự trầm tư và tưởng tượng do chính mình tạo nên bằng cách nhớ lại một trải nghiệm sống động trong cuộc đời. Và tôi đã hoàn toàn bị cuốn đi theo chuỗi suy nghĩ ấy.
Wolf: Ngài gọi đây là cuộc tán gẫu nội tâm?
Matthieu: Đúng, hoặc tán gẫu nội tâm, hoặc là sự bịa đặt của tinh thần. Khi tôi đang cố ý tham gia trạng thái rối loạn này mà tiếng nổ xảy ra thì tôi bị giật mình nhiều hơn. Theo lý giải của riêng tôi thì tiếng nổ bất ngờ đã đưa tôi trở lại với thời điểm hiện tại mà tôi vốn đang ở cách rất xa do lạc lối trong những suy nghĩ của mình. Tuy nhiên, nếu bạn luôn ở trong nhận thức thuần khiết thì bạn sẽ luôn ở trong sự tươi mới của thời khắc hiện tại, và tiếng nổ chỉ đơn giản là một trong những khoảnh khắc thực tại ấy. Bạn không cần phải bị đưa trở lại bất cứ đâu bởi bạn đã luôn ở đó.
Dễ hiểu là trong cuộc sống bình thường, khi có một sự kiện đáng ngạc nhiên xảy ra, đòi hỏi sự chú ý ngay lập tức, thậm chí có liên quan đến sự sống còn của mình, nếu bạn bị phân tâm vào thời điểm đó thì tâm trí bạn càng lang thang xa bao nhiêu, sự giật mình sẽ càng mạnh bấy nhiêu.
Wolf: Vậy phản ứng giật mình là kết quả của việc chuyển sự chú ý từ các sự kiện cụ thể, được ghi nhớ hoặc được trải nghiệm trong thực tại sang kích thích mới bất ngờ.
Matthieu: Đúng! Hay nói đúng hơn là chuyển từ một nơi nào đó khác trong tâm trí bạn đến thời khắc hiện tại.
Wolf: Do đó, trong trạng thái nhận thức thuần khiết, ngài đã ở hiện tại; sự chú ý cũng ở đó nhưng không được định hướng –
Matthieu: – nên hoàn toàn sẵn sàng cho mọi chuyện.
Wolf: Sự chú ý có tiêu điểm rộng, ngài luôn sẵn sàng, ngài không cần phải trước tiên tách rời sự chú ý ra khỏi một nội dung nào đó khác, nên ngài không bị giật mình.
CHÁNH NIỆM VÀ PHÂN TÂM
Matthieu: Khi nuôi dưỡng sự chú ý, chúng ta nên hiểu rằng đó là một công cụ hết sức mạnh mẽ, vì vậy nó nên được áp dụng cho một điều gì đó góp phần giải thoát khỏi khổ đau. Chúng ta cũng có thể sử dụng sự chú ý không cần nỗ lực để nghỉ ngơi trong trạng thái tự nhiên của tâm trí, trong nhận thức rõ ràng được thấm nhuần an lạc nội tại, và khiến mình ít bị tổn thương hơn trước những thăng trầm của cuộc sống. Dù cho có bất cứ điều gì xảy ra, ta sẽ không phải chịu nhiều xáo trộn về cảm xúc và có thể tận hưởng sự ổn định lớn hơn. Việc đạt được chánh niệm thuần khiết này về khoảnh khắc hiện tại mang lại rất nhiều lợi ích. Chúng ta cũng có thể dùng sự chú ý để trau dồi lòng từ bi. Tuy nhiên, dù cho một người có vẻ đang thực hành thiền định, nếu tâm trí liên tục bị phân tâm thì nó vẫn bất lực và bị lôi đi khắp thế giới như một quả bóng bay trong gió. Vì vậy, việc tăng độ phân giải của chiếc kính viễn vọng, kết hợp với sự chú ý liên tục, sẽ là một phương tiện không thể thiếu để trau dồi những phẩm chất mà người ta có thể được phát triển thông qua thiền định. Cuối cùng, tự do thoát khỏi khổ đau sẽ trở thành một kỹ năng.
Wolf: Tôi thấy hứng thú với cách ngài đặt vấn đề. Thực tế rằng nó đòi hỏi việc kiểm soát sự chú ý cũng như lặp lại này cho tôi thấy ngài sử dụng chiến lược học tập kỹ năng vốn dựa trên trí nhớ phương thức hơn là trí nhớ mô tả. Chúng ta sở hữu hai cơ chế riêng biệt để lưu trữ thông tin lâu dài. Một là hệ thống bộ nhớ, nơi có thể lưu giữ thông tin thu được trong tình huống học tập thử nghiệm một lần. Khi bạn cắn một miếng trái cây có hạt cứng và bị đau, bạn sẽ nhớ mãi điều này cho đến hết cuộc đời và không bao giờ lặp lại. Chúng tôi gọi đây là bộ nhớ mô tả hay bộ nhớ tình tiết. Những nội dung của bộ nhớ này có thể được thường xuyên báo cáo bằng lời nói. Chúng ta có ý thức về chúng, và cũng thường lưu trữ thông tin cũng như bối cảnh xảy ra của một sự kiện cùng mốc thời gian chính xác của nó trong tiểu sử của mình.
Quá trình này khác với việc học tập một kỹ năng vận động, ví dụ như chơi đàn dương cầm, trượt tuyết hay chèo thuyền – những kỹ năng đòi hỏi phải luyện tập lặp đi lặp lại cho đến khi tinh thông và chúng trở thành tự động. Đó chính là học tập có phương pháp và cần bộ nhớ phương thức. Ngài phải thực hành, và phải thực hành theo một cách nhất định. Ban đầu, khi tiếp thu kỹ năng, ngài phải kiểm soát việc thực hành bằng sự chú ý và ý thức: Ngài phải phân tách cả quá trình thành các bước nhỏ, và ngài cần một người thầy hướng dẫn cho mình. Hoặc ngài sẽ tự mình thử và rút kinh nghiệm, dĩ nhiên cách này luôn cho hiệu quả kém hơn –
Matthieu: – vì thế, việc có được một người thầy giỏi, đặc biệt là trong thiền định, là rất quan trọng.
Wolf: Những người thầy sẽ giúp đỡ đẩy nhanh quá trình, nhưng ngài phải tự thân thực hiện việc tu tập. Bởi chất nền tế bào thần kinh hỗ trợ những kỹ năng này không thể ngay lập tức chuyển hóa sang một trạng thái mới. Ngài phải điều chỉnh các mạch thần kinh từng chút một trong một thời gian dài. Cuối cùng, khi kỹ năng đã thành thục, nó sẽ ngày càng ít phụ thuộc hơn vào sự chú ý và trở nên tự động hóa ngày càng nhiều hơn. Hãy tưởng tượng như khi lái xe. Với những khu vực trong thành phố mà mình biết rõ, ngài sẽ không đầu tư bất kỳ sự chú ý nào nữa và có thể tham gia vào một cuộc trò chuyện đòi hỏi sự chú ý khi lái xe cũng như hoàn thành một chuỗi phức tạp các hành vi nhận thức, điều hành mà không cần sự kiểm soát có ý thức.
Matthieu: Thiền định cũng tương tự như thế: Ban đầu, thiền được tạo ra và là nhân tạo. Dần dần nó trở nên tự nhiên và dễ dàng.
Wolf: Như tôi đã đề cập ngắn gọn trước đây, trong quá trình tiếp thu những kỹ năng, một sự chuyển dịch từ hệ thống vỏ não sang hệ thống dưới vỏ não đã xảy ra. Ban đầu, khi cần sự kiểm soát ý thức và chú ý tập trung, các cấu trúc tân vỏ não phải tham gia, đặc biệt là những cấu trúc liên quan đến sự chú ý ở thùy trước và thùy đỉnh. Tuy nhiên, khi kỹ năng đã trở nên thành thạo và tự động hơn, hoạt động trong các hệ thống kiểm soát vỏ não sẽ giảm xuống và các cấu trúc khác sẽ tham gia nhiều hơn. Với trường hợp kỹ năng vận động thì những cấu trúc này bổ sung cho tiểu não và hạch nền, những khu vực não luôn cần thiết cho mọi vận động.
Matthieu: Các hướng dẫn thiền định đã giải thích rõ ràng rằng các giai đoạn thiền định đầu tiên, theo một cách nào đó, luôn là nhân tạo và đòi hỏi phải nỗ lực mới duy trì được. Cho dù vào một số ngày nó có thể đến dễ dàng trong một dòng chảy tự nhiên còn vào những ngày khác bạn cảm thấy buồn chán thì bạn vẫn phải duy trì sự liên tục và thực hành thiền định ngày này qua ngày khác. Người ta nói rằng sẽ tốt hơn khi thực hành nhiều buổi thiền ngắn, đều đặn và lặp đi lặp lại thay vì các phiên dài nhưng chỉ mỗi tuần hoặc hai tuần một lần.
Wolf: Đó chính xác là những gì bạn cần làm khi học một kỹ năng và hình thành trí nhớ phương thức. Người ta đã tiến hành nhiều nghiên cứu về động lực của việc học tập kỹ năng và chất nền thần kinh của trí nhớ phương thức. Sẽ là rất thú vị khi xem xét liệu rằng những chiến lược đã được phát hiện là tối ưu nhằm đạt được các kỹ năng thông qua việc học tập có phương pháp có giống như những gì mà các thiền sư đã thực hiện theo trực giác hay không. Ví dụ như các buổi thiền được tổ chức ngay trước khi đi ngủ có hiệu quả thực sự hay không. Bởi vì chính trong khi ngủ mà các đường rãnh của bộ nhớ phương thức được định hình và củng cố.
CỦNG CỐ VIỆC TU TẬP QUA GIẤC NGỦ
Matthieu: Với hầu hết những người không có cơ hội để thực hiện việc tĩnh tâm hoặc hành thiền nhiều lần mỗi ngày, người ta nói rằng thời khắc quan trọng nhất là vào buổi sáng sớm hoặc trước khi đi ngủ. Bằng cách thiền định hay thực hiện bất cứ hình thức rèn luyện tinh thần nào vào sáng sớm, bạn đã thiết lập một tâm trạng chung cho suốt cả ngày cũng như cài đặt một quá trình chuyển đổi nội tâm mà bằng cách nào đó, sẽ tiếp tục qua các hoạt động trong ngày, như một dòng chảy vô hình. Một hình ảnh minh họa khác là hương thơm của việc thiền định sẽ lưu giữ và truyền vào mọi hoạt động trong suốt cả ngày. Nó sẽ tạo ra một bầu không khí khác, một thái độ khác, một cách sống cũng như cách liên kết với những cảm xúc cá nhân của chính mình và mọi người xung quanh. Với bất cứ điều gì xảy ra trong ngày, bạn đều có một trạng thái nội tâm mà có thể quay lại nương tựa. Thỉnh thoảng, dù chỉ trong những khoảnh khắc ngắn ngủi, bạn có thể nhen nhóm lại trạng thái thiền định để nâng cao trải nghiệm cá nhân mình.
Trước khi chìm vào giấc ngủ, nếu bạn tạo ra một trạng thái tinh thần tích cực rõ ràng, tràn đầy lòng trắc ẩn hoặc vị tha, thì người ta nói rằng điều đó sẽ mang lại một chất lượng khác cho giấc ngủ. Trái lại, nếu bạn đi ngủ trong khi vẫn chất chứa nỗi tức giận hoặc ghen tỵ, thì bạn sẽ mang nó theo suốt cả đêm và làm nhiễm độc giấc ngủ của mình. Đó là lý do vì sao một thiền sinh sẽ nỗ lực duy trì một thái độ tích cực, cố gắng giữ gìn trạng thái tinh thần sáng sủa và rõ ràng cho đến khi ngủ thiếp đi. Nếu bạn làm như vậy thì dòng chảy sẽ tiếp tục suốt cả đêm.
Wolf: Lý thuyết này phù hợp với những dữ liệu gần đây về sự liên quan của giấc ngủ đối với quá trình học tập và ghi nhớ. Giờ đây, đã có thể chắc chắn rằng chúng ta phải trải qua một chuỗi lặp đi lặp lại các khuôn mẫu ngủ đặc trưng để làm cho những ký ức trở nên bền vững – giấc ngủ sóng chậm, hay còn gọi là giấc ngủ sâu, và giấc ngủ nghịch lý, giấc ngủ chuyển động mắt nhanh (REM) mà trong đó, não bộ hoạt động mạnh mẽ và có hình ảnh điện não đồ không khác biệt so với khi đang thức, bị kích thích và chú ý. Những khuôn mẫu ngủ này xen kẽ trong đêm và được dùng để thiết lập lại trạng thái cân bằng của não. Chính bởi tính dẻo của mình mà bộ não thay đổi trong khi phản ứng với môi trường. Trong suốt cả ngày, những ký ức mới được hình thành, các kỹ năng mới được thu thập và tất cả chúng được liên kết với những thay đổi trong vô số kết nối khớp thần kinh. Để duy trì sự ổn định, các mạng lưới phải được hiệu chỉnh lại để đáp ứng với những thay đổi này và sự hiệu chỉnh ấy dường như xảy ra trong lúc ngủ. Các đường rãnh bộ nhớ được sắp xếp lại, những gì liên quan được tách khỏi những gì không liên quan, và các nội dung mới học được gắn vào những trường kết hợp tương ứng của chúng.
Đó là lý do mà nội dung của những giấc mơ thường liên quan đến các sự kiện của ngày trước đó. Khi ấy, bộ não đang ngủ sẽ kích hoạt lại các đường rãnh bộ nhớ này để xử lý chúng, tích hợp chúng với các đường rãnh trước đó và củng cố chúng. Trong những giai đoạn đầu của giấc ngủ, các mô hình hoạt động do những trải nghiệm trước khi ngủ gây ra được não tái hiện lại, thường là dưới dạng rút gọn về thời gian. Đây có thể là lời giải thích cho việc vì sao các thiền giả báo cáo rằng họ thường mang theo trạng thái mà mình đạt được ngay trước khi đi ngủ vào trong giấc ngủ. Tuy nhiên, kinh nghiệm này không chỉ giới hạn trong thiền định. Nhiều người đã nghiệm ra rằng cách hiệu quả nhất để học từ vựng của một môn ngoại ngữ là nhẩm lại danh sách các từ ngay trước khi nhắm mắt. Và trong khi ngủ, các nội dung được nhẩm lại sẽ được củng cố mà không bị các kinh nghiệm can thiệp và thường được truy xuất với sự rõ ràng tuyệt vời vào sáng hôm sau.
Matthieu: Ngoài ra, khi bạn cần đưa ra một quyết định quan trọng và còn cảm thấy chút bối rối cũng như không chắc chắn về nó, nếu bạn đặt câu hỏi rõ ràng về việc mình nên làm gì ở trong tâm trí trước khi ngủ, thì suy nghĩ đầu tiên hiện lên trong đầu bạn ngay vào buổi sáng hôm sau dường như sẽ biểu thị cho lựa chọn có ý nghĩa nhất, một lựa chọn ít bị bóp méo và sai lệch theo những dự đoán, hy vọng và sợ hãi.
Wolf: Đó là lý do chúng tôi nói Schlaf darüber – tức là “Hãy ngủ trên nó” – khi cần xử lý một vấn đề khó khăn. Câu trả lời sáng suốt thường tự hiển thị khi thức dậy.
Matthieu: Tôi cũng muốn đề cập đến một điều khá ấn tượng là những người tham gia các khóa tu thiền dài hạn – đặc biệt là các thiền sinh thực hiện khóa tu kéo dài trên ba năm trong Phật giáo Tây Tạng – cần ngủ ít hơn nhiều. Những thiền sinh này có các nền tảng khác nhau. Một số người là tăng, ni. Một số có trình độ học vấn cao về Triết học Phật giáo, nhưng số khác lại không. Và nhiều người chỉ là người bình thường. Dĩ nhiên, mỗi người có một tính cách khác nhau. Song, ví dụ như ở trung tâm tu thiền của chúng tôi tại Nepal, sau khoảng một năm rèn luyện, hầu như mọi người đều giảm thời gian ngủ xuống chỉ còn bốn tiếng mỗi ngày. Họ thường ngủ từ mười giờ đêm hôm trước cho đến hai hay ba giờ sáng hôm sau tùy thuộc mỗi cá nhân. Và họ làm việc đó hoàn toàn tự nguyện cũng như không cảm thấy bất kỳ dấu hiệu thiếu ngủ nào. Ban ngày, họ vẫn cảm thấy sảng khoái và không ngủ gật trong khi luyện tập.
Đúng là vào ban ngày, họ không đối mặt với nhiều điều mới lạ, không phải tiếp xúc với những tình huống căng thẳng, cũng không phải giải quyết đủ loại sự kiện và tình huống. Tuy nhiên, không phải vì thế mà họ trì trệ và lịch trình tập thiền khá căng thẳng. Nó bao gồm việc trau dồi mãnh liệt lòng trắc ẩn, sự chú ý, kỹ thuật hình dung và những kỹ năng khác. Bạn sẽ giải thích một sự thay đổi sinh lý nổi bật như vậy như thế nào?
Wolf: Ở đây, tôi có một vài quan điểm. Đầu tiên, người ta biết rằng trẻ con (cũng tương tự đối với các loại động vật khi còn nhỏ) – những đối tượng có rất nhiều điều để học trong ngày bởi gần như mọi thứ chúng trải nghiệm đều mới lạ – thì cần ngủ nhiều hơn người trưởng thành nhiều. Chúng phải đương đầu với những thay đổi khổng lồ trong cấu trúc chức năng của bộ não và có lẽ không chỉ vì chúng phải học nhiều hơn người lớn mà còn vì bộ não chúng vẫn đang phát triển, những kết nối mới đang được hình thành và các kết nối không phù hợp đang bị loại bỏ. Những sửa đổi lớn trong hệ thống mạch này đòi hỏi phải hiệu chỉnh lại thường xuyên và do đó cần những giấc ngủ dài. Trên thực tế, có sự tỷ lệ thuận giữa lượng giấc ngủ cần thiết và số lượng những điều mới mẻ cần phải hấp thu. Nếu một người học hỏi được thêm nhiều trải nghiệm về động vật hoặc con người vào ban ngày, thì nó cũng sẽ làm tăng thời lượng cũng như thay đổi hình thái của giấc ngủ. Mối tương quan giữa tính mới mẻ của các trải nghiệm này (tức là sự mất cân bằng gây ra bởi những thay đổi do học tập trong cấu trúc của bộ não) và thời lượng giấc ngủ cần thiết ủng hộ quan điểm là giấc ngủ rất quan trọng trong việc cài đặt lại sự cân bằng nội môi của bộ não.
Những hệ thống phức tạp với độ mềm dẻo cao như bộ não dễ bị rối loạn trạng thái cân bằng và có nguy cơ bị rơi vào các trạng thái nguy kịch. Khi các đối tượng bị thiếu ngủ trong một thời gian dài thì bộ não của họ trở nên bất ổn định. Hậu quả có thể là những cơn co giật động kinh, như một sự phản chiếu của các trạng thái kích thích siêu tới hạn. Trên thực tế, nhiều bác sĩ đôi khi sử dụng hiện tượng thiếu ngủ để chẩn đoán bệnh động kinh bởi nó làm cho các triệu chứng bệnh lý này có nhiều khả năng xảy ra. Những hậu quả khác không kém phần nguy hiểm của chứng thiếu ngủ là sự rối loạn chức năng nhận thức đi kèm với ảo ảnh, ảo tưởng và thậm chí là ảo giác. Các chức năng của bộ nhớ suy giảm vì không có thời gian để củng cố những dấu tích và lấy lại trạng thái cân bằng sau khi bị mất cân bằng do quá trình học tập. Hơn nữa, các cơ chế chú ý bị suy giảm sẽ càng cản trở việc nhận thức và học hỏi.
Nhưng hãy quay trở lại câu hỏi tại sao những thiền giả trong khóa tu lại cần ngủ ít hơn. Tôi sẽ nghĩ đó là vì họ không phải đối phó với sự mới lạ. Họ làm việc trên những nội dung đã được biết và được lưu trữ, vì thế có lẽ họ ít phải tổ chức lại. Nhiệm vụ chính của họ là củng cố và điều này có thể đạt được trong trạng thái thiền định, khi não bộ chỉ tiếp xúc tối thiểu với kích thích ngoại lai.
Matthieu: Đúng vậy. Việc trau dồi và củng cố những kỹ năng thực sự là công việc chính của thiền định. Một nghiên cứu được thực hiện ở Madison, Wisconsin, trong phòng thí nghiệm của Giulio Tononi với sự cộng tác của Antoine Lutz và Richard Davidson, cho thấy, trong số các thiền giả đã hoàn thành khoảng từ 2.000 đến 10.000 giờ tu luyện, sự gia tăng của sóng gamma vẫn được duy trì trong giấc ngủ sâu, với cường độ tỷ lệ thuận với số giờ trước đây dành cho thiền định. Sự thật là những thay đổi này vẫn tồn tại ở họ khi nghỉ ngơi và trong cả giấc ngủ cho thấy sự chuyển đổi ổn định trạng thái tinh thần theo thói quen của họ, ngay cả khi không có bất kỳ nỗ lực cụ thể nào, ví dụ như trong một buổi thiền chẳng hạn.
Wolf: Sẽ là rất thú vị khi quan sát các hình thái ngủ mà mọi người thể hiện trong khi tu thiền. Các giai đoạn khác nhau của giấc ngủ có lẽ cũng có những chức năng khác nhau, và người ta giả định rằng trong khi một giai đoạn làm nhiệm vụ củng cố thì giai đoạn khác sẽ làm nhiệm vụ thiết lập lại trạng thái cân bằng và trực giao hóa các đường rãnh bộ nhớ để giảm thiểu sự chồng chất và hợp nhất những ký ức mà cần được lưu giữ tách rời.
Matthieu: Bạn có thể giải thích điều đó không?
Wolf: Bộ nhớ của não có tính liên kết; nó không giống như bộ nhớ máy tính, nơi bạn có một địa chỉ riêng cho mỗi nội dung tương ứng. Trong bộ não, những ký ức khác nhau được cất giữ trong cùng một mạng lưới bởi các thay đổi siêu nhỏ trong khớp nối của các tế bào thần kinh. Tương đương với mỗi vết tích cụ thể là một trạng thái động riêng biệt của hệ thống, một trạng thái được đặc trưng bởi sự phân bố không thời gian xác định của các tế bào thần kinh hoạt động và không hoạt động trong mạng lưới.
Nói đơn giản là giả sử chúng ta có 26 tế bào thần kinh từ A đến Z được kết nối với nhau, có thể hoạt động trong những tổ hợp khác nhau bởi mối liên kết của chúng đã được củng cố và làm suy yếu theo một cách nào đó thông qua việc học trước đây. Đường rãnh bộ nhớ của nội dung 1 khi đó sẽ bao gồm khuynh hướng các tế bào thần kinh ACD hoạt động đồng thời, nội dung 2 sẽ tương ứng với sự đồng hoạt động của các tế bào AMZ v.v. Bây giờ, nếu bạn lưu trữ ngày càng nhiều nội dung vào mạng lưới này, bạn sẽ gặp phải vấn đề chồng chất. Những biểu hiện của tế bào thần kinh ở các nội dung khác nhau có thể trở nên quá giống nhau hoặc chồng lên nhau, từ đó các biểu hiện có thể trở nên mờ nhạt và mơ hồ.
Matthieu: Cho tôi một ví dụ được chứ?
Wolf: Vì các khớp thần kinh cũng như các kết nối có thể được sử dụng để thể hiện nhiều nội dung khác nhau, nên ranh giới giữa các tổ hợp tế bào thần kinh đại diện cho những ký ức khác nhau có thể mờ đi. Vì thế, nếu ngài muốn lưu trữ càng nhiều những hình thái khác nhau trong mạng lưới này thì sự sắp xếp ghép nối các tế bào thần kinh sẽ phải càng phức tạp để giữ cho chúng tách biệt và có thể phân biệt được.
Matthieu: Giống như khi có quá nhiều hình ảnh trong gương phải không?
Wolf: Hoặc quá nhiều thứ trong suốt đặt lên nhau. Chúng sẽ trộn lẫn và trở nên mờ đi bởi sự giao thoa. Nên ngài phải sắp xếp những thứ trong suốt đó làm sao để giảm thiểu chồng chất và từ đó tối ưu hóa khả năng phân biệt. Ví dụ thế này. Ngài cố gắng truy xuất một cái tên từ bộ nhớ, nhưng sự truy xuất đó bị chặn bởi một cái tên khác tương tự cứ liên tục xuất hiện. Trong trường hợp này, những tế bào thần kinh đại diện cho hai cái tên không đủ tách biệt hoặc trực giao. Cải thiện sự phân biệt các biểu hiện chồng chéo được cho là một trong các chức năng của giấc ngủ. Một trong những cách tổ chức có thể là gắn hai cái tên vào trường liên kết tương ứng với chúng, ví dụ như các bối cảnh khác nhau mà chúng được lưu trữ. Việc liệu hai chức năng, củng cố và trực giao hóa đường rãnh bộ nhớ, có được thực hiện bởi những giai đoạn ngủ khác nhau hay không vẫn chưa được biết, nhưng có thể hình dung rằng trong khi một giai đoạn liên kết nhiều hơn với chức năng củng cố thì giai đoạn khác sẽ kết hợp với việc dọn dẹp và sắp xếp mọi thứ phù hợp. Vì vậy, sẽ là rất thú vị để nghiên cứu các hình thái ngủ của thiền giả trong khóa tu để quan sát xem giai đoạn nào sẽ chiếm ưu thế trong thời lượng ngủ bị cắt giảm của họ.
Matthieu: Vâng, một dấu hiệu có thể đến từ chuyển động cơ thể. Tôi nghe nói rằng một người trung bình sẽ trở mình đến hơn 15 lần một đêm. Khi Đức Đạt-lai Lạt-ma được một chuyên gia về giấc ngủ cho biết điều này, ngài đã tự hỏi liệu rằng chúng ta có thực sự cử động nhiều đến vậy hay không. Ngay cả tôi cũng hơi hoang mang. Vài thiền giả trong những khóa tu thiền dài đã ngủ suốt cả đêm trong tư thế ngồi bắt chéo chân. Các thiền giả khác ngủ theo tư thế truyền thống, quay người sang phải, tay phải đặt dưới má còn tay kia thả lỏng theo cơ thể. Vậy chúng ta sẽ không nghĩ họ chuyển động nhiều đến thế.
Wolf: Có lý do nào chăng?
Matthieu: Nó khá là phức tạp. Nhiều huấn thị nói rằng khi ngủ với tư thế này, chúng ta sẽ đè nén và ngăn trở các đường dẫn nhỏ mang theo cảm xúc tiêu cực ở bên phải cơ thể, trong khi lại tạo điều kiện cho năng lượng di chuyển qua các đường dẫn phía bên trái, nơi lưu giữ những cảm xúc tích cực. Điều thú vị là nó rất phù hợp với quan điểm vỏ não trước trán bên phải có liên quan đến cảm xúc tiêu cực, trong khi đó vỏ não bên trái được kích hoạt khi trải nghiệm cảm xúc tích cực. Một lý do khác nữa cho việc nên ngủ bên phải là để tránh các áp lực lên tim.
Vài năm trước, khi đang thực hiện một khóa tu thiền kéo dài tám tháng, tôi đã cố quan sát bản thân mình. Một hoặc hai lần trong đêm, tôi sẽ nhìn chiếc đồng hồ nhỏ trên bàn để kiểm tra thời gian. Trong hơn bảy tháng, tôi đã cố ghi nhớ vị trí của mình khi thức giấc. Bất cứ khi nào tôi thức dậy vào giữa đêm hoặc vào buổi sáng, tôi chỉ cần mở mắt ra để nhìn thấy chiếc đồng hồ ngay trước mắt. Tôi chưa bao giờ thấy mình nhìn lên trần nhà hay quay mặt về hướng khác dù chỉ một lần. Vì thế, tôi đã khá tự tin rằng mình không trở mình quá nhiều trong khoảng tám tiếng ngủ.
Wolf: Điều này khi đó gợi ý rằng giữa các giai đoạn khác nhau của giấc ngủ, ngài hoán đổi ít hơn nhiều bởi những lần trở mình này có xu hướng xảy ra trong quá trình hoán chuyển.
Matthieu: Trong khi bạn tiến dần từ một giấc mơ đến giấc ngủ sâu và vân vân.
Wolf: Đúng thế, mặc dù ngày nay người ta nghĩ rằng mình cũng mơ trong giấc ngủ sóng chậm. Tuy cấu trúc của những giấc mơ có thể khác nhau, nhưng bộ não thì hoạt động theo cả hai pha và những dao động cao tần cũng xảy ra trong các pha ngủ sóng chậm. Các dao động nhanh này được chồng lên những sóng chậm. Bên cạnh đó, chúng còn có khả năng liên kết với việc gợi lại hay kích hoạt ký ức, nên giấc mơ cũng có thể xảy ra trong các giai đoạn ngủ sâu ấy. Sẽ có một chút khó khăn để nhận ra điều này vì nếu đánh thức mọi người, ngài sẽ không thể biết liệu rằng những gì họ nói với mình là thứ đã được trải nghiệm ngay lúc đó hay họ đang nhớ về những giấc mơ ở đầu buổi đêm.
Matthieu: Có chăng một mối liên hệ giữa việc nhớ lại một giấc mơ ít nhiều rõ ràng giữa hai hình thái ngủ này?
Wolf: Một lần nữa, rất khó nói về điều ấy. Tôi nghĩ các tài liệu nói rằng nếu ta đánh thức mọi người trong giai đoạn REM, tức giấc ngủ chuyển động mắt nhanh hay giấc ngủ nghịch lý, thì xác suất để nhớ lại giấc mơ là cao hơn so với khi bạn đánh thức họ khỏi giấc ngủ sâu. Tuy nhiên, tôi không biết các số liệu thống kê đó xác đáng đến mức nào.
Vào buổi sáng, bạn có rất nhiều giai đoạn ngủ nghịch lý. Chúng gia tăng suốt đêm và đạt đến đỉnh điểm vào buổi sáng ngay trước khi bạn thức dậy. Thông thường, bạn sẽ nhớ những giấc mơ xảy ra lúc sáng sớm thường xuyên hơn so với những giấc mơ xảy ra lúc nửa đêm – trừ khi bạn có một giấc mơ kịch tính đến mức làm mình thức tỉnh. Phát hiện này đưa đến gợi ý rằng các giấc mơ xảy ra trong giấc ngủ REM thì dễ được ghi nhớ hơn.
LÒNG TỪ BI VÀ HÀNH ĐỘNG
Matthieu: Bạn đã đề cập đến các sóng beta, gamma và chức năng của chúng trong việc tạo ra một số kiểu đồng bộ hoặc cộng hưởng giữa những phần khác nhau của bộ não, từ đó giúp bạn sẵn sàng thực hiện một công việc nào đó. Quá trình này dường như tương đồng với thiền định. Ví dụ như khi các thiền giả thực hiện thiền từ bi, kiểu thiền kích hoạt sóng gamma mạnh mẽ hơn bất cứ kiểu thiền nào khác, thì sẽ xuất hiện một sự kích hoạt đặc thù ở khu vực nằm phía trước của bộ não, hay bộ phận điều hành, mặc dù thiền giả không làm gì cả. Từ góc nhìn chiêm nghiệm, chúng ta có thể lý giải điều này là một sự sẵn sàng trọn vẹn để hành động vì lợi ích của người khác, một phẩm chất vị tha, từ bi chân chính và tự nhiên. Nếu bạn không bị cuốn vào mớ bòng bong tự cho mình là trung tâm và ít coi mọi thứ đều liên quan đến mình, thì bản ngã sẽ không còn bị đe dọa nữa. Bạn sẽ bớt phòng thủ hơn, bớt sợ hãi hơn và bớt ám ảnh về bản thân. Khi cảm giác bất an sâu sắc biến mất, những rào cản mà bản ngã dựng nên sẽ sụp đổ. Bạn sẵn sàng dành thời gian cho người khác và tham gia vào bất cứ hành động nào có thể giúp ích cho họ. Theo một cách nào đó thì lòng từ bi đã đập vỡ cái bong bóng bản ngã. Cách giải thích của chúng tôi là như vậy. Đó cũng là lý do tại sao những trạng thái từ bi và hiện diện cởi mở tạo ra những sóng gamma mạnh mẽ nhất trong tất cả các trạng thái thiền định, chẳng hạn như hơn cả sự tập trung chú ý.
Wolf: Tôi nghĩ sự chú ý tập trung sẽ tương tác với chất nền của tế bào thần kinh ít hơn nhiều vì ngài tập trung vào một nhiệm vụ con nhất định, nói theo ngôn từ cấu trúc não thì là ngài đang sử dụng một hệ thống con nhất định. Ngài kích hoạt và chuẩn bị cho hệ thống con này phát huy tác dụng một cách nhanh chóng thông qua việc cô đọng tất cả các nguồn tài nguyên của mình vào trong nó.
Matthieu: Thuật ngữ trong tiếng Tây Tạng chỉ trạng thái thiền định này dịch ra có nghĩa là “tập trung sự chú ý vào một điểm”.
Wolf: Điều này sẽ dẫn đến việc kích hoạt những sóng gamma tập trung ở các khu vực xử lý nội dung mà ngài đang can dự. Người ta sẽ mong chờ sự gắn kết rộng rãi nhất xảy ra trong quá trình kết hợp với trạng thái mà ngài thường gọi là “hoàn toàn cởi mở” – thuật ngữ đúng là gì nhỉ?
Matthieu: Sự hiện diện cởi mở. Dĩ nhiên, những từ này đều chỉ là gần đúng. Rất khó diễn đạt các trải nghiệm như vậy thành ngôn từ. Nhưng hóa ra là lòng trắc ẩn vô điều kiện gây ra sự kích hoạt gamma thậm chí còn cao hơn sự hiện diện cởi mở.
Antoine Lutz và Richard Davidson đã chỉ ra khi người ta bật luân phiên đoạn ghi âm tiếng khóc phiền muộn của một phụ nữ xen lẫn với tiếng cười của trẻ con cho các thiền giả có kinh nghiệm nghe trong trạng thái từ bi thì một số khu vực của não liên quan đến sự đồng cảm được kích hoạt, bao gồm cả thùy đảo. Khu vực này được kích hoạt bởi tiếng khóc đau khổ nhiều hơn là tiếng cười của trẻ thơ. Một mối tương quan chặt chẽ cũng được quan sát thấy giữa cường độ thiền định về lòng từ bi của chủ thể, sự kích hoạt thùy đảo và nhịp tim. Sự kích hoạt này càng dữ dội hơn khi các thiền giả càng có nhiều giờ tu luyện. Hạch hạnh nhân và vỏ não vòng cung cũng sẽ được kích hoạt, thể hiện sự nhạy cảm cao hơn đối với những trạng thái cảm xúc của người khác. Ngay cả con gái anh là Tania và nhóm của cháu cũng đã chỉ ra rằng các mạng lưới thần kinh dành cho lòng trắc ẩn và sự đồng cảm là không giống nhau. Lòng trắc ẩn và tình yêu vị tha có một khía cạnh ấm áp, đáng yêu và tích cực mà nếu chỉ đồng cảm với nỗi đau của người khác thì sẽ không có, thậm chí có thể dễ dàng dẫn đến phiền muộn và kiệt sức. Trong khi cộng tác với Tania, chúng tôi đã nảy ra ý tưởng là sự kiệt sức trên thực tế là một kiểu “mệt mỏi vì đồng cảm” chứ không phải là “mệt mỏi vì từ bi”.
Barbara Fredrickson và các đồng nghiệp của cô cũng chỉ ra rằng nếu một người thiền từ bi 30 phút mỗi ngày trong vòng từ sáu đến tám tuần thì sẽ làm gia tăng những cảm xúc tích cực và mức độ hài lòng về sự tồn tại. Họ sẽ cảm nhận được sự hân hoan, tử tế, lòng biết ơn, hy vọng và nhiệt tình nhiều hơn. Càng tu luyện lâu bao nhiêu, thì những tác động tích cực càng được ghi nhận nhiều bấy nhiêu.
LÒNG TỪ BI, THIỀN ĐỊNH VÀ SỰ GẮN KẾT TRÍ NÃO
Matthieu: Những kết quả của việc thiền từ bi phải đại diện cho trạng thái gắn kết cao độ bởi tâm trí luôn chứa đầy lòng nhân từ, nhân ái với vạn vật và lòng trắc ẩn dành cho những người khổ đau. Đầu tiên, bạn phải tập trung vào một mục tiêu cụ thể. Ví dụ như, muốn khơi dậy lòng nhân ái, bạn sẽ tưởng tượng ra một đứa trẻ đáng yêu và không cảm thấy gì khác ngoài lòng nhân từ đối với đứa trẻ ấy. Khi trạng thái tinh thần đó nảy sinh rõ ràng trong tâm trí, bạn sẽ khiến nó phát triển và duy trì cho đến khi nó lấp đầy toàn bộ mảnh đất tâm của mình. Sau đó, bạn chỉ cần cố gắng nuôi dưỡng trạng thái này, giữ cho nó hiện diện, đủ đầy và rộng lớn.
Wolf: Hãy để tôi thử diễn giải về điều đó. Có thể là sai, chỉ là suy đoán. Bộ não phải có khả năng phân biệt giữa những trạng thái tốt và xấu, nhất quán và không nhất quán.
Matthieu: Bằng cách nào?
Wolf: Bộ não phải biết liệu rằng một trạng thái động cụ thể là kết quả xác đáng, dù đó là một hành động thuộc về tri giác hay một quá trình cân nhắc, hay trạng thái đó vẫn là một phần của những tính toán mà cuối cùng dẫn đến kết quả. Tất cả những gì chúng ta có trong não là các tế bào thần kinh. Chúng luôn luôn hoạt động, một dòng chảy không ngừng của những hình thái hoạt động luôn thay đổi. Bộ não liên tục thực hiện các tính toán trên những tín hiệu đầu vào và tìm kiếm cách lý giải có khả năng hoặc hợp lý nhất. Và đúng vào một thời điểm nhất định nào đó, một sự chuyển đổi bất ngờ xảy ra hướng về kết quả. Chúng ta nhận thức được sự chuyển đổi này, và do đó bộ não phải có khả năng phân biệt được hoạt động hỗ trợ cho các tính toán hướng tới kết quả và hoạt động đại diện cho kết quả.
Matthieu: Bạn có thể đưa ra một ví dụ về kết quả?
Wolf: Có rất nhiều ví dụ, trải rộng từ các lời giải cho những câu đố trí tuệ, những điều bí ẩn hay các vấn đề toán học cho đến cách giải quyết đơn giản những vấn đề về nhận thức. Hãy tưởng tượng một khung cảnh lộn xộn những hình vẽ trên một phông nền phức tạp. Lúc ấy, hệ thống thị giác của bạn sẽ thực hiện những tính toán tinh vi để tách rời hình ảnh khỏi phông nền và nhận diện chúng thông qua việc so sánh với kho kiến thức được lưu trữ. Rồi đột nhiên, sẽ có một khoảnh khắc – Eureka! Tôi biết rồi! Tôi đã nhận ra nó, tôi đã có giải pháp rồi. Giải pháp này là một mô hình kích hoạt không thời gian cụ thể, không quá khác biệt so với các hình mẫu được tạo ra khi bộ não đang tìm kiếm giải pháp. Câu hỏi là làm thế nào những mô hình kích hoạt đại diện cho giải pháp lại khác với các mô hình phản ánh quá trình tính toán dẫn đến giải pháp. Phải có một đặc trưng cho các trạng thái thần kinh mà là những giải pháp không bị thay đổi bất kể nội dung của nó. Ngoài ra, đặc trưng này phải có nhiều mức độ khác nhau vì chúng ta sẽ gán cho chúng các mức độ tin cậy khác nhau tương ứng cho một giải pháp cụ thể.
Matthieu: Bằng cách nào?
Wolf: Một số giải pháp là không đáng tin cậy lắm. Có lẽ tôi đã đi đến bước cuối của một quá trình cân nhắc, nhưng –
Matthieu: – vẫn không làm bạn thỏa mãn.
Wolf: Phải. Tôi nhận ra đó không phải là một giải pháp đáng tin cậy hoặc nó chỉ là một giải pháp sơ bộ. Tôi phải tiếp tục, hoặc là tôi sẽ không có giải pháp nào cả và phải tính toán nhiều hơn. Bộ não cần phải có những hệ thống đánh giá có khả năng phân biệt các trạng thái kích hoạt này. Nếu không, chúng ta sẽ không biết khi nào nên dừng tính toán rồi nói về kết quả, và cũng không biết chất lượng của kết quả ấy là gì. Vì thế, bộ não phải có một cách để thẩm định các trạng thái bên trong: “Đây là trạng thái thỏa mãn. Đây là trạng thái bất mãn”. Những hệ thống gán giá trị này cũng hỗ trợ cho quá trình học hỏi vì chúng ta muốn ủng hộ các trạng thái được xác định là tốt và chối bỏ những trạng thái bị nhận diện là xấu. Do đó, tính phân cực của những thay đổi trong kết nối khớp thần kinh, thứ làm trung gian cho việc học tập, phải được chuyển đổi thành một hàm giá trị được gán cho một trạng thái. Như vậy, để giúp cho việc tái xuất hiện một trạng thái, các kết nối giữa tế bào thần kinh đang hỗ trợ cho nó cần được tăng cường và ngược lại: Những kết nối giúp ích cho trạng thái bất lợi nên bị suy yếu để ít có khả năng tạo ra chúng hơn.
Matthieu: Điều này tương tự như các nguyên tắc cơ bản của việc rèn luyện hạnh phúc thành một kỹ năng, trước tiên là nhận ra những cảm xúc và trạng thái tinh thần đang khiến bạn khó chịu cũng như những cái mang lại hạnh phúc. Sau đó, công việc của chúng ta là làm cái trước dần mờ đi và phát triển cái sau.
Wolf: Cho phép tôi quay lại với phát biểu của ngài là việc tu luyện và trải nghiệm lòng từ bi cũng là một trạng thái dễ chịu.
Matthieu: Tôi thích gọi nó là trạng thái đủ đầy hơn.
Wolf: Như dữ liệu điện não đồ đã chỉ ra, đó là một trạng thái gắn kết ở mức độ cao. Nó được liên kết với những dao động cao tần với mức đồng bộ hóa mạnh. Giờ đến suy đoán của tôi. Có lẽ đặc trưng của giải pháp này là sự gắn kết, một trạng thái đồng bộ, thời điểm mà toàn thể các tế bào thần kinh tương tác với hoạt động dao động được đồng bộ hóa tốt. Tất cả những gì mà các hệ thống gán giá trị phải làm để xác định các trạng thái gắn kết như vậy là lấy ví dụ những mô hình hoạt động thực xuất hiện trong mạng lưới vỏ não và xác định mức độ gắn kết hoặc đo lường mức đồng bộ. Nhiệm vụ này không khó bởi các tế bào thần kinh có khả năng phân biệt giữa những thông tin đầu vào phân tán đồng bộ và tạm thời, cái đồng bộ hiệu quả hơn nhiều trong việc điều khiển các tế bào thần kinh. Miễn là các mô hình được tạm thời phân tán và thay đổi nhanh chóng, thì các hệ thống gán giá trị sẽ không được kích hoạt và hoạt động vỏ não sẽ được phân loại thành kết quả từ những tính toán đang diễn ra nhưng chưa được hội tụ về kết quả cuối cùng. Tuy nhiên, nếu hoạt động ngày càng mạch lạc, thì các hệ thống gán giá trị sẽ trở nên chủ động, báo hiệu rằng đã thu được kết quả.
Bây giờ, nếu đặc trưng của kết quả là sự gắn kết của một trạng thái, sự đồng bộ hóa nhất thời một lượng đủ tế bào thần kinh phân bố trên một số lượng đủ lớn các vùng vỏ não kéo dài đủ lâu để được xem là có giá trị hoặc ổn định, thì các trung tâm đánh giá nội bộ sẽ phát tín hiệu khi thu được kết quả và cho phép các cơ chế học tập khắc phục trạng thái đó trong trường hợp nó cần được ghi nhớ và củng cố những kết nối hỗ trợ.
Hãy để tôi nói thêm về điều này: Từ kinh nghiệm, chúng ta biết rằng thật dễ chịu khi đi đến kết quả. “Eureka” có thể là một cảm giác cực kỳ hạnh phúc và hài lòng. Do đó, việc kích hoạt các trung tâm đánh giá dường như có liên quan đến những cảm xúc tích cực – một trong những lý do mà đôi khi chúng ta làm việc chăm chỉ để có được giải pháp. Có lẽ ở đây, chúng ta nên có lời giải thích cho những cảm xúc hữu ích liên quan đến thiền định. Như dữ liệu có sẵn đã cho thấy, ngài tạo ra trạng thái bên trong khi thiền và trạng thái đó được đặc trưng bởi mức độ gắn kết cao, sự đồng bộ hóa hoạt động thần kinh dao động trên một mạng lưới các vùng vỏ não mở rộng. Điều kiện này phải là lý tưởng cho sự kích hoạt các hệ thống đánh giá phát hiện những trạng thái gắn kết toàn bộ và các giải pháp khen thưởng bằng cảm xúc tích cực. Những gì ngài thực hành trong thiền định có lẽ là sự sinh ra của những trạng thái gắn kết toàn bộ như vậy mà không tập trung vào các nội dung cụ thể. Ngài tạo ra một trạng thái mang đầy đủ những đặc trưng riêng của một giải pháp tốt và đáng tin cậy mà không có bất kỳ nội dung đặc biệt nào. Ngoại suy ra từ những cảm xúc sau khi tìm thấy giải pháp cho một vấn đề cụ thể, tôi cảm tưởng rằng ngài đã đạt được cảm giác hài hòa trống rỗng nội dung, một cảm giác mà tất cả những xung đột được giải quyết và mọi thứ được trả về đúng vị trí của nó.
Matthieu: Vâng, chúng tôi gọi nó là sự trọn vẹn, lành mạnh, bình an nội tại. Điều đó đưa chúng ta trở lại với những gì Đức Đạt-lai Lạt-ma thường nói, một cách dí dỏm, khi ngài giải thích rằng Đức Bồ Tát – hiện thân lý tưởng của lòng vị tha và từ bi trong con đường Phật giáo – thực tế đã tìm ra cách thông minh nhất để hoàn thành mong muốn riêng về hạnh phúc của mình. Đức Đạt-lai Lạt-ma nói thêm rằng khi chúng ta suy nghĩ và hành động theo hướng vị tha, thì cũng không có gì đảm bảo rằng điều đó sẽ thực sự có lợi cho người khác hoặc thậm chí làm hài lòng họ. Khi bạn cố gắng giúp đỡ ai đó, ngay cả với một động cơ trong sáng tuyệt vời, thì họ cũng có thể nhìn bạn và hỏi rằng: “Này, anh muốn gì? Anh có vấn đề gì hả?” Nhưng khi ấy, chắc chắn 100% là bạn đang tự giúp đỡ chính mình bởi lòng vị tha là trạng thái tích cực nhất trong tất cả các trạng thái tinh thần. Vì thế, Đức Đạt-lai Lạt-ma kết luận: “Đức Bồ Tát là một người ích kỷ thông minh”. Ngược lại, người chỉ nghĩ cho bản thân là kẻ “ích kỷ dại dột” vì anh ta chỉ mang đến phiền muộn cho chính mình.
Wolf: Dường như một điều vô cùng cần thiết là bộ não có thể đánh giá các trạng thái của chính nó, phân biệt giữa điều không mong muốn và mong muốn, rồi sau đó gắn những cảm xúc vào chúng để có thể tránh khỏi những trạng thái không mong muốn và tiếp cận trạng thái mong muốn. Nếu chúng ta có một mâu thuẫn bên trong, thì đó là trạng thái không mong muốn và chúng ta sẽ bị những cảm giác khó chịu đẩy đến việc muốn thoát khỏi trạng thái đó, tìm kiếm một cách giải quyết. Vì vậy, phải có một đặc trưng riêng để kích hoạt những hình thái đại diện cho sự xung đột. Đặc trưng này một lần nữa nên được định dạng khái quát bởi, dù xung đột có thể do nhiều lý do khác nhau và phát sinh ở nhiểu mức độ xử lý khác nhau, các cảm giác liên quan đến xung đột đều tương tự, qua đó cho thấy nên dùng một con đường chung tối hậu để đánh giá các xung đột. Theo hiểu biết tốt nhất của tôi thì chúng ta vẫn chưa biết đặc trưng tế bào thần kinh của xung đột là gì. Nó phải là một trạng thái cụ thể của hoạt động – có lẽ là sự gắn kết ở mức độ đặc biệt thấp.
Matthieu: Nhiều người bị những xung đột bên trong tàn phá theo đúng nghĩa đen.
Wolf: Từ nghiên cứu trên động vật, chúng ta biết rằng những hệ thống khen thưởng nhất định điều chỉnh hoạt động của chúng như chức năng của xung đột, và bằng chứng chỉ ra rằng vỏ não trước giám sát những xung đột nội bộ.
Matthieu: Các xung đột nội tâm thường đi cùng với rất nhiều chiêm nghiệm.
Wolf: Phải, nhưng chúng ta bỏ qua bản chất của những hình thái hoạt động đại diện cho xung đột và chiêm nghiệm. Có lẽ đó là một điều kiện nơi các tập hợp chọn lọc hỗ trợ lẫn nhau phải cạnh tranh để xuất hiện thường xuyên, do đó gây ra sự bất ổn định, một sự thay thế luân phiên giữa những trạng thái siêu ổn định —
Matthieu: — chúng tôi gọi điều đó đơn giản là “hy vọng và sợ hãi” —
Wolf: — nếu không đạt được trạng thái ổn định, nếu mô hình bên trong của thế giới mà bộ não phải luôn luôn cập nhật bằng cách học hỏi liên tục vẫn không phù hợp với “thực tại”. Nếu bộ não đang cố gắng có được các trạng thái ổn định, mạch lạc vì chúng đại diện cho những kết quả có thể được sử dụng làm cơ sở cho các hành động trong tương lai. Và nếu cảm giác dễ chịu được liên kết với những trạng thái nhất quán này thì mục đích của việc rèn luyện tinh thần có thể là để tạo ra các trạng thái như vậy khi không có bất kỳ mục tiêu thực tế nào. Tuy nhiên, để tạo ra các trạng thái đó ngay lập tức, tách biệt khỏi bất kỳ nội dung cụ thể nào, có lẽ sẽ là rất khó khăn. Đây có thể là lý do mà ban đầu cần tưởng tượng ra các mục tiêu cụ thể — tại sao mình lại tập trung sự chú ý vào những cảm xúc nhất định liên quan đến hành động để gợi lên tất cả những xúc cảm tích đáng được ngợi khen như sự rộng lượng, lòng vị tha và trắc ẩn.
Matthieu: Trái ngược với hành vi ích kỷ.
Wolf: Chính xác. Vì vậy ngài dùng những hình ảnh tượng trưng này như một phương tiện để tạo ra các trạng thái gắn kết của não, và nếu nội dung là thú vị, thì trạng thái hân hoan sẽ được tạo ra. Sau đó, một khi tích lũy được nhiều hơn những kiến thức chuyên môn trong việc kiểm soát các trạng thái của não bộ, ngài sẽ học được cách để tách các trạng thái này ra khỏi những tác nhân kích hoạt cho đến khi nội dung của chúng ngày càng trở nên tự do và tự điều khiển.
LÒNG VỊ THA VÀ TRẠNG THÁI HẠNH PHÚC
Matthieu: Tôi nghĩ rằng có thể sẽ là hơi bất công khi xem lòng trắc ẩn chỉ là một trải nghiệm thú vị bởi nó và sự trọn vẹn được đan xen với nhau rất nhiều. Những phẩm chất của con người thường đến theo từng cụm. Lòng trắc ẩn, an bình nội tại, sức mạnh, tự do và hạnh phúc chân chính cùng phát triển như các phần khác nhau của một loại cây trái được nuôi dưỡng tốt. Sự ích kỷ, thù hằn và sợ hãi đến với nhau như những bộ phận của cây độc. Thế nên, cách tốt nhất để trở nên thực sự từ bi là trí tuệ và nhận thức sâu sắc rằng người khác cũng không muốn phải chịu đựng khổ đau và cũng muốn được hạnh phúc như chúng ta. Hệ quả tất yếu, bạn sẽ trở nên thực sự quan tâm đến hạnh phúc và khổ đau của họ. Giúp đỡ người khác đôi khi không “dễ chịu” chút nào, theo nghĩa bạn có thể phải cân nhắc việc chịu đựng một số thử thách “khó chịu”, nhưng sâu bên trong là một cảm giác bình yên, can đảm và hòa hợp với sự phụ thuộc lẫn nhau của vạn vật chúng sanh.
Wolf: Ngài nói đúng. Nếu có thể kết nối hạnh phúc của riêng mình với lòng trắc ẩn và từ bi thì đó là một tình huống có lợi cho cả hai. Tuy nhiên, điều mà tôi đang hỏi là bộ não xác định trạng thái nào là dễ chịu? Chúng ta đều biết rằng mình có những trạng thái đó khi tìm ra giải pháp, giải quyết được một xung đột hay khi chúng ta giúp đỡ người khác — các trạng thái não bộ đặc biệt phải được trải nghiệm như là những trạng thái tốt. Như các mối tương quan điện sinh lý mà các trạng thái thiền định của ngài cho thấy, những trạng thái tốt này rõ ràng là trạng thái có sự gắn kết cao giữa nhiều khu vực của vỏ não. Phải chăng đây là một giả định hợp lý?
Matthieu: Bạn biết rõ về những trạng thái gắn kết hơn tôi, nhưng tôi thấy nó thật sự hợp lý. Quay trở lại với những xung đột nội tâm, chúng chủ yếu liên quan đến việc trầm tư quá mức về quá khứ cũng như lo lắng dự đoán về tương lai. Từ đó dẫn đến việc bị dằn vặt bởi hy vọng và sợ hãi.
Wolf: Mặt khác, tôi nhìn nhận nó như là sự cường điệu của nỗ lực sử dụng những kinh nghiệm trong quá khứ cho việc dự đoán tương lai, một nỗ lực dường như không phải lúc nào cũng đưa đến một giải pháp ổn định vì tương lai là không thể lường trước. Có lẽ chính sự bám víu vào việc tìm kiếm không có kết quả các giải pháp khả thi tốt nhất — mà theo định nghĩa là không thể tìm được — đã làm hỏng hệ thống và gây nên những cảm giác khó chịu.
NHỮNG KHOẢNH KHẮC KỲ DIỆU
Matthieu: “Tôi rất lo lắng về việc không biết điều này có xảy ra không”, “Tôi nên làm gì?”, “Tại sao mọi người lại đối xử với tôi như vậy?”, “Tôi rất lo lắng vì mọi người đang nói về mình”. Những luồng suy nghĩ như vậy sẽ dẫn đến trạng thái bất ổn của tâm trí. Cảm giác bất an đó được củng cố bằng cách ẩn mình trong mớ bòng bong chỉ quan tâm đến bản thân nhằm bảo vệ chính mình. Thực tế, trong không gian giới hạn của việc chỉ quan tâm đến bản thân, sự trầm tư sẽ càng đi lạc. Do đó, một trong những mục đích của thiền định là phá tan mớ bòng bong của bản ngã tham lam và để cho những cấu trúc tinh thần này tan biến vào không gian mở của tự do.
Trong cuộc sống hằng ngày, khi con người trải nghiệm những giây phút của ân sủng hoặc phép màu, như khi đang đi bộ trong tuyết dưới những vì sao hay dành những khoảnh khắc hạnh phúc với bạn bè thân yêu trên một bãi biển hoặc đỉnh núi, thì điều gì sẽ xảy ra? Đột nhiên, gánh nặng của những xung đột nội tâm được trút bỏ. Họ cảm thấy hòa hợp với người khác, với chính mình, với thế giới. Họ cảm thấy thoải mái và những xung đột bên trong sẽ biến mất trong một thời gian. Thật tuyệt khi tận hưởng trọn vẹn những giây phút nhiệm màu như thế, nhưng điều đó cũng tiết lộ lý do vì sao họ cảm thấy thật thoải mái: bình định những xung đột nội tâm và cảm giác phụ thuộc lẫn nhau tốt hơn với mọi thứ thay vì phân mảnh thực tại thành các thực thể bền vững và tự chủ, một sự nghỉ ngơi thoát khỏi những độc tố tinh thần. Tất cả các điều này là những phẩm chất có thể nuôi dưỡng bằng cách phát triển trí tuệ và tự do nội tâm. Sự rèn luyện này sẽ dẫn đến không chỉ là một vài khoảnh khắc của ân sủng mà còn đạt đến trạng thái hạnh phúc lâu bền mà chúng ta có thể gọi là hạnh phúc đích thực. Đó là trạng thái thỏa mãn bởi những cảm giác bất an sẽ dần nhường chỗ cho sự tự tin sâu sắc.
Wolf: Tự tin vào cái gì?
Matthieu: Tự tin rằng mình có khả năng sử dụng những kỹ năng đó để đối phó với những thăng trầm của cuộc sống, những kích động, cảm xúc... một cách tối ưu hơn nhiều. Sự bình thản, không thờ ơ sẽ giúp bạn không bị ngả nghiêng như những ngọn cỏ trong gió trước mọi lời ngợi khen cũng như chỉ trích, trước được và mất v.v. Bạn có thể luôn dựa vào sự sâu sắc của an bình nội tại và những cơn sóng trên bề mặt sẽ không còn xuất hiện đe dọa như trước nữa.
PHẢN HỒI CÓ THỂ THAY CHO RÈN LUYỆN TÂM TRÍ?
Wolf: Vì thế, thông qua việc rèn luyện tinh thần, ngài sẽ khiến bản thân quen dần với những trạng thái ổn định nội tâm, từ đó bảo vệ mình trước những suy ngẫm không có kết quả. Nếu các trạng thái mong muốn này có những đồ họa đặc trưng riêng có thể đo lường và theo dõi, thì chúng ta có thể sử dụng phản hồi sinh học để tạo điều kiện cho quá trình học tập cần thiết, từ đó đạt được và duy trì các trạng thái này. Nó có thể giúp cho việc làm quen với những trạng thái này nhanh hơn. Phải thừa nhận rằng cách tiếp cận này là một khát vọng điển hình của phương Tây trong việc phá vỡ các thủ tục rườm ra, mất thời gian và tìm kiếm những lối đi tắt trên con đường dẫn đến hạnh phúc…
Matthieu: Bạn biết về các thử nghiệm mà trong đó các nhà khoa học cấy những điện cực vào một vùng não ở chuột nhằm tạo ra khoái cảm khi được kích thích. Những con chuột sau đó có thể tự kích thích mình bằng cách nhấn vào thanh điều khiển. Khoái cảm tạo ra mạnh mẽ đến mức chúng sớm từ bỏ mọi hoạt động khác, kể cả việc ăn uống và sinh sản. Việc theo đuổi cảm giác này trở thành một cơn đói vô độ, một nhu cầu không thể kiểm soát, và những con chuột nhấn vào thanh điều khiển cho đến khi chúng chết vì kiệt sức. Vì vậy, tôi bị thuyết phục rằng bất kỳ lối tắt nào cũng sẽ đưa đến kết quả là trạng thái ham muốn nhiều hơn là thay đổi sâu sắc trong nhận thức, điều đòi hỏi phải có sự rèn luyện tâm trí. Nhận thức về an lạc nội tại và trọn vẹn là sản phẩm phụ của việc phát triển toàn bộ các phẩm chất của con người. Việc bám chấp vào những cảm giác dễ chịu được đổi mới liên tục có lẽ sẽ dẫn đến các kết quả khác nhau. Tuy nhiên, như bạn đã biết, một dự án nghiên cứu đang được tiến hành với con gái Tania của bạn dường như chỉ ra rằng các thiền giả lão luyện, khi phản hồi về trạng thái kích hoạt của những vùng não bộ cụ thể, có thể điều chỉnh theo ý muốn lòng từ bi, sự chú ý và thậm chí là những cảm giác tiêu cực như ghê tởm hoặc đau đớn dữ dội về thể xác.
Wolf: Nhưng trong trường hợp này, trước tiên ngài phải tạo ra các hình thái kích hoạt đặc trưng kết hợp với những xúc cảm này cũng như tìm hiểu về mối quan hệ định lượng giữa hoạt động và cường độ của cảm giác. Câu hỏi của tôi là liệu ngài có cho rằng có khả năng cải thiện, thông qua thử và sai, những trạng thái não nhất định được hiển thị qua những vòng lặp và rồi sau đó, từng bước một, sẽ ngày càng quen thuộc hơn với những trạng thái này cho đến khi có thể tạo ra chúng một cách có chủ ý hay không.
Matthieu: Có lẽ không phải là không thể, nhưng tôi không nghĩ rằng đó là cách tốt nhất để tiếp tục, và tôi không thực sự thấy được ý nghĩa của việc làm đó. Việc đơn giản nhận được phản hồi về một kỹ năng cụ thể có thể không giúp ích cho những người mới bắt đầu bởi tất cả các kỹ năng này — sự chú ý, đồng cảm, kiểm soát cảm xúc — cần được phát triển đồng thời, và đó là những gì mà các kỹ thuật thiền định sẽ làm. Thật vậy, việc sử dụng liên tục, lâu dài những kỹ thuật này, cái mà chúng ta gọi là thiền định, đều dựa trên trí tuệ cũng như hiểu biết sâu sắc về cách thức mà bộ não hoạt động và bản chất của thực tại (như là sự vô thường, phụ thuộc lẫn nhau v.v.). Những kỹ thuật phản hồi có thể thiếu đi sự phong phú của các phương pháp chiêm nghiệm dùng để phát triển sự đồng cảm, lòng vị tha, và cân bằng xúc cảm. Tuy nhiên, với mục đích trị liệu, việc đào tạo phản hồi như vậy có thể có tính chất tuyệt vời và giúp cho những ai thiếu một kỹ năng cụ thể nào đó, như là sự chú ý hoặc cảm thông, tập trung hơn vào việc phát triển kỹ năng đó. Chúng cũng có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cách thức hoạt động của bộ não.
Hơn nữa, việc chỉ phản hồi hay thậm chí tệ hơn là kích thích trực tiếp có thể không dẫn đến sự thay đổi về hành vi đạo đức, như trong trường hợp của thiền định. Chẳng hạn, việc kích thích các khu vực của não bộ là nguyên nhân dẫn đến những xúc cảm tốt, hoặc dùng chất gây nghiện lúc nào cũng mang lại cảm giác “bay”, không thể khiến bạn trở thành một người nhân ái, đạo đức hơn. Thậm chí nó sẽ làm bạn cảm thấy phụ thuộc và bất lực hơn bao giờ hết khi những kích thích chấm dứt.
Wolf: Một vài loại thuốc dường như chỉ kích hoạt trực tiếp những cấu trúc trong não mà thông thường sẽ chỉ bị kích hoạt như là hậu quả của các trạng thái não bộ mà chúng ta đã đề cập là những trạng thái “tốt” — những trạng thái thái không có xung đột, tương ứng với giải pháp và kết dính với nhau. Các loại thuốc rõ ràng không tạo ra các trạng thái phức tạp này mà hoạt động trực tiếp trên các hệ thống đánh giá chúng. Chúng đánh lừa các hệ thống gán giá trị.
Matthieu: Đó là lý do vì sao tạo ra những cảm giác dễ chịu liên tiếp chỉ để cảm thấy hài lòng sẽ là một phiên bản rèn luyện tâm trí nghèo nàn và thậm chí có thể gây tác dụng ngược. Theo nghĩa của nó, toàn bộ ý tưởng về sự hưng thịnh thuần khiết của con người xuất phát từ việc nuôi dưỡng một loạt các phẩm chất trải dài từ trí tuệ cho đến lòng trắc ẩn, những điều được coi là giúp đạt được hạnh phúc đích thực và một trái tim nhân hậu, hay những mục tiêu cuộc sống.
Wolf: Các loại thuốc thần kinh thường được bênh vực như một phương tiện để mở ra cánh cửa hướng đến sự hiểu biết tốt hơn về bản thân, bằng cách mở rộng kinh nghiệm của một người và tạo ra các trạng thái ý thức thay đổi có thể được ghi nhớ và thậm chí là nuôi dưỡng khi thuốc hết tác dụng. Cũng cùng thời gian đó, phản hồi sinh học đã được tuyên truyền như một kỹ thuật để bước vào những trạng thái thư giãn. Nếu bạn đang trong trạng thái thư giãn, sống chậm với mắt nhắm lại, thì các vùng lớn của não tham gia vào hoạt động dao động đồng bộ trong dải tần số alpha khoảng 10 Hz và có thể được đo lường dễ dàng. Nếu biên độ của nó được chuyển thành âm và các đối tượng được yêu cầu cố gắng gia tăng cường độ của âm đó, thì sau một thời gian, người ta quan sát những chủ thể thực sự có thể tăng cường hoạt động alpha của chúng — và chúng cũng báo cáo lại về việc tiến vào trạng thái thư giãn.
Matthieu: Khá là thú vị! Một nghiên cứu sơ bộ với các thiền giả được đào tạo về Phật giáo Tây Tạng chỉ ra rằng khi một người đột nhiên xóa sạch tất cả những cuộc trò chuyện về tinh thần trong tâm trí, thì toàn bộ sóng alpha sẽ biến mất trong một khoảng thời gian. Thông thường, sau tiếng nổ thường sẽ gây ra phản ứng giật mình, tâm trí của thiền giả bị bỏ lại trong trạng thái rõ ràng là không có cấu trúc tinh thần và suy nghĩ rời rạc. Vì vậy, nếu những kết quả này được xác nhận, thì thiền giả sẽ liên kết những sóng alpha với cuộc trò chuyện tinh thần, một cuộc trò chuyện hỗn loạn nhỏ dường như đang diễn ra hầu hết thời gian trong tâm trí chúng ta.
Wolf: Chắc chắn rằng sóng alpha sẽ bị triệt tiêu khi bạn tập trung sự chú ý vào một thứ gì đó. Nó cũng sẽ bị suy giảm khi bạn mở mắt và tương tác một cách thận trọng với môi trường. Một quan sát cho thấy nhịp điệu của sóng alpha không tương thích với sự tương tác của chú ý. Nó xuất hiện để phục vụ cho việc ngăn chặn các hoạt động có khả năng gây mất tập trung. Tuy nhiên, nhiều bằng chứng khác cho thấy sóng alpha phục vụ như là người vận chuyển nhịp điệu cho sự phối hợp của những dao động tần số cao hơn, và do đó, có thể đóng vai trò trong sự cấu thành phụ thuộc chú ý của các mạng chức năng. Tôi sẽ nói rằng có rất ít sóng alpha được tạo ra khi bạn tương tác với thể loại thiền định của mình bởi khi đó, bạn sản sinh ra một lượng lớn sóng gamma hoạt động, và những sóng hoạt động này sẽ thường loại trừ hoạt động của sóng alpha.
Matthieu: Như tôi đã đề cập trước đó, chúng ta nên sửa chữa hình ảnh nguyên bản của việc thiền định vẫn tồn tại trong quan điểm của phương Tây khi cho rằng chỉ cần ngồi đâu đó để đầu óc trống rỗng và thư giãn. Dĩ nhiên, yếu tố thư giãn luôn hiện hữu trong ý nghĩa thoát khỏi xung đột nội tâm, vun đắp cho bình an nội tại và giải thoát bản thân khỏi những căng thẳng. Ngoài ra, yếu tố làm trống rỗng tâm trí có thể được ghi nhận, trong ý nghĩa không duy trì sự bịa đặt tinh thần hoặc suy nghĩ tuyến tính và nghỉ ngơi trong trạng thái tươi mát rõ ràng của khoảnh khắc hiện tại. Tuy nhiên, trạng thái này cũng không phải là trống rỗng hay thư giãn buồn tẻ. Đó là một trạng thái của nhận thức sinh động phong phú hơn nhiều. Ngoài ra, người ta không cần phải cố gắng để ngăn cản những ý nghĩ phát sinh — một điều bất khả thi — mà cứ mặc kệ, để cho chúng khởi phát.
Wolf: Khi nói đến “tư duy tuyến tính”, phải chăng ý ngài là những suy nghĩ nối tiếp, đi từ mục này sang mục khác, đặc điểm tiêu biểu của sự cân nhắc có ý thức.
Matthieu: Ý tôi là suy nghĩ rời rạc, phản ứng dây chuyền của những suy nghĩ và xúc cảm, đưa đến kết quả là sự huyên náo tinh thần liên tiếp.
Wolf: Vậy thì sự trầm tư là những vòng xoáy vô tận của suy nghĩ.
Matthieu: Đúng, đó là sự sinh sôi không ngừng của những suy nghĩ, dựa trên sự tự tôn, hy vọng và sợ hãi mà hầu hết đều là phiền não.
Wolf: Sẽ là rất thú vị để thực hiện một nghiên cứu toàn diện về điện não đặc trưng của tình trạng tâm trí huyên thuyên hoặc lang thang này. Có lẽ sẽ là khả thi nếu có thể cân nhắc việc chuyển đổi giữa những trạng thái huyên thuyên và không huyên thuyên. Sẽ là rất tuyệt khi biết rằng đặc điểm của những trạng thái xử lý nối tiếp này khiến chúng ta đi từ A đến B rồi C để tìm kiếm một giải pháp. Và nó nên là đặc trưng của các trạng thái đến trước những quyết định.
Matthieu: Khi mọi người lạc lối trong những suy nghĩ của họ, thì quá trình tự động có thể diễn ra trong một thời gian khá lâu, và đột nhiên họ thấy mình ở một nơi hoàn toàn khác.
Wolf: Điều đó có thể được đồng ý. Đôi khi nó xảy ra khi bạn đọc — ít nhất là với cá nhân tôi. Bạn đọc và sau đó phát hiện ra đôi mắt của mình tiếp tục lướt qua các dòng, nhưng tâm trí của bạn thì lại ở một nơi khác, đi theo một con đường khác. Trải nghiệm này không hẳn là khó chịu, và thậm chí đôi khi, nó còn có thể tạo ra một khoảnh khắc sáng tạo. Hoàn toàn bất ngờ, nó có thể mang đến cho bạn những hiểu biết mới, với các giải pháp không ngờ.
Matthieu: Hoàn toàn có thể. Nếu bạn khơi gợi lên những ký ức hay tình huống thuần khiết, nhưng nó vẫn thuộc về tâm trí đang lang thang, thì điều này sẽ tạo ra một trở ngại cho sự rõ ràng và ổn định. Nếu bạn muốn gợi lên những trạng thái đặc biệt của tâm trí, thì tốt nhất là nên làm điều đó với ý thức định hướng, điều sẽ góp phần vào sự phát triển nội tại thay vì trôi đi theo suy nghĩ của mình.
Wolf: Không cần phải khó chịu vì những trạng thái bất ổn, và tôi nghi ngờ chúng thậm chí còn có thể là điều kiện tiên quyết không thể thiếu cho sự sáng tạo.
Matthieu: Một nghiên cứu đã được thực hiện bởi nhà thần kinh học Scott Barry Kaufman đã chỉ ra rằng những trạng thái não thuận lợi cho sự sáng tạo có vẻ là loại trừ lẫn nhau với sự chú ý tập trung. Theo ông, sáng tạo được sinh ra từ sự hợp nhất của các trạng thái tinh thần dường như mâu thuẫn, có thể là khập khiễng với lộn xộn, khôn ngoan và điên rồ, phấn khởi và đau đớn, tự phát và chưa thể phát sinh từ đào tạo bền vững.
Wolf: Tôi muốn quay lại thảo luận về những đặc điểm của các trạng thái não bộ gây ra khó chịu. Như đã đề cập, phải có những trạng thái não được xác định là mong muốn và được gắn kết với cảm xúc tích cực. Tương tự vậy, cũng phải có những trạng thái mà bộ não luôn cố gắng để tránh — bởi nó liên quan hoặc dẫn đến những cảm giác khó chịu. Vế thứ hai chắc chắn cũng quan trọng như là vế đầu trong việc hướng dẫn hành vi, thúc đẩy việc học tập và bảo vệ chúng ta khỏi sa vào những cạm bẫy nguy hiểm, giống như nỗi đau thì cũng quan trọng như là sự hài lòng. Các trạng thái gây khó chịu sẽ thúc đẩy cho việc tìm kiếm những giải pháp để giải quyết xung đột. Giờ thì, phải chăng là có hai chiến lược bổ sung cho nhau để tránh những cảm giác khó chịu liên kết với trạng thái não xung đột? Cách thứ nhất bao gồm việc sử dụng thuốc kích thích để tác động vào những hệ thống gây ra cảm giác khó chịu — giống như việc dùng thuốc giảm đau để tránh đau đớn. Cũng theo cách đó, chúng ta có thể kìm nén cảm giác tồi tệ bằng cách xao nhãng, chú ý vào một thứ gì khác hoặc phải học cách chịu đựng trạng thái khó chịu. Những chiến lược này cho phép chúng ta đối phó với các triệu chứng nhưng không thể giải quyết được nguyên nhân.
Hoặc đây là cách thứ hai. Chúng ta sẽ cố gắng đi đến tận cùng, tìm hiểu xem vấn đề là gì, và sau đó cố gắng để giải quyết nó. Cách làm này có thể đòi hỏi sự trầm tư và thậm chí gây ra nhiều hơn những cảm giác khó chịu tạm thời, nhưng cuối cùng có thể dẫn đến việc loại bỏ các nguyên nhân mâu thuẫn và tập trung vào một giải pháp. Cả hai cách làm này đều có đặc điểm của chúng. Rõ ràng, việc loại bỏ các nguyên nhân luôn luôn là tốt hơn. Tuy nhiên, nếu xung đột là không thể giải quyết, nếu cái giá phải trả cho giải pháp là quá cao, hoặc nếu đó là một xung đột hão huyền, là chất kích thích, sự đàn áp hay việc học cách để đối phó có thể phù hợp hơn là phấn đấu cho một giải pháp cuối cùng nhưng không thể đạt được. Trong hai cách làm trên, ngài nghĩ thiền định gần với cách nào nhất? Đó có thể là một kỹ thuật để giải quyết các xung đột bằng cách đơn giản là phân tách những cảm giác khó chịu ra khỏi vấn đề và làm tan biến chúng mà không cần phải đối phó với chính những vấn đề đó. Nếu là trường hợp này, thì tôi sẽ dự đoán rằng đó là bài tập để củng cố trạng thái hạnh phúc, nhưng chỉ trong một môi trường được che chở tốt như ở trong tu viện hoặc một số trạng thái lý tưởng tương tự khác.
Sau đó, có một trạng thái thứ ba mà tôi muốn gọi là trạng thái nhàn rỗi, được gắn kết với những cám xúc không tốt cũng không xấu. Bộ não lơ lửng trên mặt đất, sẵn sàng để tương tác nhưng chưa tham gia vào bất kỳ hoạt động có chủ đích nào.
Matthieu: Chúng tôi gọi đó là trạng thái trung lập hoặc không xác định. Nó không tích cực cũng không tiêu cực, nhưng vẫn nhiễm đầy sự hoang mang về tinh thần.
Wolf: Tất cả mọi người đều quen thuộc với ba trạng thái này — tích cực, trung dung và bị gây khó chịu — bởi bộ não của chúng ta được xây dựng theo cách đó. Chúng ta có toàn bộ mọi chiến thuật để tránh khỏi các trạng thái tiêu cực và duy trì hai trạng thái trước càng lâu càng tốt — và tôi phỏng đoán rằng sự tiến hóa đã lập trình cho chúng ta theo cách đó để đảm bảo cho sự tồn tại của chúng ta trong một thế giới phức tạp, không chắc chắn. Giờ đây, ngài cho rằng qua việc rèn luyện tinh thần, chúng ta có thể tái lập trình bộ não của mình để có thể duy trì những trạng thái tích cực nhiều hơn, với hiệu ứng kép là chúng ta cảm thấy tốt hơn, đồng thời hành xử nhiều hơn theo cách giảm xung đột trong tương tác với thế giới. Đây thực sự sẽ là chìa khóa dẫn đến thiên đường trên Trái đất, và với tôi, nó có vẻ tốt đẹp đến mức phi lý. Vậy đâu là giới hạn của con đường dường như là rất quý báu này đối với hạnh phúc toàn vẹn?
GIỚI HẠN NÀO CHO VIỆC LUYỆN TÂM?
Matthieu: Có những giới hạn rõ ràng đối với những năng lực thể chất của chúng ta, chẳng hạn ta có thể chạy nhanh đến mức nào hoặc nhảy cao được bao nhiêu. Và cũng tương tự đối với năng lực tinh thần, ví như số lượng các thứ mà chúng ta có thể lưu trữ trong bộ nhớ tạm thời, khả năng duy trì sự chú ý toàn diện tới một nhiệm vụ trong thời gian dài, tổng số thông tin mà ta có thể đồng thời xử lý khi phải đối mặt với nhiều kích thích khác nhau v.v. mặc dù chúng có thể được rèn luyện đến một mức độ nào đó. Tuy nhiên, liệu có thể tồn tại một giới hạn nào cho những phẩm chất của con người như lòng trắc ẩn hoặc nhân ái, giống như chất lượng hơn là số lượng? Bất kể lòng từ bi trong tâm trí chúng ta đang ở mức độ nào, thì tôi không hiểu tại sao chúng ta không thể tiếp tục phát triển nó, làm cho nó rõ ràng và rộng lớn hơn. Tôi không thấy có điều gì có thể giới hạn chúng. Bạn luôn luôn có thể nhận thức được lòng từ bi một cách trọn vẹn hơn, sâu sắc hơn và cũng mãnh liệt hơn. Đó chính là điểm quan trọng trong việc luyện tâm. Đức Đạt-lai Lạt-ma thường nói rằng: “Đúng, luôn có những hạn chế về mặt thông tin đối với những gì chúng ta có thể học, nhưng lòng từ bi thì lại có thể được phát triển vô biên”.
Wolf: Thật thú vị! Tôi đã có thể nghĩ ngược lại. Lòng từ bi là một trạng thái cảm xúc. Do đó, biên độ của nó — bằng cách nào đó — nên được mã hóa trong hoạt động của các tế bào thần kinh làm trung gian cho trạng thái này. Việc học sẽ dẫn đến những dấu tích, và bởi vì tính kết hợp của các dấu tích mà chúng ta đã thảo luận trước đó, khả năng lưu trữ của bộ não là rất lớn. Điều này được chứng minh bằng trường hợp nổi tiếng của một số người bị khuyết tật tâm thần hoặc gặp khó khăn trong học tập nhưng cực kỳ có năng khiếu về trí nhớ hoặc tính toán. Những người này thường gặp khó khăn trong việc khái niệm hóa các mối quan hệ trừu tượng, và do đó phải sử dụng sức mạnh khủng khiếp của trí nhớ để đối phó với thế giới. Số lượng lớn các tế bào thần kinh và thậm chí nhiều kết nối được sửa đổi bằng việc học cách cho phép não bộ tạo ra một số lượng gần như vô hạn các dấu tích khác nhau. Nếu một bộ nhớ cụ thể được triển khai thực hiện bởi một mô hình kích hoạt xác định, trong đó có khoảng 100 tế bào thần kinh tham gia bất cứ lúc nào, thì ít nhất về mặt toán học, chúng ta sẽ có nhiều trạng thái khả thi hơn là các nguyên tử trong vũ trụ.
Matthieu: Một trăm tế bào thần kinh kết nối với mọi tế bào thần kinh khác?
Wolf: Không. Nếu ngài lấy 1011 tế bào, nhưng xác định một trạng thái bằng một chòm sao cụ thể gồm 100 tế bào, thì dĩ nhiên, sẽ có nhiều nhóm 100 tế bào trong không gian của 1011 tế bào này. Mỗi nhóm trong số đó có thể mang nhiều trạng thái khác nhau, và điều này đem lại một số lượng lớn không thể tưởng của những trạng thái khả khi. Tuy nhiên, không gian lưu trữ cực cao này không thể khai thác được hết bởi các khó khăn chồng chất đã đề cập trước đó. Những dấu tích không được phép chồng chéo quá nhiều để có thể truy xuất được dưới dạng các biểu diễn riêng biệt.
Matthieu: Vậy làm cách nào tất cả chúng ta, những người không có những năng lực đáng kinh ngạc như vậy, có thể ghi nhớ và tính toán giống như những người tự kỷ?
Wolf: Thực ra, tất cả chúng ta đều có, nhưng không nhận ra nó. Nếu sử dụng bộ nhớ thị giác của mình, ngài có thể đến một nơi nào đó trên thế giới mà mình đã không đến trong vòng 20 năm và nhận ra rằng một ngôi nhà đã không còn và nhớ ra mình từng đến đó trước đây.
Matthieu: Hoặc bạn đến một ngôi nhà mà mình đã không ở trong một thời gian dài và ngay lập tức nhận ra những thay đổi nhỏ nhất như hình dạng của tay nắm cửa hoặc chiếc ấm trà, trong khi chỉ mới vài phút trước đó, bạn đã không thể diễn tả chúng.
Wolf: Chúng tôi coi điều này là đương nhiên bởi vì tất cả mọi người đều như vậy. Hãy nghĩ về dung lượng bộ nhớ cần thiết để lưu trữ tất cả những khung cảnh mà bạn đã cảm nhận được trong đời mình. Nó là khổng lồ! Ngài biết là để lưu trữ một bức ảnh đơn giản được chụp bằng máy ảnh kỹ thuật số thì cần bao nhiêu bộ nhớ. Chúng ta đi khắp thế gian và lưu trữ tất cả những khung cảnh mà chúng ta cảm nhận được. Chúng ta không và không thể nhớ lại chúng tại bất cứ lúc nào, nhưng nếu những tín hiệu cung cấp được liên kết, thì ta sẽ nhận ra rằng chúng được cất giữ khá cẩn thận. Tất cả chúng ta đều có dung lượng bộ nhớ này, nhưng sử dụng chiến lược mạnh bạo đó cho việc ghi nhớ mọi thứ để giải quyết các vấn đề lại không thực tế. Sẽ là tiết kiệm hơn nhiều khi rút ra một quy tắc và ghi nhớ chúng, hay chỉ cần nhớ nơi bạn có thể tìm thấy thông tin. Sẽ là lịch sự hơn để khái niệm hóa và lưu trữ một đại diện trừu tượng đã được tinh gọn. Tại sao phải lưu giữ một tình huống phức tạp thay vì có thể đại diện nó với một ký hiệu, từ ngữ đơn giản.
Trẻ nhỏ thường ít sử dụng chiến lược tiết kiệm này bởi chúng vẫn phải thu nhặt khả năng hình thành các mô tả trừu tượng và sử dụng biểu tượng. Vì thế, chúng phụ thuộc nhiều hơn vào chiến lược lưu trữ mạnh bạo, và đây là lý do chúng luôn thắng chúng ta trong các trò chơi về “ghi nhớ”. Nếu việc thu được các chiến lược dựa trên những khái niệm và biểu tượng bị suy yếu do chấn thương não hoặc bởi khuynh hướng di truyền, thì chiến lược ghi nhớ mạnh bạo chi tiết mọi thứ sẽ được trau dồi. Một phần nào đó, nó giúp đối phó với cuộc sống, nhưng nhiều người trong số những người tự kỷ phải cố gắng đấu tranh với cuộc sống bình thường bởi họ gặp khó khăn trong việc thể hiện các mối quan hệ phức tạp.
Matthieu: Còn cảm xúc?
Wolf: Một số “bộ nhớ phi thường” thực sự thiếu nhận thức cảm xúc. Chẳng hạn như trẻ tự kỷ gặp nhiều khó khăn trong việc giải mã những biểu cảm của khuôn mặt và kết nối với cảm xúc biểu hiện. Điều đó khiến chúng khó có thể suy luận được biểu cảm trên mặt của người chăm sóc mình và ngăn cản chúng gắn bó với môi trường cũng như phát triển những kỹ năng xã hội. Khi trẻ con hành động, chúng luôn nhìn vào người chăm sóc ở một số giai đoạn để tìm hiểu xem hành vi của chúng có được chấp thuận hay không. Nếu không thể diễn giải được biểu cảm của người chăm sóc, chúng sẽ trở nên khó khăn trong việc phát triển các chức năng nhận thức và gắn kết với thế giới. Rồi sau đó, chúng sẽ ngày càng bị cô lập. Đây là một lý giải khác cho khả năng ghi nhớ dường như là rất lớn của một số trẻ tự kỷ:
Bởi vì chúng không thể đầu tư vào các mối quan hệ xã hội nên môi trường của chúng trở nên nghèo nàn và hướng sự quan tâm của chúng vào những nguồn thông tin khác như thời gian biểu, lịch v.v. Sau đó chúng thực hành, luyện tập và ghi nhớ. Điều đó có nghĩa, tôi không phải là một chuyên gia trong lĩnh vực này và bạn nên thận trọng với mọi thứ tôi nói.
Matthieu: Gần đây, tôi vừa biết một người — Daniel Tammet — người có thể đọc thuộc lòng, theo đúng thứ tự, 22.514 chữ số thập phân của số Pi. Phải mất tới hơn 5 giờ đồng hồ, và anh ấy đã làm điều đó mà không mắc phải một lỗi nào cả. Daniel nói rằng anh không hề cảm thấy lo lắng gì khi phải ghi nhớ một lượng lớn đáng kinh ngạc các con số như vậy. Anh chỉ sợ việc phải đọc chúng ở nơi công cộng. Anh cũng đề cập rằng, bình thường, bất cứ khi nào cảm thấy lo lắng thì chỉ cần nghĩ đến những con số, anh sẽ lấy lại được bình tĩnh và cảm thấy yên tâm.
Wolf: Những ví dụ này minh họa một cách ấn tượng rằng bộ não có khả năng thể hiện vượt xa trí tưởng tượng của hầu hết chúng ta. Ngay trong những việc mà từ cái nhìn đầu tiên và không có bằng chứng ngược lại, chúng ta sẽ đánh giá là không thể. Có lẽ cũng tương tự cho những thành tựu có thể hoàn thành bằng việc rèn luyện tinh thần chuyên sâu. Tuy nhiên, tôi không biết làm thế nào để định lượng về độ lớn của lòng từ bi bởi sẽ là rất khó để đo lường các hiện tượng chỉ tồn tại trong góc nhìn chủ quan của một người.
Câu hỏi liệu rằng có giới hạn trên nào cho những phẩm chất của con người như lòng trắc ẩn và nhân ái quả thực không dễ để trả lời. Hãy tạm giả định rằng những cảm xúc này được mã hóa theo cường độ hay chất lượng nổi bật của các phản ứng thần kinh. Về nguyên tắc, có ba cách để tăng cường chất lượng nổi bật của các phản ứng thần kinh. Thứ nhất là gia tăng tốc độ phóng điện của các tế bào thần kinh. Cách làm này được áp dụng cho việc mã hóa các kích thích giác quan: Kích thích càng mạnh thì tần số phóng điện của các tế bào thần kinh mã hóa càng cao. Thứ hai là gom vào nhiều thật nhiều các tế bào thần kinh: Kích thích càng mạnh thì càng nhiều tế bào thần kinh sẽ hồi đáp vì ngay cả các tế bào thần kinh ít kích thích cũng sẽ hoạt động. Và cách làm thứ ba là tăng tính đồng bộ của sự phóng điện thần kinh, bởi hoạt động đồng bộ điều khiển các tế bào thần kinh mục tiêu hiệu quả hơn các hoạt động đầu vào tạm thời bị phân tán. Do đó, hoạt động đồng bộ sẽ lan truyền dễ dàng và nhanh chóng hơn trong các mạng tế bào thần kinh.
Rõ ràng, bộ não có thể sử dụng ba chiến lược thay thế cho nhau, như chúng ta gần đây đã có thể công bố trong một nghiên cứu được xuất bản trên Neuron. Chúng tôi khai thác một hiện tượng thị giác gọi là gia tăng cường độ tương phản. Độ tương phản cảm nhận của mạng lưới mô hình có thể được tăng cường nếu nó được hiển thị trên một mạng lưới nền khác biệt với mạng lưới đích hoặc theo hướng của nó hoặc bởi phần bù không gian tương đối của các vạch. Trong cả hai trường hợp, hiệu ứng cảm nhận của độ tương phản đã được tăng cường đều hoàn toàn giống nhau, nhưng các bản ghi của các tế bào thần kinh trong vỏ thị giác phản ứng với mục tiêu cho thấy trong trường hợp đầu tiên, các tế bào thần kinh trở nên tích cực hơn. Trong khi đó, ở trường hợp thứ hai, chúng vẫn giữ nguyên hoạt động nhưng lại trở nên đồng bộ hơn. Tuy vậy, cần phải có một giới hạn trên. Một khi tất cả những tế bào thần kinh trong cấu trúc tương ứng phóng điện ở tần số cao nhất của chúng và đồng bộ hoàn hảo, thì sẽ không thể tăng cường chất lượng nổi bật của chúng hơn nữa. Vì vậy tôi sẽ nói rằng, có một giới hạn đối với cường độ của cảm xúc.
Matthieu: Tôi phải bổ sung là khi tôi nói rằng một người luôn có thể nhận thức sâu sắc và trọn vẹn hơn về lòng từ bi, thì tôi không chỉ đề cập đến khía cạnh cảm xúc của lòng trắc ẩn. Hiểu được những nguyên nhân sâu xa nỗi đau của người khác và tạo ra quyết tâm để giảm bớt chúng cũng xuất phát từ trí tuệ và nhận thức được lòng từ bi. Cái sau được liên quan nhiều hơn đến sự bao quát về nguyên nhân cơ bản của khổ đau, mà theo Phật giáo, là vô minh — thứ ảo tưởng làm biến dạng thực tế, làm nảy sinh nhiểu mê chấp tinh thần và cảm xúc phiền não như hận thù và ham muốn cưỡng bức. Vì vậy, khía cạnh nhận thức của lòng từ bi này có thể bao trùm vô số chúng sinh, những đối tượng phải cam chịu hậu quả của sự thiếu hiểu biết. Tôi không nghĩ rằng chúng ta phải lo lắng về mức độ của lòng trắc ẩn nhận thức như vậy, bởi điều đó sẽ làm cạn kiệt năng lực của bộ não.
THIỀN ĐỊNH VÀ HÀNH ĐỘNG
Matthieu: Để quay lại một trong những câu hỏi đầu tiên của bạn, tôi nên đáp lại lời buộc tội về sự ích kỷ và thờ ơ mà đôi khi bị cào bằng ở các ẩn sĩ và thiền giả. Những ý kiến như vậy phản ảnh một sự hiểu lầm sâu sắc về con đường của đạo Phật bởi giải thoát bản thân khỏi ảnh hưởng của việc chỉ quan tâm đến mình và chấp thủ bản ngã là chính xác, nó khiến bạn quan tâm nhiều hơn đến người khác và ít thờ ơ hơn với thế giới. Thiền định là một quá trình quan trọng để phát triển và tăng cường tình yêu vị tha cũng như lòng từ bi. Bạn có thể biện hộ rằng sẽ còn tốt hơn nữa nếu vị ẩn sĩ kia rời khỏi ẩn thất của mình để ra ngoài và giúp đỡ mọi người. Nếu không thì ông ấy đang đóng góp gì cho xã hội? Làm cách nào ông ta học được sự tương tác của con người khi cứ ở lì một mình trong ẩn thất? Thoạt nhìn thì lập luận này khá hợp lý. Song có những câu trả lời đơn giản cho các câu hỏi này. Bạn cần thời gian và sự tập trung để trau dồi một kỹ năng. Khi bị đẩy vào những tình huống thường xuyên hỗn loạn của thế giới, có thể bạn sẽ quá yếu, không giúp đỡ được những người khác hay thậm chí là giúp cho chính bản thân mình. Bạn không có năng lượng, sự tập trung và thời gian để rèn luyện. Vì vậy, giai đoạn phát triển này là cần thiết, ngay cả khi nó dường như là không có tác dụng tức thì cho người khác.
Khi bạn xây dựng một bệnh viện trong vài tháng hoặc vài năm, hệ thống điện nước không thể chữa được bệnh cho bất kỳ ai. Nhưng khi bệnh viện đã sẵn sàng, chúng sẽ cung cấp một cơ sở vật chất mạnh mẽ hơn để điều trị cho người bệnh. Sẽ là xứng đáng để xây dựng một bệnh viện như vậy, hơn là chỉ nói rằng: “Tại sao lại phải chờ đợi? Hãy cứ phẫu thuật ở ngoài đường.” Do đó, ý tưởng là phát triển các kỹ năng trong một môi trường thuận lợi cho việc rèn luyện tinh thần, giúp con người trở nên đủ mạnh mẽ để thể hiện và duy trì lòng từ bi cũng như vị tha thuần khiết, ngay cả trong những hoàn cảnh bất lợi nhất. Giờ đây, trong nhiều năm, tôi đã được tiếp xúc với thế giới của các hoạt động nhân đạo, và hết lần này đến lần khác, tôi đã thấy những vấn đề chính ảnh hưởng đến nó — sự hư hỏng, xung đột của bản ngã, đồng cảm yếu đuối, chán nản, ngã lòng — xuất phát từ việc thiếu đi sự trưởng thành về phẩm chất con người. Vì vậy, những ưu điểm của việc dành thời gian riêng để phát triển những phẩm chất của con người là rõ ràng. Từ đó, bạn sẽ tích lũy được sức mạnh nội tại, lòng từ bi và cân bằng trước khi bắt tay vào việc giúp đỡ người khác.
Việc phát triển động lực đúng đắn là một yếu tố quan trọng đối với mọi thứ chúng ta làm. Vị thánh và nhà thơ nổi tiếng người Tây Tạng, Milarepa, nói rằng trong suốt 12 năm ông ẩn dật nơi hoang dã, không có một khoảnh khắc nào mà không được dành cho người khác. Qua đó, ông lý giải việc mình đã tận tâm phát triển những phẩm chất cần thiết để thực sự mang lại lợi ích cho người khác. Trên con đường đạo Phật, động lực cốt lõi của việc tu học Bồ Tát là: “Cầu cho tôi có thể đạt được sự giác ngộ để giải thoát tất cả chúng sinh khỏi khổ đau”. Nếu tâm trí bạn thực sự hiện diện một khát vọng như vậy, thì việc tu tập chính là sự đầu tư tốt nhất mà bạn có thể làm vì những lợi ích của người khác. Đây không phải là kết quả của sự thờ ơ mà là lý do hợp lý rằng bạn phải tự chuẩn bị và tự xây dựng sức mạnh cần thiết để có ích đối với nhân loại.
Wolf: Vậy nó trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống; chúng ta nên trải qua thời kỳ này trong một số giai đoạn phát triển của mình, nhưng sau đó nên tương tác với mọi người một lần nữa và không giấu mình trong ẩn thất hoặc trong môi trường được bảo vệ của các tu viện. Đối với những bậc thầy, có lẽ sẽ là thích hợp khi họ ở lại các tu viện bởi họ sẽ truyền đạt trí tuệ của mình cho những học trò. Còn những người khác chỉ nên tạm thời lưu lại đây và sau đó tương tác với thế giới vì sự tốt đẹp của nó.
Matthieu: Cũng là có lý khi thấy rằng miễn là bản thân bạn vẫn còn là một mớ hỗn độn thì sẽ không có chuyện gì xảy ra cũng như gây lộn xộn cho cuộc sống xung qua của người khác. Bạn cần phải khéo léo trong việc nhận ra mình đủ trưởng thành để giúp đỡ người khác một cách có ý nghĩa. Nếu không, nó cũng giống như việc gặt lúa mì khi lúa vẫn còn non. Không ai được lợi từ việc đó.
Wolf: Miễn là chúng ta tự nhận ra rằng mình chưa sẵn sàng và cần được hỗ trợ bởi những người khác, những người đang phải kiếm sống và không có cơ hội để tận hưởng khoảng thời gian trưởng thành được bảo vệ này. Có nhiều nền văn hóa mà trong đó, việc thực hành rẻn luyện tinh thần này hoàn toàn không tồn tại. Tuy nhiên, bằng cách nào đó, có những nhóm chủng tộc đã tạo ra nó: Họ phát triển những quy chuẩn, đạo đức, luân lý; họ sinh sôi nảy nở và sống hòa thuận với nhau. Vì vậy, đó không thể là cách duy nhất — mà có thể là, nhưng không nhất thiết phải là cách tốt nhất, chúng ta không biết — nhưng chắc chắn phải có những cách khác cũng mang lại những người tốt và xã hội ổn định.
Matthieu: Phải, tất nhiên. Nhưng bằng cách nào đó người ta phải đến một điểm mà họ sẽ nhìn vào bên trong và chân thành cố gắng để trở thành một người tốt hơn.
Wolf: Phải chăng sẽ là không thể khi được nuôi dưỡng và giáo dục theo cách thông thường mà vẫn phát triển khả năng phân biệt rõ ràng cảm xúc, để cảm thấy đồng cảm, để trở thành những cha mẹ tốt v.v. Từ những gì chúng ta đã thảo luận cho đến nay, dường như là không có nhiều cơ hội để phát triển tất cả những phẩm chất tốt đẹp này nếu một người không có may mắn trở thành học trò của một người thầy có trình độ cao. Không phải giáo dục cũng là một chiến lược hiệu quả và có lẽ mang tính bổ khuyết để cải thiện phẩm chất của con người hay sao? Thậm chí nó có thể có lợi thế là không đòi hỏi nhiều sự kiểm soát nhận thức như thiền định và do đó, có thể được áp dụng sớm trong cuộc đời, khi bộ não vẫn còn đang phát triển, deo dai và có thể định hình. Dường như có một sự đánh đổi giữa thời gian chúng ta đầu tư cho việc cải thiện chính mình và thời gian còn lại để làm cho các điều kiện trên thế giới trở nên tốt hơn bằng cách tương tác với nó. Chiến lược mà tôi ưa thích hơn là hướng dẫn cho thanh thiếu niên việc thực hành rèn luyện tinh thần để từ đó, họ có thể áp dụng nó trong cuộc sống, để họ có thể hiểu hơn về chính mình và trở nên cân bằng. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng cách hiệu quả nhất để sửa đổi các chức năng não bộ khiến chúng trở nên tốt hơn là dùng những người chăm sóc tốt để giáo dục giới trẻ. Trẻ em học hỏi bằng cách so sánh với những người chăm sóc mà chúng đã thiết lập mối liên kết tình cảm chặt chẽ. Vì vậy, chúng ta có thể khởi động quá trình này bằng cách nhìn nhận việc đào tạo tinh thần như một môn học bắt buộc trong chương trình giảng dạy.
Matthieu: Những người có năng khiểu bẩm sinh có thể có khả năng phát triển tất cả các phẩm chất này ngay giữa nhiều hoạt động gây mất tập trung khác. Tuy nhiên, với hầu hết mọi người, nó thực sự giúp cho việc tập hợp toàn bộ sức mạnh của họ theo thời gian để nuôi dưỡng những phẩm chất của con người với chỉ một mục đích cống hiến duy nhất. Hoàn toàn có khả năng một người bình thường có trái tim nhân hậu sẽ ngay lập tức đạt thành quả trong việc giúp đỡ người khác, nhiều hơn là một thiền giả nhưng lại bắt đầu với một tâm trí gắt gỏng, ích kỷ. Vấn đề là họ nên tiếp tục cải thiện bản thân hơn nữa và trau dồi sẽ giúp ích cho họ rất nhiều.
Chúng ta không nên đánh giá thấp sức mạnh của sự biến đổi tâm trí. Tất cả chúng ta đều có tiềm năng thay đổi, và sẽ thật là đáng tiếc nếu chúng ta bỏ mặc việc hiện thực hóa nó, giống như việc ta trở về nhà với hai bàn tay trắng từ một hòn đảo đầy vàng. Cuộc sống con người có giá trị to lớn nếu chúng ta biết cách sử dụng khoảng thời gian tương đối ngắn của mình để trở thành một người tốt hơn cho hạnh phúc của chính ta và cho cả người khác. Điều này đòi hỏi nhiều nỗ lực, nhưng điều gì thì không? Vì vậy, hãy kết thúc bằng một lưu ý về niềm hy vọng và sự khích lệ: “Hãy biến đổi bản thân để biến đổi thế giới tốt hơn”.
Trước đó, bạn cũng đã ám chỉ những khoảng thời gian giữa các buổi thiền. Đây là một chủ đề trung tâm trong quá trình áp dụng các lý thuyết về thiền mà bạn đã học từ thực tế. Chúng tôi gọi đó là giai đoạn “hậu thiền định”. Và hai giai đoạn này, thiền định và hậu thiền định, nên củng cố lẫn nhau. Trên thực tế, ý tưởng này gần đây đã được chứng minh trong một thí nghiệm thực tế của Paul Condon và Gaëlle Desbordes, người đã theo dõi ba nhóm trong suốt tám tuần. Một nhóm được đào tạo thiền về lòng nhân ái, nhóm thứ hai được hướng theo thiền chánh niệm, và nhóm thứ ba — tức nhóm kiểm soát — thì được tự do mà không huấn luyện gì cả. Sau tám tuần, hành vi vị tha của những người tham gia đã được kiểm chứng thông qua việc quan sát xác suất mà họ sẽ nhường chỗ của mình trong phòng chờ cho một người khác đang chống nạng và phải dựa vào tường, một dấu hiệu cho thấy rõ sự không thoải mái. Trước khi người chịu đau khổ bước vào, người tham gia sẽ ngồi trên một chiếc ghế dài bên cạnh hai người khác (cùng với người “bệnh”, đây là những người đóng vai trò hỗ trợ người tham gia thí nghiệm) — những người không hề tỏ ra quan tâm đến người bệnh đang đứng (làm nổi bật “hiệu ứng bàng quan” được biết đến như tác nhân gây cản trở cho hành vi giúp đỡ). Đáng chú ý là, trung bình các thiền giả sẽ thường xuyên đề nghị nhường chỗ của mình nhiều hơn năm lần so với những người bình thường.
Vì vậy, những hoạt động và thái độ hậu thiền định nên phản ảnh và thể hiện những phẩm chất được phát triển trong thiền định. Sẽ không có lý do gì để đạt được một số trạng thái thiền định tốt đẹp như nội tâm rõ ràng và ổn định nếu bạn từ bỏ nó hoàn toàn ngay khi chấm dứt thiền định. Lý tưởng nhất là vào một thời điểm nào đó, hai trạng thái kỹ năng và kinh nghiệm của thiền giả nên bắt đầu được hợp nhất với nhau.
Wolf: Điều tương tự có thể áp dụng cho cuộc thảo luận của chúng ta. Có lẽ chúng ta nên nghỉ ngơi để bộ não của chúng ta sắp xếp lại những gì đã học và tiếp tục vào ngày mai.