1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1.1.1. Hợp tác xã kiểu mới
Hợp tác xã kiểu mới được đề cập trong cuốn sách này là Hợp tác xã được thành lập hoặc tổ chức lại theo Luật Hợp tác xã năm
2012; Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã; Nghị định số
107/2017/NĐ-CP ngày 15/9/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã; các Thông tư, văn bản hướng dẫn của các bộ, ban, ngành..., cụ thể:
- Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã(1).
- Cơ cấu tổ chức hợp tác xã, gồm: Đại hội thành viên, Hội đồng quản trị, Giám đốc (Tổng Giám đốc) và Ban Kiểm soát hoặc kiểm soát viên. Chủ tịch Hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã, Giám đốc/Tổng Giám đốc là người điều hành các hoạt động của hợp tác xã(2).
(1) Khoản 1, Điều 3 Luật Hợp tác xã năm 2012.
(2) Theo Điều 29 Luật Hợp tác xã năm 2012.
- Hợp tác xã hoạt động theo các nguyên tắc cơ bản sau đây(1):
(1) Theo Điều 7 Luật Hợp tác xã năm 2012.
+ Cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân tự nguyện thành lập, gia nhập, ra khỏi hợp tác xã.
+ Hợp tác xã kết nạp rộng rãi thành viên.
+ Thành viên có quyền bình đẳng, biểu quyết ngang nhau, không phụ thuộc vốn góp trong việc quyết định tổ chức, quản lý và hoạt động của hợp tác xã; được cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác về hoạt động sản xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối thu nhập và những nội dung khác theo quy định của điều lệ.
+ Tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước pháp luật.
+ Thành viên có trách nhiệm thực hiện cam kết theo hợp đồng dịch vụ và theo quy định của điều lệ. Thu nhập của hợp tác xã được phân phối chủ yếu theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên hoặc theo công sức lao động đóng góp của thành viên đối với hợp tác xã tạo việc làm.
+ Hợp tác xã quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cho thành viên, cán bộ quản lý, người lao động trong hợp tác xã và thông tin về bản chất, lợi ích của hợp tác xã.
+ Hợp tác xã chăm lo phát triển bền vững cộng đồng thành viên và hợp tác với nhau nhằm phát triển phong trào hợp tác xã trên quy mô địa phương, vùng, quốc gia và quốc tế.
- Có ít nhất 01 pháp nhân là thành viên của hợp tác xã hoặc liên kết, hợp tác với ít nhất 01 doanh nghiệp có hoạt động tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ cho thành viên của hợp tác xã.
- Tổ chức được ít nhất 04 hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, gồm:
+ Mua chung sản phẩm, dịch vụ từ thị trường để phục vụ cho thành viên;
+ Bán chung sản phẩm, dịch vụ của thành viên ra thị trường;
+ Cung ứng phương tiện, kết cấu hạ tầng kỹ thuật phục vụ thành viên;
+ Tín dụng cho thành viên.
- Đội ngũ cán bộ nghiệp vụ, điều hành hợp tác xã (Giám đốc, kiểm soát, kế toán) có trình độ chuyên môn thấp nhất là trung học chuyên nghiệp trở lên hoặc tương đương.
- Hợp tác xã có tham gia triển khai chuỗi giá trị sản phẩm, hàng hóa.
- Hợp tác xã hoạt động hiệu quả, đúng pháp luật và mang lại lợi ích cho thành viên(1).
(1) Theo TS. Nguyễn Mạnh Cường (Chủ nhiệm, 2018), Đề tài khoa học: “Xây dựng mô hình hợp tác xã kiểu mới gắn với xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu nông nghiệp”.
1.1.2. Nông thôn
Khái niệm “nông thôn” được quy định tại Thông tư số 54/2009/ TT-BNNPTNT ngày 21/8/2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân xã.
1.1.3. Nông thôn mới
Nông thôn mới là nông thôn mà ở đó người dân có đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần được nâng cao, giảm dần sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị. Nông dân được đào tạo, tiếp thu các tiến bộ kỹ thuật tiên tiến, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới. Nông thôn mới có kinh tế phát triển toàn diện, bền vững, cơ sở hạ tầng được xây dựng đồng bộ, hiện đại, phát triển theo quy hoạch, gắn kết hợp lý giữa nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ và đô thị. Nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, môi trường sinh thái được bảo vệ sẽ tạo điều kiện cho sức mạnh của hệ thống chính trị được nâng cao, đảm bảo giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội.
Giai đoạn 2010 - 2020, nông thôn mới phải đạt được các đặc trưng sau đây:
- Phát triển kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn được nâng cao.
- Nông thôn phát triển theo quy hoạch, cơ cấu hạ tầng, kinh tế, xã hội hiện đại, môi trường sinh thái được bảo vệ.
- Dân trí được nâng cao, bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy.
- An ninh tốt, quản lý dân chủ.
- Chất lượng hệ thống chính trị được nâng cao(1).
1.1.4. Xây dựng nông thôn mới
Xây dựng nông thôn mới là cuộc cách mạng và cuộc vận động lớn để cộng đồng dân cư ở nông thôn đồng lòng xây dựng thôn, xã, gia đình của mình khang trang, sạch đẹp; phát triển sản xuất toàn diện (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ); có nếp sống văn hóa, môi trường và an ninh nông thôn được đảm bảo; thu nhập, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao.
Xây dựng nông thôn mới là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân và của cả hệ thống chính trị. Nông thôn mới không chỉ là vấn đề kinh tế - xã hội, mà còn là vấn đề kinh tế - chính trị tổng hợp.
(1) Tăng Minh Lộc (Chủ biên, 2010), Sổ tay hướng dẫn xây dựng nông thôn mới (cấp xã), NXB Lao Động.
Xây dựng nông thôn mới giúp cho nông dân có niềm tin, trở nên tích cực, chăm chỉ, đoàn kết giúp đỡ nhau xây dựng nông thôn phát triển giàu đẹp, dân chủ, văn minh.
1.1.5. Xã đạt chuẩn nông thôn mới
Xã đạt chuẩn nông thôn mới là xã mà ở đó người dân có đời sống vật chất và tinh thần được nâng cao; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phù hợp; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn phát triển nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị; xã hội nông thôn dân chủ, bình đẳng, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; quốc phòng và an ninh, trật tự được giữ vững.
Theo Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020, xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới phải đạt được 19 tiêu chí bao gồm: quy hoạch, giao thông, thủy lợi, điện, trường học, cơ sở vật chất văn hóa, cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn, thông tin và truyền thông, nhà ở dân cư, thu nhập, hộ nghèo, lao động có việc làm, tổ chức sản xuất, giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa, môi trường và an toàn thực phẩm, hệ thống chính trị và tiếp cận pháp luật, quốc phòng và an ninh.
1.1.6. Tái cơ cấu nông nghiệp
Tái cơ cấu nông nghiệp là quá trình phát triển nông nghiệp gắn với bố trí, sắp xếp lại các chuyên ngành sản xuất theo nguyên tắc sử dụng tối đa lợi thế so sánh và sử dụng tối ưu các nguồn lực đầu vào để tạo ra hiệu quả kinh tế, năng lực cạnh tranh cao hơn, bền vững hơn cho toàn ngành, là quá trình phát triển gắn với thay đổi quy mô sản xuất của các ngành nhằm tạo ra các nông sản có chất lượng và giá trị cao, phù hợp với nhu cầu thị trường, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước, nâng cao thu nhập cho nông dân và đảm bảo tính bền vững.
Theo Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững với các mục tiêu sau đây:
- Duy trì tăng trưởng, nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh thông qua tăng năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng; đáp ứng tốt hơn nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành bình quân từ 2,6% - 3,0%/năm trong giai đoạn 2011 - 2015, từ 3,5 - 4,0%/năm trong giai đoạn 2016 - 2020;
- Nâng cao thu nhập và cải thiện mức sống cho cư dân nông thôn, đảm bảo an ninh lương thực (bao gồm cả an ninh dinh dưỡng) cả trước mắt và lâu dài, góp phần giảm tỷ lệ đói nghèo. Đến năm 2020, thu nhập hộ gia đình nông thôn tăng lên 2,5 lần so với năm 2008; số xã đạt tiêu chí nông thôn mới là 20% vào năm 2015 và 50% vào năm 2020;
- Tăng cường quản lý tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính và các tác động tiêu cực khác đối với môi trường, khai thác tốt các lợi ích về môi trường, nâng cao năng lực quản lý rủi ro, chủ động phòng chống thiên tai, nâng tỷ lệ che phủ rừng toàn quốc lên 42 - 43% năm 2015 và 45% vào năm 2020, góp phần thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh của quốc gia.
1.1.7. Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới gắn với xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu nông nghiệp
Khái niệm: “Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới gắn với xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu nông nghiệp” được đề cập trong cuốn sách này là “Hợp tác xã kiểu mới” hoạt động trên lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy sản, diêm nghiệp và một số nghề khác theo Thông tư số 09/2017/TT-BNNPTNT ngày 17/4/2017 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn phân loại và đánh giá hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp(1).
(1) TS. Nguyễn Mạnh Cường (Chủ nhiệm, 2018), Đề tài khoa học: “Xây dựng hợp tác xã kiểu mới gắn với xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu nông nghiệp”.
1.2. QUAN ĐIỂM, ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG VÀ CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ GẮN VỚI XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI VÀ TÁI CƠ CẤU NÔNG NGHIỆP
1.2.1. Quan điểm, đường lối của Đảng về phát triển hợp tác xã gắn với xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu nông nghiệp
- Nghị quyết số 13/NQ-TW ngày 18/3/2002 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể;
- Nghị quyết số 26/NQ-TW ngày 05/8/2008 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn;
- Nghị quyết số 32/2016/QH14 ngày 23/11/2016 của Quốc hội về tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới gắn với cơ cấu lại ngành nông nghiệp;
- Kết luận số 56-KL/TW ngày 21/02/2013 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể;
- Kết luận số 54-KL/TW ngày 07/8/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
1.2.2. Chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển hợp tác xã gắn với xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu nông nghiệp
- Luật Hợp tác xã năm 2012;
- Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã;
- Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn;
- Nghị định số 139/2016/NĐ-CP ngày 04/10/2016 của Chính phủ quy định về lệ phí môn bài;
- Nghị định số 140/2016/NĐ-CP ngày 10/10/2016 của Chính phủ về phí trước bạ(1);
- Nghị định số 107/2017/NĐ-CP ngày 15/9/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã;
- Nghị định số 52/2018/NĐ-CP ngày 12/4/2018 của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn;
- Nghị định số 57/2018/NĐ-CP ngày 17/4/2018 của Chính phủ về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn;
- Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 05/7/2018 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp;
- Nghị định số 109/2018/NĐ-CP ngày 29/8/2018 của Chính phủ về nông nghiệp hữu cơ;
- Nghị định số 116/2018/NĐ-CP ngày 07/9/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn;
- Nghị định số 123/2018/NĐ-CP ngày 17/9/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định về điều kiện đầu tư, kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp;
(1) Công văn số 114/CP-KTTH của Chính phủ về việc đính chính sai sót tại Nghị định số 140/2016/NĐ-CP.
- Nghị định số 20/2019/NĐ-CP ngày 21/02/2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 140/2016/NĐ-CP ngày 10/10/2016 của Chính phủ về lệ phí trước bạ;
- Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững;
- Quyết định số 2261/QĐ-TTg ngày 15/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã giai đoạn 2015 - 2020;
- Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020;
- Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020;
- Quyết định số 50/2018/QĐ-TTg ngày 13/12/2018 của Thủ tướng Chính phủ quy định đối tượng thủy sản nuôi chủ lực;
- Quyết định số 22/2019/QĐ-TTg ngày 26/6/2019 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện chính sách hỗ trợ bảo hiểm nông nghiệp;
- Thông tư số 03/2014/TT-BKHĐT ngày 26/5/2014 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn đăng ký hợp tác xã và báo cáo tình hình hoạt động của hợp tác xã;
- Thông tư số 83/2015/TT-BTC ngày 28/5/2015 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ quản lý tài chính đối với hợp tác xã;
- Thông tư số 15/2016/TT-BNNPTNT ngày 10/6/2016 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn điều kiện và tiêu chí thụ hưởng hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đối với hợp tác xã nông nghiệp;
- Thông tư số 340/2016/TT-BTC ngày 29/12/2016 của Bộ Tài chính hướng dẫn về mức hỗ trợ và cơ chế tài chính hỗ trợ bồi dưỡng nguồn nhân lực của hợp tác xã, thành lập mới hợp tác xã, tổ chức lại hoạt động của hợp tác xã theo Chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã giai đoạn 2015 - 2020;
- Thông tư số 05/2017/TT-BNNPTNT ngày 01/3/2017 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn một số nội dung thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020;
- Thông tư số 09/2017/TT-BNNPTNT ngày 17/4/2017 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn phân loại và đánh giá hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp;
- Thông tư số 02/2019/TT-BNNPTNT ngày 11/02/2019 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Danh mục sản phẩm thức ăn chăn nuôi theo tập quán và nguyên liệu đơn được phép lưu hành tại Việt Nam;
- Thông tư số 07/2019/TT-BKHĐT ngày 08/4/2019 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 03/TT-BKHĐT ngày 26/5/2014 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn về đăng ký hợp tác xã và chế độ báo cáo tình hình hoạt động của hợp tác xã.
1.3. TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ, ƯU ĐÃI ĐỐI VỚI HỢP TÁC XÃ
1.3.1. Các chính sách hỗ trợ, ưu đãi đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã
Điều 6. Chính sách hỗ trợ, ưu đãi của nhà nước(1):
(1) Luật Hợp tác xã năm 2012.
1. Nhà nước có chính sách hỗ trợ sau đây đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã:
- Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực;
- Xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường;
- Ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới;
- Tạo điều kiện tham gia các chương trình mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế - xã hội;
- Thành lập mới hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.
2. Nhà nước có chính sách ưu đãi sau đây đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã:
- Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp và các loại thuế khác theo quy định của pháp luật về thuế;
- Ưu đãi lệ phí đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo quy định của pháp luật về phí và lệ phí.
3. Đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp, ngoài việc được hưởng chính sách hỗ trợ, ưu đãi quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này còn được hưởng chính sách hỗ trợ, ưu đãi sau đây:
- Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng;
- Giao đất, cho thuê đất để phục vụ hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo quy định của pháp luật về đất đai;
- Ưu đãi về tín dụng;
- Vốn, giống khi gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh;
- Chế biến sản phẩm.
4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này theo căn cứ vào lĩnh vực, địa bàn, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ của đất nước và trình độ phát triển của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.
Điều 24. Chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã(1)
(1) Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã.
1. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực
Nhà nước hỗ trợ kinh phí đào tạo chính quy, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, kỹ thuật đối với cán bộ quản lý hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, thành viên hợp tác xã.
2. Chính sách xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường
Nhà nước hỗ trợ hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tham gia các triển lãm trong và ngoài nước; tổ chức các hội chợ, triển lãm dành riêng cho khu vực hợp tác xã; xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu, xuất xứ hàng hóa, xây dựng và triển khai cổng thông tin điện tử, sàn giao dịch thương mại điện tử cho các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.
3. Ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới
a) Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia và cấp tỉnh hằng năm dành một phần kinh phí hỗ trợ các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đổi mới, ứng dụng công nghệ và thông báo kết quả thực hiện cho cơ quan quản lý nhà nước về hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã;
b) Nhà nước hỗ trợ nghiên cứu khoa học công nghệ từ nguồn kinh phí sự nghiệp nghiên cứu khoa học công nghệ đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có dự án nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
4. Chính sách tiếp cận vốn và quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã
a) Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có dự án đầu tư mới, đầu tư mở rộng năng lực sản xuất, kinh doanh; hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, địa bàn nông thôn được ưu đãi về lãi suất và bảo lãnh tín dụng từ quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã; ưu tiên vay vốn tín dụng từ ngân hàng phát triển và các tổ chức tín dụng khác theo quy định của pháp luật; được vay ưu đãi theo quy định của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn;
b) Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã thực hiện nhiệm vụ bảo lãnh tín dụng và hỗ trợ lãi suất đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.
Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các bộ, ngành liên quan trình Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn quy định tại Điểm này.
5. Chính sách tạo điều kiện tham gia các chương trình mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế - xã hội
Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có đủ năng lực được ưu tiên tham gia các chương trình mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế - xã hội sau đây:
a) Các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng trên địa bàn và quản lý các công trình sau khi hoàn thành, kể cả các công trình chợ và công trình hạ tầng phục vụ phát triển cụm công nghiệp và cụm làng nghề ở nông thôn;
b) Các dự án, chương trình phát triển kinh tế - xã hội khác trên địa bàn phù hợp với khả năng của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.
6. Chính sách thành lập mới hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã
a) Sáng lập viên hợp tác xã được cung cấp miễn phí thông tin, tư vấn, tập huấn về quy định pháp luật hợp tác xã trước khi thành lập hợp tác xã;
b) Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được hỗ trợ tư vấn xây dựng điều lệ, hướng dẫn và thực hiện các thủ tục thành lập, đăng ký và tổ chức hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.
Điều 25. Chính sách hỗ trợ, ưu đãi đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp(1)
(1) Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã.
Ngoài việc được hưởng chính sách hỗ trợ, ưu đãi quy định tại Điều 24 Nghị định này, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp cung ứng sản phẩm, dịch vụ cho các thành viên là những cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có hoạt động sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp còn được hưởng các chính sách hỗ trợ, ưu đãi sau đây:
1. Hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng
a) Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng bao gồm: trụ sở, sân phơi, nhà kho, xưởng sơ chế, chế biến, điện, nước sinh hoạt, chợ, công trình thủy lợi, cơ sở hạ tầng vùng nuôi trồng thủy sản, cửa hàng vật tư nông nghiệp, giao thông nội đồng phục vụ sản xuất, kinh doanh cho cộng đồng thành viên hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trên cơ sở các dự án được các cấp có thẩm quyền phê duyệt;
b) Các công trình kết cấu hạ tầng được nhà nước hỗ trợ xây dựng theo quy định tại Điểm a Khoản này, sau khi hoàn thành là tài sản không chia của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã chịu trách nhiệm bảo quản, duy tu và bảo dưỡng các công trình trong quá trình sử dụng.
2. Chính sách giao đất, cho thuê đất để phục vụ hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã
Việc hỗ trợ đất đai đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai.
3. Chính sách ưu đãi về tín dụng
a) Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập mới hoặc có dự án đầu tư mới, đầu tư mở rộng năng lực sản xuất, kinh doanh được ưu tiên vay vốn từ các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật hiện hành;
b) Các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu thuộc diện ưu đãi đầu tư được hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư.
4. Chính sách hỗ trợ vốn, giống khi gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh
Tùy theo mức độ thiệt hại, tính chất nguy hiểm của dịch bệnh và nhu cầu thực tế, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp được hưởng chính sách hỗ trợ, ưu đãi về vốn, giống khi gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh theo quy định của pháp luật hiện hành về việc hỗ trợ giống, cây trồng, vật nuôi, thủy sản để khôi phục sản xuất đối với vùng bị thiệt hại do thiên tai dịch bệnh.
5. Chính sách hỗ trợ chế biến sản phẩm
a) Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có nhu cầu chế biến sản phẩm được hỗ trợ nghiên cứu xây dựng dự án đầu tư chế biến sản phẩm quy định tại Điểm b, Khoản 3, Điều 24 Nghị định này;
b) Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được ưu đãi về tín dụng trong việc triển khai dự án đầu tư chế biến sản phẩm theo quy định tại Khoản 3 Điều này.
Điều 26. Hỗ trợ tổ chức lại hoạt động hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã(1)
(1) Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã.
Trường hợp đăng ký thay đổi theo quy định của Luật Hợp tác xã thì hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được hưởng các chính sách hỗ trợ được quy định tại Khoản 6 Điều 24 Nghị định này.
Trường hợp đăng ký do tiến hành sáp nhập, hợp nhất, chia, tách hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thì Nhà nước hỗ trợ 50% kinh phí như đối với thành lập mới hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.
1.3.2. Tình hình triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ chung đối với các hợp tác xã trên cả nước
1.3.2.1. Về chính sách đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực
Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đã được các cấp, các ngành, địa phương quan tâm thường xuyên. Từ năm 2002 đến năm 2018 có 391.284 lượt cán bộ, thành viên hợp tác xã được hỗ trợ tập huấn, bồi dưỡng;
34.973 cán bộ hợp tác xã được hỗ trợ đào tạo từ sơ cấp đến đại học. Ngân sách Trung ương hỗ trợ đào tạo bồi dưỡng hợp tác xã, tổ hợp tác giai đoạn 2007 - 2018 khoảng 448 tỷ đồng, ngân sách địa phương khoảng 648 tỷ đồng(2). Số lượt người được tham gia đào tạo và bồi dưỡng tăng dần qua các năm (trung bình mỗi năm tăng khoảng 20%), đối tượng tập huấn được mở rộng cho cán bộ quản lý nhà nước, cán bộ chính quyền, đoàn thể các cấp, cán bộ quản lý và thành viên hợp tác xã.
(2) Ban Chỉ đạo Đổi mới, phát triển kinh tế thập thể, hợp tác xã (14/10/2019), Báo cáo Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002 Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể.
Nội dung đào tạo, bồi dưỡng khá đa dạng, đáp ứng được một phần yêu cầu tổ chức, quản lý và hoạt động sản xuất kinh doanh của hợp tác xã, được điều chỉnh phù hợp với điều kiện kinh tế của địa phương như: hướng dẫn nội dung các văn bản quy phạm pháp luật về hợp tác xã, các Luật liên quan (Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Thuế, Luật Đất đai, Luật Thương mại...), các vấn đề về tài chính, kế toán, tổ chức quản lý hợp tác xã... Các giảng viên được mời từ nhiều nguồn khác nhau tùy theo đối tượng và nội dung bồi dưỡng. Hình thức đào tạo bồi dưỡng ngày càng đa dạng, phong phú từ tổ chức tập huấn, bồi dưỡng dài ngày cấp chứng chỉ, đến các hội thảo, hội nghị, tọa đàm trao đổi kinh nghiệm, học tập kết hợp tham quan mô hình, điển hình thực tế… Phương pháp tập huấn linh hoạt, sáng tạo, lý luận đi đôi với thực tiễn, gắn thực hành, hướng dẫn trực quan, cầm tay chỉ việc để đem lại hiệu quả cao nhất.
Các khóa tập huấn, bồi dưỡng đã góp phần giúp cho cán bộ quản lý trong các hợp tác xã cải thiện về công tác tổ chức điều hành, giúp các hợp tác xã đi vào nền nếp, từng bước kinh doanh hiệu quả, góp phần cải thiện chất lượng hợp tác xã yếu kém, trung bình, nâng cao số lượng hợp tác xã khá giỏi với mô hình hợp tác xã đa dạng, ngành nghề kinh doanh phù hợp, đáp ứng nhu cầu thị trường. Bắt đầu từ năm 2017, các địa phương đã xây dựng kế hoạch triển khai thí điểm chính sách thu hút cán bộ trẻ về công tác tại hợp tác xã. Một số địa phương đã thực hiện chính sách tăng cường cán bộ chuyên môn cho hợp tác xã như: miễn học phí cho sinh viên đại học theo các ngành kinh tế, kỹ thuật với điều kiện ra trường về làm việc cho các hợp tác xã tối thiểu 5 năm; hỗ trợ học phí cho cán bộ, thành viên, con em thành viên của hợp tác xã được cử đi học đại học, cao đẳng có cam kết về phục vụ cho hợp tác xã tối thiểu 5 năm… Một số địa phương đã có chính sách hỗ trợ lương cho cán bộ trẻ có trình độ về làm việc cho hợp tác xã trong thời hạn 3-5 năm…
Chính sách cán bộ và đào tạo nguồn nhân lực đã có tác động tích cực trong việc nâng cao trình độ của cán bộ, thành viên hợp tác xã. Tỷ lệ cán bộ quản lý hợp tác xã có trình độ cao ngày càng tăng. Tính đến 31/12/2018, tỷ lệ cán bộ đạt trình độ sơ, trung cấp chiếm 47%; số cán bộ đạt trình độ cao đẳng, đại học chiếm 18%.
Mặc dù chính sách đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho khu vực kinh tế hợp tác, hợp tác xã đã có nhiều chuyển biến nhưng số lượng cán bộ, thành viên hợp tác xã được đào tạo, bồi dưỡng chỉ chiếm rất ít (khoảng 6%) so với tổng số hơn 6 triệu cán bộ, thành viên hợp tác xã cả nước, trong khi nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng là rất lớn; chưa mở rộng bồi dưỡng cho các cán bộ quản lý nhà nước về hợp tác, hợp tác xã. Kinh phí bố trí cho các hoạt động đào tạo, tập huấn hạn hẹp, các định mức cho công tác đào tạo, bồi dưỡng theo quy định của Bộ Tài chính quá thấp, chưa phù hợp với tình hình thực tế hiện nay; chưa có hệ thống đào tạo về kinh tế hợp tác, hợp tác xã một cách bài bản, thống nhất, chưa thực hiện được việc đưa nội dung phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã vào giảng dạy trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Nội dung đào tạo, tập huấn còn nặng về lý thuyết, nội dung về kinh nghiệm thực tiễn của các hợp tác xã chưa nhiều. Đội ngũ giảng viên chưa chuyên nghiệp vì phần lớn là cán bộ kiêm nhiệm; mạng lưới cơ sở đào tạo, bồi dưỡng vừa thiếu, vừa yếu.
1.3.2.2. Về chính sách đất đai
Sau khi Luật Đất đai năm 2013 được Quốc hội thông qua, các Nghị định của Chính phủ, Thông tư hướng dẫn của các Bộ, ngành được ban hành, các địa phương đã quan tâm triển khai thực hiện và ban hành các văn bản, chính sách nhằm đẩy mạnh công tác đo đạc, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cá nhân, tổ chức, trong đó có các hợp tác xã nông nghiệp. Các tỉnh, thành phố đã thực hiện công tác quản lý đất đai và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân được giao đất, cho thuê đất, sử dụng đất hiệu quả hơn trong sản xuất kinh doanh, đồng thời chỉ đạo các quận, huyện, thị xã chú ý công tác quy hoạch, tạo quỹ đất để các hợp tác xã nông nghiệp được giao đất, cho thuê đất xây dựng trụ sở, xưởng chế biến, nhà kho, sân phơi, đất sản xuất, đất trồng rừng.
Giai đoạn 2013 - 2018 triển khai Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp; Quyết định số 686/QĐ-TTg ngày 11/5/2014 của Thủ tướng Chính phủ về chương trình, kế hoạch của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 12/3/2014 về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp; Nghị định số 46/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước; Thông tư số
207/2014/TT-BTC ngày 26/12/2014 của Bộ Tài chính quy định về xác định tiền thuê đất đối với công ty nông, lâm nghiệp sử dụng đất vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản đã quy định mức tính thuế sử dụng đất cho sản xuất nông nghiệp ở mức thấp nhất. Bên cạnh đó, các hợp tác xã nông nghiệp còn được miễn tiền thuê đất đối với đất làm mặt bằng xây dựng trụ sở hợp tác xã, sân phơi, nhà kho, xây dựng các cơ sở dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp… Trong giai đoạn này, cả nước có 2.044 hợp tác xã được giao đất, cho thuê đất với tổng diện tích đất là 12.676 ha. Số hợp tác xã được ưu đãi tín dụng khi thuê đất là 182 hợp tác xã với tổng kinh phí là 54.168 triệu đồng(1).
(1) 63 tỉnh, thành phố, Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2012.
Bên cạnh những chính sách chung về đất đai, một số địa phương cũng đã chỉ đạo các cơ quan chức năng tổ chức hội nghị, lớp tập huấn tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về đất đai, trình tự, thủ tục xin thuê đất, giao đất và cấp giấy chứng nhận sử dụng đất; phối hợp tư vấn, hướng dẫn và giải quyết vấn đề liên quan đến đất đai của các hợp tác xã.
Sự quan tâm, chỉ đạo và vào cuộc của các cấp đã tạo điều kiện cho các hộ, cũng như nông dân nói chung, hợp tác xã nói riêng có trụ sở ổn định để sản xuất kinh doanh, tập trung ruộng đất để sản xuất nông nghiệp với quy mô lớn, thực hiện liên doanh, liên kết, sản xuất theo hướng chuyên canh, ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ cao trong sản xuất, đem lại năng suất, chất lượng, hiệu quả cao trong sản xuất. Bước đầu, đã có một số mô hình hợp tác xã liên kết sản xuất nông nghiệp như: hợp tác xã nông nghiệp liên kết sản xuất lúa hàng hóa, cây dược liệu; liên kết sản xuất trong chăn nuôi gia cầm, các trang trại được thành lập ngày càng nhiều tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho người nông dân.
Mặc dù đã có những quy định ưu đãi về đất đai với các hợp tác xã nhưng việc triển khai thực hiện còn nhiều khó khăn:
- Số hợp tác xã được thụ hưởng chính sách này không nhiều do quỹ đất công hiện nay hạn chế (chỉ chiếm khoảng 14% tổng số hợp tác xã nông nghiệp). Một số địa phương có quỹ đất công nhưng chưa tạo điều kiện hỗ trợ hợp tác xã.
- Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn khó khăn do một số nguyên nhân sau đây:
+ Quy định về quyền thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất theo quy định Luật Đất đai năm 2013 vẫn còn thiếu linh hoạt trong việc hỗ trợ tài chính cho hợp tác xã khi thế chấp tại tổ chức tín dụng.
+ Nhiều hợp tác xã hiện đang quản lý, sử dụng đất không có giấy tờ pháp lý về đất đai.
+ Đất của một số hợp tác xã qua nhiều năm sử dụng đã có biến động, ranh giới, mốc giới không rõ ràng, giấy tờ về nguồn gốc sử dụng đất không có dẫn đến tranh chấp quyền sử dụng đất ảnh hưởng đến tiến độ kê khai, đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
+ Một số hợp tác xã không quan tâm đến thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Không ít hợp tác xã chỉ tồn tại trên danh nghĩa, không có hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc không đăng ký kinh doanh hoặc có quy mô quá nhỏ, đang quản lý đất đai, nhưng khó xử lý, thu hồi.
1.3.2.3. Về chính sách tiếp cận vốn và quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã
Luật Hợp tác xã năm 2012 đã gộp hai nội dung chính sách hỗ trợ tín dụng và quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã thành chính sách tiếp cận vốn và quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã cho phù hợp với tính chất của chính sách, cũng như các quy định hiện hành. Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã được quy định thêm 2 nhiệm vụ là bảo lãnh tín dụng và hỗ trợ lãi suất đối với hợp tác xã.
a) Chính sách tiếp cận vốn
Hiện nay, khu vực kinh tế hợp tác, hợp tác xã bình đẳng với các thành phần kinh tế khác trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng, được tổ chức tín dụng xem xét cho vay có đảm bảo hoặc không có đảm bảo theo quy định của pháp luật. Khung pháp lý về tiền tệ, ngân hàng, các cơ chế, chính sách tín dụng không ngừng hoàn thiện, tạo thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức tiếp cận vốn vay.
Thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002 theo chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xác định khu vực hợp tác xã là một trong những đối tượng cần ưu tiên đầu tư tín dụng và đã triển khai, ban hành nhiều cơ chế, chính sách để tạo điều kiện tháo gỡ khó khăn cho kinh tế hợp tác, hợp tác xã trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng, cụ thể tập trung:
- Giảm mặt bằng lãi suất, ổn định tỷ giá, tăng thanh khoản hỗ trợ các tổ chức tín dụng, khơi thông dòng vốn tín dụng và triển khai đồng bộ các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho các hợp tác xã;
- Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế tín dụng theo hướng tạo điều kiện cho hợp tác xã mở rộng sản xuất kinh doanh và tiếp cận các nguồn vốn tín dụng;
- Xây dựng cơ chế đặc thù đối với một số ngành sử dụng nhiều lao động hiệu quả, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp;
- Quy trình, thủ tục cho vay tại các tổ chức tín dụng ngày càng đơn giản hóa theo hướng tạo điều kiện cho khu vực kinh tế hợp tác, hợp tác xã mở rộng sản xuất kinh doanh và tiếp cận nguồn vốn tín dụng tại các tổ chức tín dụng.
Nguồn vốn tín dụng ngân hàng đã và đang góp phần thúc đẩy sự phát triển của hợp tác xã, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các thành viên của hợp tác xã. Dư nợ tín dụng đối với khu vực kinh tế hợp tác, hợp tác xã trong giai đoạn 2003 - 2018 có xu hướng tăng, đặc biệt là sau quá trình chuyển đổi, tổ chức lại hoạt động theo Luật Hợp tác xã năm 2012. Các hợp tác xã được tiếp cận các nguồn vốn tín dụng để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh bằng nhiều hình thức: Nhiều hợp tác xã đã tự xây dựng phương án kinh doanh tốt, có dự án sản xuất khả thi nên đã được các tổ chức tín dụng cho vay bằng hình thức thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay hoặc có thể được Nhà nước hỗ trợ lãi suất cho vay hoặc hỗ trợ lãi suất sau đầu tư hoặc tỉnh thực hiện chính sách miễn, giảm thuế thu nhập trong một thời gian nhất định cho các hợp tác xã di dời, đầu tư vào các khu công nghiệp… Các hợp tác xã có đủ điều kiện vay vốn, phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả đều được Ngân hàng giải quyết cho vay. Các trường hợp ngân hàng từ chối cho vay, nguyên nhân chủ yếu là do khách hàng vi phạm nguyên tắc cho vay, không đủ các điều kiện cho vay của ngân hàng, dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh chưa có tính khả thi và hiệu quả…
Giai đoạn 2003 - 2018, doanh số cho vay đối với khu vực kinh tế hợp tác, hợp tác xã đạt 69.147 tỷ đồng, bình quân mỗi năm doanh số cho vay đạt 4.610 tỷ đồng. Nếu như năm 2003, dư nợ cho vay đối với khu vực kinh tế hợp tác, hợp tác xã mới đạt 910 tỷ đồng với 787 khách hàng (dư nợ 908 tỷ đồng với 782 hợp tác xã, 1,2 tỷ đồng với 3 liên hiệp hợp tác xã, 700 triệu đồng với 2 tổ hợp tác) thì đến năm 2018, dư nợ tín dụng đối với khách hàng này của các tổ chức tín dụng đã tăng lên 6.269 tỷ đồng (gấp 6,88 lần) với 1.808 khách hàng (1.479 hợp tác xã với dư nợ 4.609 tỷ đồng, 18 liên hiệp hợp tác xã với 825 tỷ đồng và 311 tổ hợp tác với 768 tỷ đồng)(1).
(1) Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại thời điểm 31/12/2018.
Tuy nhiên, nhiều hợp tác xã chưa được hoặc rất khó vay vốn từ các tổ chức tín dụng. Nhiều hợp tác xã chưa đủ điều kiện tiếp cận, tiếp nhận nguồn vốn tín dụng do bản thân các hợp tác xã còn hạn chế trong quản trị, điều hành, năng lực tổ chức quản lý hoạt động, quản lý vốn; thiếu công khai minh bạch, chưa thực hiện đúng quy định về quản lý tài chính kế toán, không tuân thủ các nguyên tắc của Luật Hợp tác xã. Việc chuyển đổi, tổ chức lại còn hình thức, điều lệ và các quy định của pháp luật có liên quan thực chất chưa chuyển đổi nên thiếu cơ sở pháp lý để vay vốn. Hiệu quả hoạt động của hợp tác xã còn thấp, số lượng dịch vụ ít, chưa đáp ứng kịp sự thay đổi của thị trường… dẫn tới chưa xây dựng được phương án sản xuất kinh doanh khả thi để tiếp cận vốn ngân hàng. Một số hợp tác xã sử dụng không hiệu quả nguồn vốn vay, sử dụng vốn vay sai mục đích, nợ quá hạn kéo dài, có tâm lý ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Một số Ngân hàng thương mại chưa nhiệt tình trong việc tạo điều kiện cho các hợp tác xã vay vốn…
b) Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã
Hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã được tổ chức từ Trung ương đến địa phương.
Ở Trung ương, Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã được giao cho Liên minh Hợp tác xã Việt Nam quản lý tại Quyết định số 246/2006/ QĐ-TTg ngày 27/10/2006 về việc thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã. Vốn điều lệ do ngân sách nhà nước cấp ban đầu là 100 tỷ đồng để hỗ trợ cho hoạt động của các hợp tác xã. Tính đến cuối năm 2018, tổng nguồn vốn của Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã Trung ương là 136,4 tỷ đồng, trong đó vốn điều lệ ngân sách nhà nước cấp ban đầu là 100 tỷ đồng, vốn bổ sung trong quá trình hoạt động là 36,4 tỷ đồng. Tổng doanh số cho vay của Quỹ Hỗ trợ hợp tác xã Trung ương từ khi thành lập (năm 2006) đến cuối năm 2018 là 258,7 tỷ đồng cho 110 dự án, trong đó dư nợ vay là 99,3 tỷ đồng, nợ xấu 5,025 tỷ đồng, chiếm 5,06% tổng dư nợ. Các dự án vay vốn của Quỹ tập trung chủ yếu vào lĩnh vực nông nghiệp, địa bàn nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa (chiếm 70% tổng số dự án) tại 35 tỉnh, thành phố. Năm 2017, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 23/2017/QĐ-TTg ngày 22/6/2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 246/2006/QĐ-TTg ngày 27/10/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã và ban hành quy chế hoạt động của bảo lãnh tín dụng, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư của Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã. Theo đó, vốn điều lệ của Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã Trung ương do ngân sách nhà nước cấp từ nguồn chi đầu tư phát triển, năm 2018 tăng lên 500 tỷ đồng và đến năm 2020 đạt 1.000 tỷ đồng. Tại quyết định này, Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã Trung ương được bổ sung thêm hai nhiệm vụ là bảo lãnh tín dụng và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư nhằm hỗ trợ các hợp tác xã tiếp cận nguồn vốn tín dụng tại các ngân hàng thương mại để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Năm 2019, Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã Trung ương đã được ngân sách cấp bổ sung vốn điều lệ là 300 tỷ đồng từ nguồn vốn đầu tư phát triển.
Ở địa phương, đa số các tỉnh, thành phố đã thành lập được Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã và bước đầu hoạt động có hiệu quả. Tính đến năm 2018, cả nước có 50/63 tỉnh đã thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã tại địa phương. Tính đến 31/12/2017, tổng nguồn vốn hoạt động của các Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã địa phương khoảng 1.544 tỷ đồng, trong đó vốn điều lệ do ngân sách nhà nước cấp hoặc cho vay là 769,7 tỷ đồng, nguồn vốn huy động từ thành viên vay vốn, tổ chức, cá nhân hoặc vốn tự bổ sung từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh là 774,3 tỷ đồng. Tổng doanh số cho vay của các Quỹ hợp tác xã địa phương từ khi thành lập đến năm 2019 là 10.437 tỷ đồng (bao gồm cả ngắn hạn, trung hạn và dài hạn) cho 5.730 lượt hợp tác xã và 607.837 lượt tổ hợp tác, thành viên, người lao động của hợp tác xã, dư nợ cho vay là 1.314 tỷ đồng(1).
(1) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2019), Báo cáo Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002 (giai đoạn 2003 - 2018).
Việc ra đời và đi vào hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã đã tạo thêm một kênh hỗ trợ về vốn đối với các hợp tác xã, tạo nhiều công ăn việc làm, góp phần phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương. Các hợp tác xã sau khi vay vốn của Quỹ đã tăng trưởng đáng kể về quy mô và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh, mang lại lợi nhuận cao hơn cho các hợp tác xã. Doanh thu, lợi nhuận bình quân sau thuế của hợp tác xã tăng bình quân 50% - 60%/năm; số thành viên của hợp tác xã tăng bình quân 4%; số lao động làm việc trong các hợp tác xã tăng bình quân
37%; thu nhập của người lao động tăng bình quân 35%; nộp ngân sách tăng bình quân 75%. Đặc biệt các hợp tác xã này đã tạo thêm nhiều việc làm cho lao động ở nông thôn, đóng góp vào việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội, góp phần thúc đẩy phát triển ngành nghề có thế mạnh ở các vùng…
Tuy nhiên, nguồn vốn ban đầu được ngân sách nhà nước cấp cho Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã ở Trung ương không nhiều, chỉ có 400 tỷ đồng, trong khi nhu cầu vay vốn hằng năm của các hợp tác xã lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng. Nhu cầu vay vốn lưu động, bảo lãnh tín dụng và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư của các hợp tác xã là rất cần thiết để phát triển sản xuất kinh doanh, trong khi Quỹ chỉ cho vay đầu tư, thủ tục vay vốn theo quy định còn phức tạp.
Đối với các Quỹ Hỗ trợ hợp tác xã ở địa phương, việc triển khai còn gặp khó khăn do chưa có hành lang pháp lý thống nhất cho việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ nên nhiều địa phương còn lúng túng trong việc thành lập và tổ chức hoạt động.
Năng lực tài chính của các Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã còn hạn chế, nguồn vốn hoạt động thấp, chủ yếu phụ thuộc vào ngân sách nhà nước. Nhân sự triển khai các hoạt động nghiệp vụ về cơ bản còn hạn chế cả về năng lực chuyên môn và kinh nghiệm làm việc nên chất lượng hoạt động tín dụng của Quỹ còn tiềm ẩn nhiều rủi ro; sự phối hợp hoạt động của Quỹ ở Trung ương và Quỹ ở địa phương còn mờ nhạt, chưa tận dụng được mạng lưới rộng khắp của mình.
1.3.2.4. Chính sách hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ
Chính sách hỗ trợ hợp tác xã ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ từ Luật Hợp tác xã năm 2003 đến Luật Hợp tác xã năm 2012 không thay đổi, Nhà nước hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ cho các hợp tác xã thông qua Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia và cấp tỉnh.
Thực hiện chính sách hỗ trợ về khoa học - công nghệ, hằng năm, các bộ, ngành đã phối hợp với các địa phương triển khai hoạt động hỗ trợ hợp tác xã ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ thông qua hoạt động của các hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã chỉ đạo các ngành chức năng trực thuộc tỉnh, thành phố hỗ trợ, chuyển giao cho các hợp tác xã nông nghiệp và các tổ chức hợp tác xã về công nghệ sinh học, giống mới, công nghệ chế biến và bảo quản sau thu hoạch, hỗ trợ chuyển đổi cây trồng, vật nuôi; dịch vụ khuyến công, khuyến thương, khuyến ngư… Các hỗ trợ này góp phần nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả của sản phẩm và giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn. Đến năm 2012, trong gần 200 dự án của các tỉnh, các hợp tác xã thụ hưởng trực tiếp hoặc tham gia phối hợp triển khai chương trình, bao gồm: các dự án về đào tạo nghề; xây dựng mô hình trình diễn kỹ thuật, áp dụng chuyển giao công nghệ mới; hỗ trợ đầu tư, mở rộng cơ sở vật chất và nâng cao năng lực sản xuất…
Giai đoạn 2013 - 2016, tỷ lệ áp dụng máy móc, thiết bị trong sản xuất có xu hướng gia tăng; năm 2016 tỷ lệ áp dụng máy móc, thiết bị trong sản xuất nông nghiệp có mức gia tăng 1-2% so với năm 2015, các tiến bộ khoa học và công nghệ đã đóng góp khoảng 30-40% vào tăng trưởng nông nghiệp. Từ năm 2014 đến năm 2016, nguồn kinh phí hỗ trợ chi thường xuyên cho hoạt động khoa học và công nghệ hằng năm cho Liên minh Hợp tác xã Việt Nam là 13,94 tỷ đồng, đã tổ chức tư vấn cho các hợp tác xã áp dụng được 26 công nghệ khác nhau nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hỗ trợ cho 540 hợp tác xã được ứng dụng khoa học công nghệ, rất ít so với tổng số hợp tác xã cả nước (chỉ 2,76%).
Trong giai đoạn 2013 - 2018, các địa phương đã hỗ trợ cho 3.877 lượt hợp tác xã ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ mới với tổng kinh phí là 95.500 triệu đồng, trong đó kinh phí từ ngân sách Trung ương là 23.019 triệu đồng, từ ngân sách địa phương là 70.481 triệu đồng(1).
(1) Bộ Công Thương (10/6/2019), Báo cáo Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002 và Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2012.
Bên cạnh đó, Bộ Công Thương cũng có nhiều hoạt động khuyến công hỗ trợ các hợp tác xã công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp về ứng dụng máy móc thiết bị tiên tiến, ứng dụng khoa học, kỹ thuật, công nghệ sản xuất sản phẩm mới, đào tạo nghề, giới thiệu, quảng bá sản phẩm hàng hóa tại các hội chợ triển lãm trong và ngoài nước nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ, hướng tới xuất khẩu. Trong giai đoạn 2015 - 2018, Chương trình khuyến công quốc gia đến năm 2020(2) đã hỗ trợ cho 44 hợp tác xã với kinh phí 8,2 tỷ đồng, các nội dung hỗ trợ gồm: ứng dụng máy móc thiết bị tiên tiến vào sản xuất, đào tạo; tham gia hội chợ, bình chọn sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu; hỗ trợ đào tạo nghề cho đội ngũ lao động làm việc trong hợp tác xã… Ngoài ra, năm 2018, Bộ Công Thương đã tổ chức bình chọn và cấp giấy chứng nhận sản phẩm nông nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp khu vực cho 29 sản phẩm của 29 hợp tác xã.
(2) Quyết định số 1288/QĐ-TTg ngày 01/8/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình khuyến công quốc gia đến năm 2020.
Một số hợp tác xã sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp được hỗ trợ nghiên cứu, ứng dụng các đề tài sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng, hướng dẫn đăng ký kiểu dáng, nhãn hiệu hàng hóa, sở hữu công nghiệp, tập huấn xây dựng thương hiệu.
Tuy nhiên, mặc dù cơ chế, chính sách về khoa học và công nghệ cơ bản đầy đủ nhưng chưa có chính sách đặc thù đối với hợp tác xã. Các hợp tác xã được thụ hưởng chung giống như các thành phần kinh tế khác nên số lượng hợp tác xã được hưởng chính sách này là rất ít. Nguồn ngân sách hỗ trợ hợp tác xã trong lĩnh vực này còn hạn chế, bên cạnh đó còn không ít khó khăn về vốn đầu tư ban đầu, kiến thức cơ bản... khiến nhiều hợp tác xã lúng túng trong chủ động tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật. Nhiều sản phẩm nông, lâm, thủy sản chưa có thương hiệu trên thị trường quốc tế, trong khi cạnh tranh về thị trường tiêu thụ nông sản ngày càng gia tăng. Các dự án hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ đều đòi hỏi các hợp tác xã phải có vốn đối ứng trong khi khả năng tài chính của hợp tác xã còn hạn chế nên việc tiếp cận các dự án còn khó khăn. Ngoài ra, sự liên kết hoạt động khoa học - công nghệ giữa các địa phương trong nước còn rời rạc. Nhiều địa phương chưa xây dựng được kế hoạch hợp tác chặt chẽ giữa tổ chức và cá nhân nghiên cứu khoa học với cơ quan quản lý nghiên cứu, cơ quan chuyển giao kết quả và tổ chức, cá nhân sử dụng kết quả nghiên cứu từ các đề tài, dự án.
1.3.2.5. Chính sách xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường
Chính sách xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình hội nhập kinh tế quốc tế, không chỉ giới hạn ở các hợp tác xã sản xuất hàng hóa xuất khẩu hoặc có dự án xúc tiến thương mại còn mà được mở rộng cho toàn bộ các hợp tác xã. Các hợp tác xã được thụ hưởng chính sách này chủ yếu thông qua Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia với đầu mối triển khai là Liên minh Hợp tác xã Việt Nam. Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 171/2014/TT-BTC ngày 14/11/2014 hướng dẫn cơ chế tài chính hỗ trợ từ ngân sách nhà nước để thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia.
Hằng năm, Bộ Công Thương phê duyệt một số đề án xúc tiến thương mại quốc gia cho các hợp tác xã, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tham gia các hội chợ trong và ngoài nước nhằm quảng bá hình ảnh, mở rộng thị trường. Ngoài ra, Bộ Công Thương thường xuyên cập nhật, đưa tin về các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm giới thiệu hợp tác xã, quảng bá thương hiệu của hợp tác xã trên cổng thông tin điện tử của Bộ và Cục Xúc tiến thương mại. Thông qua các chương trình, dự án lớn (Chương trình thương hiệu quốc gia; Chương trình xây dựng thương hiệu ngành thực phẩm Việt Nam; Chương trình tư vấn thiết kế, phát triển sản phẩm…) đã tạo điều kiện cho hợp tác xã quảng bá, giới thiệu sản phẩm, hàng hóa đến thị trường trong và ngoài nước, tạo cơ hội giao thương, liên kết hợp tác kinh doanh, mở rộng thị trường tiêu thụ.
Từ năm 2011 đến năm 2018, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam chủ trì thực hiện 09 đề án trong khuôn khổ Chương trình Xúc tiến thương mại quốc gia với tổng kinh phí được phê duyệt khoảng 16,29 tỷ đồng, hỗ trợ hơn 500 lượt hợp tác xã, doanh nghiệp trên cả nước tham gia các hội chợ, triển lãm thương mại trong nước, quốc tế và một số thị trường mục tiêu tại nước ngoài như Ý, Đức...; tổ chức các khóa đào tạo tập huấn kỹ năng kinh doanh và tiếp cận thị trường trong nước cho các hợp tác xã trên địa bàn cả nước. Tính đến tháng 10/2019, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam được phê duyệt thực hiện 02 đề án tổ chức Hội chợ Xúc tiến thương mại cho các hợp tác xã và 05 khóa đào tạo tập huấn kỹ năng kinh doanh và tiếp cận thị trường trong nước cho các hợp tác xã trên địa bàn cả nước với tổng kinh phí thực hiện là hơn 2,32 tỷ đồng.
Giai đoạn 2003 - 2018, các địa phương hỗ trợ cho hơn 4.500 lượt hợp tác xã tham gia hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường với tổng kinh phí là 469 tỷ đồng(1).
(1) Ban Chỉ đạo Đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã (14/10/2019), Báo cáo Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002 và Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2012.
Tuy nhiên, số lượng hợp tác xã tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại được hỗ trợ từ Chương trình Xúc tiến thương mại quốc gia còn hạn chế, tập trung chủ yếu vào các hoạt động xúc tiến thương mại tại địa phương; rất ít đề án hỗ trợ hợp tác xã tham gia hội chợ triển lãm tại nước ngoài. Các đơn vị chủ trì chưa đầu tư xây dựng nhiều đề án hỗ trợ xúc tiến thương mại cho hợp tác xã mang tính dài hạn, theo chuỗi từ xúc tiến phát triển sản phẩm, thiết kế sản phẩm, xây dựng thương hiệu, kênh phân phối, phát triển thị trường tiêu thụ... Bên cạnh đó, các hợp tác xã có quy mô sản xuất nhỏ, lẻ, manh mún; sản phẩm sản xuất chưa đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn chất lượng, sản lượng chưa có khả năng cung ứng thường xuyên cho các siêu thị, các đơn vị xuất nhập khẩu lớn hoặc không có mặt bằng đủ lớn để tổ chức giới thiệu, bán sản phẩm mới sản xuất... do đó nhiều hợp tác xã sản xuất còn gặp khó khăn trong việc tìm thị trường cho mình. Mặt khác, các hợp tác xã sản xuất, tiêu thụ chưa liên kết chặt chẽ với nhau trong tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; các hợp tác xã phần lớn hoạt động độc lập, chưa hiệu quả. Có không ít chương trình, dự án xúc tiến thương mại chưa thu hút được nhiều hợp tác xã, cơ sở sản xuất tham gia. Đa số các hợp tác xã chưa chú trọng việc xây dựng thương hiệu, chất lượng sản phẩm nên chưa thu hút được người tiêu dùng. Các hợp tác xã khó tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi để đầu tư máy móc thiết bị, đóng gói bao bì sản phẩm, phương tiện vận chuyển...
1.3.2.6. Về chính sách đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng
Giai đoạn 2003 - 2012, chính sách hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng được triển khai thực hiện cho hợp tác xã thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia về nông nghiệp, nông thôn. Kinh phí cho chương trình này tăng qua các năm. Một số địa phương tập trung vốn đầu tư từ ngân sách cho đầu tư hạ tầng phục vụ nông nghiệp, nông thôn, như: giao thông, trường học, trạm y tế, nước sạch nông thôn, vệ sinh môi trường, thủy lợi kênh mương nội đồng… Theo đó, hợp tác xã cũng được hưởng lợi từ các công trình này để phục vụ thành viên hợp tác xã.
Từ năm 2013 thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2012, chính sách đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng chỉ áp dụng cho các hợp tác xã hoạt động trên lĩnh vực nông nghiệp, nhằm tập trung nguồn lực, hỗ trợ đúng đối tượng là các hợp tác xã nông nghiệp (thay vì cho tất cả các hợp tác xã như Luật Hợp tác xã năm 2003).
Hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng cho phát triển hợp tác xã nông nghiệp được các địa phương quan tâm và triển khai từ nhiều nguồn kinh phí, gồm: Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới; Chương trình mục tiêu Tái cơ cấu kinh tế nông nghiệp và phòng chống giảm nhẹ thiên tai, ổn định đời sống dân cư; nguồn ngân sách địa phương… Ngoài ra, một số chương trình, dự án cũng bố trí nguồn lực như: Dự án Chuyển đổi Nông nghiệp bền vững, Dự án Nâng cao chất lượng an toàn sản phẩm nông nghiệp và phát triển chương trình khí sinh học…
Giai đoạn 2013 - 2018, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã hỗ trợ cho 692 hợp tác xã về phát triển kết cấu hạ tầng với tổng kinh phí là 494 tỷ đồng(1). Kinh phí này chủ yếu được lồng ghép từ các chương trình hỗ trợ có mục tiêu có đối tượng thụ hưởng là các hợp tác xã. Bình quân, mỗi hợp tác xã được hỗ trợ 1,25 tỷ đồng từ ngân sách nhà nước; hợp tác xã đóng góp đối ứng thông thường từ 20% đến 59% tổng mức đầu tư.
(1) Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2012.
Từ năm 2019, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo cho phép sử dụng 4311,9 tỷ đồng vốn dự phòng 10% của Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (Công văn số 1011/VPCP-KTTH ngày 01/02/2019 của Văn phòng Chính phủ) để bố trí vốn thực hiện các dự án thuộc các đề án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, trong đó có 51 địa phương được đề xuất phân bổ thực hiện Đề án hỗ trợ phát triển hợp tác xã theo Quyết định số 2261/QĐ-TTg ngày 15/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã giai đoạn 2015 - 2020. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có Công văn số 1809/BKHĐT-KTNN ngày 22/3/2019 gửi các địa phương hướng dẫn sử dụng số vốn trên. Đến ngày 09/9/2019 Bộ Tài chính đã nhận được báo cáo phân bổ của 15/51 địa phương với số vốn phân bổ thực hiện Đề án hỗ trợ phát triển hợp tác xã là 317,506 tỷ đồng.
Ngoài ra, Dự án Chuyển đổi Nông nghiệp bền vững đã và đang hỗ trợ 568 tỷ đồng cho 136 tiểu dự án hỗ trợ xây dựng hạ tầng cho các tổ chức nông dân (hợp tác xã, tổ hợp tác) trong ngành cà phê và lúa, gạo ở 8 tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long và 5 tỉnh Tây Nguyên (tỷ lệ đối ứng của hợp tác xã là 20%). Dự án Nâng cao chất lượng an toàn sản phẩm nông nghiệp và phát triển chương trình khí sinh học thực hiện hỗ trợ kết cấu hạ tầng phát triển vùng nguyên liệu giai đoạn 2015 - 2016 đã hỗ trợ 80 hợp tác xã, tổ hợp tác có vị trí thuận lợi trên 16 địa phương với tổng kinh phí hỗ trợ là 1.400 tỷ đồng.
Tuy nhiên, chính sách này chậm được triển khai thực hiện trong thực tiễn. Số lượng hợp tác xã nông nghiệp được thụ hưởng rất ít; các dự án hỗ trợ quy mô nhỏ, chủ yếu tập trung hỗ trợ cho từng hợp tác xã hoạt động trên quy mô toàn xã, làm hạn chế tiềm năng liên kết vùng miền, nâng cao quy mô và sức cạnh tranh cũng như hiệu quả khai thác của các công trình đã hỗ trợ. Nguồn kinh phí được bố trí từ Chương trình mục tiêu quốc gia về Xây dựng nông thôn mới nên các hợp tác xã nông nghiệp trên các phường, thị trấn không được hỗ trợ đầu tư hạ tầng, trong khi đây là những hợp tác xã có vị trí thuận lợi để phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm, kết nối vùng nguyên liệu, xây dựng cơ sở sơ chế, chế biến sản phẩm nông nghiệp thành hàng hóa đưa ra thị trường.
1.3.2.7. Về chính sách tạo điều kiện tham gia các chương trình mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế - xã hội
Từ năm 2013, sau khi Luật Hợp tác xã năm 2012 có hiệu lực thi hành, để khẳng định vai trò của hợp tác xã trong công cuộc tái cơ cấu nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, ngày 17/10/2016 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1980/QĐ-TTg về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn
2016 - 2020, trong đó có tiêu chí số 13 là xã nông thôn mới phải có hợp tác xã kiểu mới hoạt động theo Luật Hợp tác xã năm 2012 và có hoạt động liên kết gắn với chuỗi giá trị sản phẩm. Nội dung này đã được các địa phương xây dựng kế hoạch và hướng dẫn các nội dung liên quan đến phát triển hợp tác xã. Nhờ đó, các hợp tác xã được tạo điều kiện thành lập, tham gia các chương trình mục tiêu, phát triển kinh tế - xã hội của địa phương như: nông thôn miền núi, xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, chương trình khuyến công và xúc tiến thương mại, chương trình khuyến nông, Chương trình mục tiêu quốc gia về Xây dựng nông thôn mới… Một số công trình sau khi được hoàn thành, chủ đầu tư giao cho hợp tác xã chịu trách nhiệm quản lý, khai thác (hệ thống giao thông nội đồng, chợ nông thôn).
Trong giai đoạn 2013 - 2018, đã tạo điều kiện cho 1.150 lượt hợp tác xã tham gia các chương trình mục tiêu, phát triển kinh tế - xã hội với tổng kinh phí là 74.965 triệu đồng, trong đó kinh phí từ ngân sách Trung ương là 7.484 triệu đồng, từ ngân sách địa phương là 67.481 triệu đồng(1).
(1) Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2012.
1.3.2.8. Về chính sách thành lập mới hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã
Căn cứ Quyết định số 2261/QĐ-TTg ngày 15/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã giai đoạn 2015 - 2020, Thông tư số 340/2016/TT-BTC ngày
29/12/2016 của Bộ Tài chính hướng dẫn về mức hỗ trợ và cơ chế tài chính hỗ trợ bồi dưỡng nguồn nhân lực của hợp tác xã, thành lập mới hợp tác xã, tổ chức lại hoạt động của hợp tác xã theo Chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã giai đoạn 2015 - 2020, các tỉnh, thành phố bố trí từ nguồn ngân sách địa phương hỗ trợ hợp tác xã thành lập mới.
Theo báo cáo của 63 tỉnh, thành phố, hầu hết hợp tác xã thành lập mới được hỗ trợ kinh phí từ 5 triệu đồng đến 20 triệu đồng/hợp tác xã. Riêng TP. Hồ Chí Minh hỗ trợ 100 triệu đồng/hợp tác xã. Nội dung hỗ trợ bao gồm: cung cấp thông tin, tư vấn, tập huấn về quy định pháp luật hợp tác xã trước khi thành lập hợp tác xã cho sáng lập viên hợp tác xã; tư vấn xây dựng điều lệ, phương án sản xuất kinh doanh, hướng dẫn và thực hiện các thủ tục thành lập, đăng ký và tổ chức hoạt động của hợp tác xã; tư vấn thực hiện các thủ tục tổ chức lại hoạt động của hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã…
Trong giai đoạn 2013 - 2018, cả nước đã hỗ trợ cho 6.211 hợp tác xã thành lập mới với tổng kinh phí là 27.204 triệu đồng, trong đó kinh phí từ ngân sách Trung ương là 4.680 triệu đồng, từ ngân sách địa phương là 22.524 triệu đồng(1).
(1) 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2012.
Tuy nhiên, nguồn kinh phí thành lập mới hợp tác xã theo quy định tại Luật Hợp tác xã năm 2012 do ngân sách địa phương hỗ trợ 100%, nhiều địa phương không cân đối được ngân sách nên số lượng các hợp tác xã cũng như kinh phí được hỗ trợ còn hạn chế.
1.3.2.9. Về chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp và các loại thuế khác theo quy định của pháp luật về thuế
Việc thực hiện nghĩa vụ thuế đối với hợp tác xã cũng giống như đối với nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp và tuân theo quy định của hệ thống thuế hiện hành (với 10 Luật về thuế, phí như: Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt...).
Để phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã, Nhà nước đã có nhiều chính sách ưu đãi thuế đối với hợp tác xã, đặc biệt là đối với các hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp với các lĩnh vực, địa bàn được ưu đãi thuế; tập trung ở các sắc thuế: thuế thu nhập doanh nghiệp; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; thuế sử dụng đất phi nông nghiệp; thuế sử dụng đất nông nghiệp... Hợp tác xã, ngoài việc giảm thuế suất phổ thông thuế thu nhập doanh nghiệp xuống mức 20% thì được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp ở mức khá cao và ngày càng quy định rõ ràng, minh bạch (miễn thuế(1), giảm thuế, áp dụng thuế suất 10%(2), 15%). Đối với sản phẩm nông nghiệp của hợp tác xã khi xuất khẩu được áp dụng thuế suất 0%. Các sản phẩm trồng trọt chưa qua chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường bán ra thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng, ở khâu kinh doanh thương mại áp dụng thuế suất giá trị gia tăng 5% (mức thuế suất thông thường là 10%)(3). Hợp tác xã cũng được ưu đãi, miễn, giảm lệ phí trước bạ khi sử dụng đất nông nghiệp, miễn lệ phí môn bài khi hoạt động dịch vụ kỹ thuật trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp hoặc khi hợp tác xã kinh doanh tại địa bàn miền núi… Ngoài ra, các hợp tác xã được hưởng ưu đãi về thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất nông nghiệp và đất phi nông nghiệp như doanh nghiệp.
(1) Theo Điều 4 Nghị định số 218/2013/NĐ-CP ngày 26/12/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp.
(2) Theo Điều 15 Nghị định số 218/2013/NĐ-CP ngày 26/12/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp.
(3) Theo Điều 4, Điều 5 Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Luật Thuế giá trị gia tăng và Nghị định số 209/2013/NĐ-CP ngày 18/12/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật Thuế giá trị gia tăng.
Chính sách ưu đãi thuế đối với hợp tác xã trong thời gian qua đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần cho phù hợp với thực tế, tạo điều kiện cho hợp tác xã tăng thêm nguồn tài chính, tăng tích lũy, đẩy mạnh đầu tư phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh, đảm bảo bình đẳng với các thành phần kinh tế khác; tạo thêm việc làm và thu nhập cho thành viên, người lao động trong hợp tác xã; đồng thời thu hút được vốn đầu tư, tạo môi trường kinh doanh tốt cho các hợp tác xã khu vực nông nghiệp, nông thôn và là một bước tiến quan trọng trong lộ trình xóa đói, giảm nghèo theo định hướng của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, các chính sách về thuế đối với hợp tác xã còn phân tán và được lồng ghép theo chính sách thuế đối với doanh nghiệp. Bản thân các hợp tác xã chưa hạch toán riêng biệt phần thu nhập được miễn thuế. Công tác quản lý thuế hiện nay đang chủ yếu tập trung cho khối doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể, trong khi quản lý thuế đối với hợp tác xã chưa được quan tâm chú trọng đúng mức.
1.3.2.10. Chính sách ưu đãi lệ phí đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo quy định của pháp luật về phí và lệ phí
Đa số các hợp tác xã trên cả nước khi thành lập mới được miễn lệ phí đăng ký thành lập, đăng ký chuyển đổi hoạt động theo Luật Hợp tác xã năm 2012. Đây cũng là chính sách hỗ trợ của Nhà nước giúp các hợp tác xã có khởi đầu thuận lợi để phát triển.
Ngoài ra, các hợp tác xã còn được Nhà nước miễn lệ phí môn bài và lệ phí trước bạ trong một số trường hợp như:
- Hợp tác xã được miễn phí môn bài đối với: chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh của hợp tác xã hoạt động dịch vụ kỹ thuật trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp; hợp tác xã chuyên kinh doanh dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp; chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh của hợp tác xã và của doanh nghiệp tư nhân kinh doanh tại địa bàn miền núi(1).
(1) Theo quy định tại Nghị định số 139/2016/NĐ-CP ngày 04/10/2016 của Chính phủ quy định về lệ phí môn bài.
Chính sách miễn lệ phí môn bài đối với hợp tác xã đã góp phần hỗ trợ, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển hợp tác xã hoạt động dịch vụ kỹ thuật trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp và các hợp tác xã hoạt động trên địa bàn miền núi.
- Tài sản của tổ chức, cá nhân đã nộp lệ phí trước bạ (trừ trường hợp được miễn nộp lệ phí trước bạ) chuyển cho tổ chức, cá nhân khác đăng ký quyền sở hữu, sử dụng được miễn nộp lệ phí trước bạ, gồm có trường hợp: tổ chức, cá nhân, xã viên hợp tác xã đem tài sản của mình góp vốn vào doanh nghiệp, tổ chức tín dụng, hợp tác xã hoặc khi doanh nghiệp, tổ chức tín dụng, hợp tác xã giải thể hoặc phân chia hoặc rút vốn cho tổ chức, cá nhân thành viên tài sản mà tổ chức, cá nhân thành viên đã góp trước đây(2).
(2) Theo Nghị định số 140/2016/NĐ-CP ngày 10/10/2016 của Chính phủ về phí trước bạ.
1.3.2.11. Các chính sách khác
a) Chính sách hỗ trợ bảo hiểm xã hội cho cán bộ hợp tác xã
Chính sách bảo hiểm xã hội đối với cán bộ quản lý, người lao động trong hợp tác xã đã được sửa đổi, bổ sung hoàn thiện theo hướng mở rộng đối tượng thuộc diện tham gia, nhằm đảm bảo quyền thụ hưởng chính sách của cán bộ quản lý, điều hành, người lao động trong các hợp tác xã. Trước năm 2003, người lao động làm việc tại các hợp tác xã không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Từ ngày 01/01/2003 người quản lý, điều hành hợp tác xã có hưởng tiền lương, người làm việc theo hợp đồng không xác định thời hạn hoặc có thời hạn từ đủ 03 tháng (từ ngày 01/01/2018 là hợp đồng từ đủ 01 tháng) trở lên trong các hợp tác xã thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Đặc biệt, từ ngày 01/01/2018 với việc bổ sung chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện đã tạo điều kiện để mọi thành viên, người lao động làm việc tại các hợp tác xã mà không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc có cơ hội tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện để được hưởng lương hưu khi về già.
Theo số liệu báo cáo của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội đối với người làm việc trong các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trong giai đoạn 2013 - 2018 được thể hiện trong bảng 1.1:
Bảng 1.1: Chính sách bảo hiểm xã hội đối với người làm việc trong các hợp tác xã giai đoạn 2013 - 2018
Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam
Qua số liệu thống kê về tình hình thực hiện bảo hiểm xã hội đối với các hợp tác xã cho thấy, trong giai đoạn 2013 - 2018 số cán bộ quản lý hợp tác xã (bao gồm cả người lao động làm việc theo hợp đồng lao động) tham gia bảo hiểm xã hội dao động trong khoảng trên 40 nghìn người (bình quân 4 người/01 đơn vị hành chính cấp xã). Tiền lương đóng bảo hiểm xã hội tăng ở mức tương đương với tốc độ tăng lương tối thiểu vùng (bình quân khoảng 14%/năm), năm 2018 là gần 4,3 triệu đồng/tháng (bình quân chung của các nhóm đối tượng là 5,1 triệu đồng/tháng); số thu bảo hiểm xã hội ở khu vực này tăng qua các năm, đến năm 2018 số thu bảo hiểm xã hội là 569,311 tỷ đồng.
Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội còn một số hạn chế như sau:
- Thực tế, số người đóng bảo hiểm xã hội mới chỉ có chưa đến
10% số cán bộ, người lao động làm việc trong khu vực hợp tác xã tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Như vậy, số người chưa tham gia bảo hiểm xã hội quá lớn, đang là một thách thức đối với việc đảm bảo an sinh xã hội lâu dài cho người lao động. Tiền lương lao động trong hợp tác xã thấp hơn mức tiền lương đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, thể hiện một thực tế là người có thu nhập càng cao, tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội càng cao. Những người có thu nhập thấp lại là những người “không được bảo hiểm”. Chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể về nguyên tắc trả tiền lương cho người quản lý điều hành, người lao động.
- Bộ luật Lao động hiện nay có quy định về tiền lương của người lao động (trong đó có người lao động trong hợp tác xã) nhưng không áp dụng cho người quản lý, điều hành hợp tác xã mà không có hợp đồng lao động, dẫn đến thực tế rất khó thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định của pháp luật đối với người quản lý, điều hành hợp tác xã có hưởng tiền lương.
- Việc thực hiện chủ trương đổi mới, phát triển hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, trong giai đoạn vừa qua bên cạnh việc nhiều hợp tác xã được thành lập mới thì nhiều hợp tác xã bị giải thể, tái cơ cấu. Do vậy, việc giải quyết chế độ, chính sách đối với lao động thường xuyên (trong đó có chính sách bảo hiểm xã hội) cũng là những thách thức đặt ra.
b) Chính sách hỗ trợ vốn, giống khi gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh
Chính sách này mới được quy định trong Luật Hợp tác xã năm 2012 đối với các hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp. Việc hỗ trợ hợp tác xã khi gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh được thực hiện theo Quyết định số 142/2009/QĐ-TTg ngày 31/12/2009 của Thủ tướng Chính phủ quy định hợp tác xã được ngân sách nhà nước kịp thời hỗ trợ bằng tiền hoặc cây, con giống đảm bảo chất lượng, phù hợp với sinh thái địa phương khi gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh và Quyết định số 49/2012/QĐ-TTg ngày 08/11/2012 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung Điều 3 của Quyết định số 142/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; Nghị định số 02/2017/ NĐ-CP ngày 09/01/2017 của Chính phủ về cơ chế, chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp để khôi phục sản xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh; Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 187/2010/TT- BTC ngày 22/11/2010 quy định về cơ chế, chính sách hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản để khôi phục sản xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh và Thông tư số 33/2013/TT-BTC ngày 21/3/2013 sửa đổi, bổ sung Điều 2 Thông tư số 187/2010/TT-BTC ngày 21/11/2010 của Bộ Tài chính. Theo đó, hợp tác xã được ngân sách nhà nước kịp thời hỗ trợ diện tích cây trồng bị thiệt hại từ 30% trở lên; hỗ trợ đối với vật nuôi thiệt hại do thiên tai, thiệt hại do dịch bệnh nguy hiểm; hỗ trợ đối với nuôi trồng thủy, hải sản bị thiệt hại từ 30% trở lên.
Thực tế, chính sách này được thực hiện khá tốt nên cơ bản đã giúp cho người dân và thành viên hợp tác xã vượt qua khó khăn, ổn định phát triển sản xuất. Tuy nhiên, do chính sách hỗ trợ vốn, giống tập trung hỗ trợ trực tiếp sản xuất, trong khi các hợp tác xã nông nghiệp chủ yếu thực hiện các hoạt động dịch vụ nên UBND xã, phường trực tiếp cấp phát cho người dân, thành viên hợp tác xã vùng bị thiên tai, chỉ một số ít địa phương có hợp tác xã nông nghiệp được tham gia triển khai thực hiện chính sách cho các thành viên của mình. Do đó, số hợp tác xã được hưởng chính sách này vẫn còn hạn chế. Trong giai đoạn 2013 - 2016, chỉ có 327 hợp tác xã được hỗ trợ với kinh phí 21,5 tỷ đồng (khoảng 3,18% tổng số hợp tác xã nông nghiệp).
Năm 2018, ngân sách Trung ương đã cấp bổ sung cho các địa phương 566,36 tỷ đồng cho 17 tỉnh, thành phố để khôi phục sản xuất(1).
(1) Báo cáo của Bộ Tài chính năm 2018.
c) Chính sách hỗ trợ chế biến sản phẩm
Chính sách hỗ trợ chế biến sản phẩm đối với hợp tác xã được thực hiện theo Quyết định số 68/2013/QĐ-TTg ngày 14/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp. Theo đó, khi mua máy, thiết bị nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp, hợp tác xã được Ngân sách Nhà nước hỗ trợ lãi suất vốn vay thương mại đối với các khoản vay dài hạn, trung hạn, ngắn hạn bằng đồng Việt Nam, mức vay tối đa bằng 100% giá trị hàng hóa. Hỗ trợ 100% lãi suất vốn vay trong hai năm đầu, 50% trong năm thứ ba đối với các khoản vay dài hạn, trung hạn, ngắn hạn bằng đồng Việt Nam để mua máy, thiết bị nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp. Ngoài ra, các địa phương đã vận dụng các chính sách hiện hành như chính sách hỗ trợ khoa học, công nghệ, khuyến nông, chính sách hỗ trợ chế biến và ngành, nghề nông thôn… để thực hiện hỗ trợ cho các hợp tác xã.
Trong giai đoạn 2013 - 2016 đã có 355 hợp tác xã được hỗ trợ với tổng số tiền là 62,66 tỷ đồng. Trong đó, ngân sách Trung ương là 51,78%; ngân sách địa phương là 38,28% và nguồn hỗ trợ khác là 9,94%; 18 hợp tác xã được vay vốn theo Quyết định số 68/2013/ QĐ-TTg ngày 14/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ giảm tổn thất trong nông nghiệp với số dư nợ vay chiếm khoảng 0,16% tổng dư nợ cho vay(1).
(1) Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2019.
Tuy nhiên, việc thực hiện hỗ trợ theo Quyết định số 68/2012/QĐ- TTg rất ít hợp tác xã tiếp cận được. Do chỉ hỗ trợ lãi suất vay, nhưng hợp tác xã không có tài sản đảm bảo để vay được vốn nên ngân hàng không cho vay được.
1.3.3. Tác động của các chính sách đối với sự phát triển hợp tác xã trong thời gian qua
Các chính sách hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước đã tác động tích cực đến quá trình đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả các hợp tác xã trong thời gian qua.
Mặc dù việc đầu tư của Nhà nước cho khu vực này còn hạn chế nhưng khu vực kinh tế hợp tác xã đã từng bước được củng cố, đổi mới và phát triển. Các bộ, ngành, địa phương đã triển khai đánh giá lại tình hình hoạt động, tổ chức của toàn bộ hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trên địa bàn. Một số địa phương thực hiện thủ tục giải thể đối với các hợp tác xã ngừng hoạt động kéo dài, không có khả năng tổ chức lại hoặc chuyển đổi sang loại hình tổ chức kinh tế khác theo quy định của Luật Hợp tác xã năm 2012 làm lành mạnh hóa khu vực hợp tác xã, tạo tiền đề cho các hợp tác xã kiểu mới phát triển cả về số lượng và chất lượng.
1.3.3.1. Số lượng hợp tác xã tăng qua từng năm
Số lượng hợp tác xã tăng theo từng năm, phát triển khá đồng đều trên khắp các vùng miền, chất lượng hoạt động được nâng lên. Các hợp tác xã từng bước hoạt động đúng bản chất, ngày càng tập trung hơn vào việc hỗ trợ kinh tế hộ thành viên thông qua cung cấp các dịch vụ hoặc việc làm cho thành viên, nhất là hợp tác xã nông nghiệp. Quy mô, vốn và các lĩnh vực hoạt động của hợp tác xã được mở rộng, nhiều hợp tác xã có quy mô toàn xã, huyện. Nhiều loại hình hợp tác xã mới được thành lập như hợp tác xã môi trường, hợp tác xã trường học, hợp tác xã y tế… Theo Báo cáo Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002 của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2012 của 63 tỉnh, thành phố, tính đến
31/12/2018, toàn quốc có 23.318 hợp tác xã (13.856 hợp tác xã nông nghiệp, 1.183 quỹ tín dụng nhân dân và 8.279 hợp tác xã phi nông nghiệp), thu hút gần 6 triệu thành viên tham gia. Số lượng hợp tác xã tăng 8.911 hợp tác xã (khoảng gần 62%) so với năm 2003, trong khi số thành viên hợp tác xã giảm 351.116 thành viên (khoảng 5,5%) so với năm 2003(1). Trong giai đoạn này, số lượng hợp tác xã thành lập mới là 11.575 hợp tác xã nhưng số hợp tác xã giải thể lên tới 6.303 hợp tác xã(2). Có thể thấy, trong 5 năm (2013 - 2018), số lượng hợp tác xã thành lập mới tăng nhanh qua các năm, nếu như năm 2003 chỉ có 919 hợp tác xã thành lập mới thì đến năm 2018 cả nước đã có 2.596 hợp tác xã thành lập mới (tăng khoảng 2,8 lần so với năm 2003)(1). Số hợp tác xã thành lập mới chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp (giai đoạn 2003 - 2018, số hợp tác xã nông nghiệp thành lập mới là 9.391 hợp tác xã, chiếm 81% so với tổng số hợp tác xã thành lập mới của cả nước). Điều này càng khẳng định vị trí, vai trò của hợp tác xã trong tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
(1) Sau khi Luật Hợp tác xã năm 2012 có hiệu lực, các tỉnh đã rà soát và cho giải thể những hợp tác xã ngưng hoạt động lâu năm, chỉ còn tên trên danh nghĩa, hoạt động không đúng bản chất; các hợp tác xã tự điều chỉnh, thanh lọc; các hợp tác xã yếu kém, không hoạt động sẽ giải thể hoặc chuyển sang hình thức khác phù hợp hơn.
(2) Báo cáo của các tỉnh, thành phố trên cả nước năm 2019.
(1) Ban Chỉ đạo Đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã (14/10/2019), Báo cáo Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002.
Tính đến 31/12/2018, số lao động làm việc trong hợp tác xã là 1.220.486(2) người, tăng 177.511 người (khoảng 17%) so với thời điểm 31/12/2003.
(2) Báo cáo của 55/63 tỉnh, thành phố năm 2019.
1.3.3.2. Hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã
Mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn nhưng hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã những năm gần đây ngày càng ổn định và có xu hướng phát triển. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của hợp tác xã năm 2018 tăng lên so với thời điểm năm 2003. Doanh thu bình quân của một hợp tác xã năm 2018 đạt 4.412 triệu đồng/hợp tác xã(3), tăng 3.538,5 triệu đồng (gấp khoảng 4 lần) so với năm 2003, trong đó doanh thu bình quân của hợp tác xã với thành viên cũng tăng từ 727 triệu đồng/năm (năm 2003) lên 3.235,5 triệu đồng/năm(4) (năm 2018), tăng 2.508,5 triệu đồng (gấp khoảng 3,5 lần) so với năm 2003; chiếm khoảng 73% trong doanh thu bình quân của 1 hợp tác xã.
(3) Báo cáo của 54/63 tỉnh, thành phố năm 2019.
(4) Báo cáo của 29/63 tỉnh, thành phố năm 2019.
Cùng với doanh thu, lãi bình quân của một hợp tác xã tăng từ 216,8 triệu đồng/hợp tác xã/năm (năm 2003) lên 576 triệu đồng/hợp tác xã/năm (năm 2018) (tăng 359,2 triệu đồng/hợp tác xã/năm, khoảng 165,7%). Thu nhập bình quân của lao động thường xuyên trong hợp tác xã cũng được tăng lên, từ 14,4 triệu đồng/năm (năm 2003) lên 36,4 triệu đồng/năm (năm 2018) (tăng 22 triệu đồng, khoảng 152,8%). Thông qua hợp tác xã, đời sống của thành viên và lao động trong hợp tác xã được tăng lên đáng kể, từng bước cải thiện kinh tế hộ thành viên, góp phần xóa đói, giảm nghèo tại cộng đồng.
1.3.3.3. Số lượng cán bộ làm việc trong các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đã qua đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ công tác
Tổng số cán bộ hợp tác xã tăng từ 42.854 người (năm 2003) lên 85.508 người (năm 2018) (tăng gần gấp đôi)(1). Điều đáng kể là đội ngũ cán bộ có trình độ, được đào tạo cũng được tăng theo thời gian; số lượng cán bộ qua đào tạo đạt trình độ cao đẳng, đại học trở lên tăng 3.464 người (năm 2003) lên 15.821 người (năm 2018), tăng gấp 4,6 lần so với năm 2003(2), chiếm 18,5% trong tổng số cán bộ quản lý hợp tác xã; số lượng cán bộ quản lý hợp tác xã đã đạt trình độ sơ, trung cấp năm 2018 tăng 187% so với năm 2003, chiếm 47,3% trong tổng số cán bộ hợp tác xã, qua đó mang lại nhiều khởi sắc trong tổ chức và quản lý đối với các hợp tác xã.
(1) Báo cáo của 56/63 tỉnh, thành phố năm 2019.
(2) Báo cáo của 58/63 tỉnh, thành phố năm 2019.
Trình độ cán bộ quản lý hợp tác xã được nâng cao rõ rệt. Một số hợp tác xã có đội ngũ cán bộ tâm huyết, có kinh nghiệm, nhạy bén với cơ chế thị trường, mạnh dạn áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã.
Thông qua hợp tác xã, các hộ thành viên có điều kiện tham gia và được hỗ trợ của Nhà nước, của các chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội tại địa phương. Nhờ đó, thu nhập của người lao động cũng như của thành viên, hộ thành viên được cải thiện, góp phần giải quyết vấn đề việc làm, đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn. Vị trí, vai trò, tầm quan trọng của hợp tác xã trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được nâng lên. Xóa dần những mặc cảm do mô hình hợp tác xã kiểu cũ để lại, tạo thuận lợi để nhiều hợp tác xã kiểu mới được thành lập.
Trong thời gian gần đây, số lượng hợp tác xã sản xuất theo chuỗi giá trị ngày càng gia tăng, đang dần trở thành phương thức sản xuất phổ biến để phát triển bền vững. Trong năm 2018, cả nước có gần 1.200 hợp tác xã tổ chức sản xuất gắn với chuỗi giá trị, áp dụng công nghệ cao, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm; nhiều hợp tác xã liên kết với các siêu thị, doanh nghiệp lớn để mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh. Một số hợp tác xã đã chủ động nghiên cứu, mở rộng thị trường, không những trong nước mà còn xuất khẩu.
Sau 15 năm triển khai Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002, khu vực hợp tác xã đang phục hồi và phát triển đúng hướng, mô hình hợp tác xã kiểu mới rất phù hợp với chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, vừa khuyến khích kinh tế cộng đồng thành viên hợp tác xã, vừa tôn trọng và nâng cao vị thế kinh tế hộ thành viên, góp phần giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường.
1.3.3.4. Hợp tác xã trên các vùng kinh tế được củng cố, các hợp tác xã đã tăng cường liên kết, hợp tác để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ cho thành viên
Do điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội khác nhau nên tình hình phát triển và chuyển đổi hợp tác xã không đồng đều tại các vùng trong cả nước: Vùng tập trung số lượng hợp tác xã nhiều nhất cả nước là vùng Đồng bằng Sông Hồng (chiếm 26,4% tổng số hợp tác xã cả nước), tập trung ít hơn ở các vùng còn lại như Tây Bắc (chiếm 5,9%), Nam Trung Bộ (chiếm 5,2%) và Tây Nguyên (chiếm 5,3%).
Thời gian qua, các hợp tác xã hoạt động hình thức yếu kém có xu hướng giải thể hoặc sáp nhập với nhau để hoạt động hiệu quả hơn. Các tỉnh miền Bắc số lượng hợp tác xã giải thể cao hơn các tỉnh miền Trung và miền Nam. Hầu hết các tỉnh đều có xu hướng giảm số lượng thành viên hợp tác xã và số lao động thường xuyên trong hợp tác xã, tuy nhiên doanh thu của hợp tác xã, thu nhập của người lao động trong hợp tác xã đều tăng. Doanh thu bình quân của 1 hợp tác xã cao nhất ở vùng Đông Nam Bộ (15.093,8 triệu đồng/năm, gấp gần 3 lần doanh thu bình quân của cả nước).
1.3.3.5. Hợp tác xã được phát triển trong các ngành, lĩnh vực hoạt động hiệu quả hơn
a) Lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp
Hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp (gọi chung là nông nghiệp) có số lượng nhiều nhất. Tính đến 31/12/2018(1), cả nước có 13.856 hợp tác xã nông nghiệp, 39 liên hiệp hợp tác xã. Bình quân 01 tỉnh có 220 hợp tác xã, tập trung lớn nhất là Đồng bằng Sông Hồng bình quân 362 hợp tác xã/tỉnh; tiếp đến là Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung bình quân 259 hợp tác xã/tỉnh, Trung du miền núi phía Bắc bình quân 223 hợp tác xã/tỉnh, Tây Nguyên bình quân 161 hợp tác xã/tỉnh, Đồng bằng sông Cửu Long bình quân 139 hợp tác xã/tỉnh; ít nhất là vùng Đông Nam Bộ bình quân 85 hợp tác xã/tỉnh. Số hợp tác xã ngừng hoạt động là 625 hợp tác xã, tập trung nhiều ở các tỉnh Đồng bằng Sông Hồng, Tây Nguyên và một số tỉnh ở miền núi phía Bắc, Đông Nam Bộ(1).
(1) Ban Chỉ đạo Đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã (14/10/2019), Báo cáo Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002.
(1) Ví dụ: Hà Nội có 45 hợp tác xã, Vĩnh Phúc có 49 hợp tác xã, Hải Phòng có 43 hợp tác xã, Đắk Lắk có 41 hợp tác xã, Đắk Nông có 28 hợp tác xã, Lâm Đồng có 28 hợp tác xã, Lào Cai có 32 hợp tác xã, Yên Bái có 28 hợp tác xã, Phú Yên có 42 hợp tác xã.
Các hợp tác xã trong lĩnh vực này thu hút 3.769.964 thành viên hợp tác xã nông nghiệp (bình quân khoảng 280 thành viên/hợp tác xã), giảm 1.615.109 thành viên (khoảng 74,9%) so với năm 2003 (trong đó thành viên mới kết nạp là 144.942 thành viên, thành viên ra khỏi hợp tác xã là 1.760.051); tổng số lao động thường xuyên trong hợp tác xã nông nghiệp khoảng 304.736 người, bằng 8,1% số thành viên hợp tác xã; trong đó 203.601 lao động thường xuyên là thành viên hợp tác xã, chiếm 5,4% số thành viên hợp tác xã.
- Giai đoạn 2003 - 2018, số hợp tác xã nông nghiệp tăng 5.769 hợp tác xã, trong đó thành lập mới 9.391 hợp tác xã, giải thể 3.643 hợp tác xã, 21 hợp tác xã chuyển từ phi nông nghiệp sang.
- Doanh thu bình quân 01 hợp tác xã nông nghiệp năm 2018 là 1.615,9 triệu đồng/01 hợp tác xã, tăng 3,5 lần so với năm 2003; trong đó phần doanh thu phục vụ thành viên chiếm 77.2%; lãi bình quân 01 hợp tác xã năm 2018 là 203,5 triệu đồng/01 hợp tác xã, tăng 4 lần so với năm 2003. Doanh thu và lãi bình quân của 01 hợp tác xã nông nghiệp tăng đều qua các năm, giai đoạn 2013 - 2017 tăng gấp đôi so với giai đoạn 2003 - 2012, đặc biệt tăng mạnh trong năm 2018.
Tổng số vốn hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp là 14.749,25 tỷ đồng, bình quân là 1.121,6 triệu đồng/hợp tác xã, tăng 3,3 lần so với năm 2003... Tổng giá trị tài sản của hợp tác xã nông nghiệp năm 2018 là 8.417,5 tỷ đồng, tăng 4.234,4 tỷ đồng so năm 2003.
Đa số các hợp tác xã hoạt động tổng hợp (49,47%), còn lại (50,53%) hoạt động theo chuyên ngành, trong đó lĩnh vực trồng trọt lớn nhất, tiếp đó là chăn nuôi và thủy sản, thấp nhất là diêm nghiệp. Trước khi có Luật Hợp tác xã, chỉ có khoảng 10% số hợp tác xã tham gia dịch vụ đầu vào cho thành viên. Đến năm 2018, đã có 24,5% hợp tác xã thực hiện liên kết đầu vào, đầu ra bằng các hợp đồng liên kết ổn định. Có nhiều hợp tác xã ứng dụng công nghệ cao và thực hành nông nghiệp tốt.
Hợp tác xã giúp thu nhập nông nghiệp của các hộ thành viên tăng trung bình 14% nhờ việc giảm giá vật tư, phân bón đầu vào và tăng giá bán đầu ra các sản phẩm nông nghiệp. Nếu trong các hợp tác xã hoạt động hiệu quả thì tỷ lệ này lên tới 20%. Ở nhiều địa phương, hợp tác xã đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn phục vụ chế biến, xuất khẩu.
Thực tiễn cho thấy, hợp tác xã là giải pháp tốt nhất để khắc phục tình trạng sản xuất manh mún nhỏ lẻ, tập trung nguồn lực, đặc biệt tập trung đất đai để sản xuất lớn. Trong xây dựng nông thôn mới, hợp tác xã đóng vai trò nòng cốt trong việc thực hiện các mô hình sản xuất theo quy hoạch; thực hiện tiêu chí nâng cao thu nhập cho nông dân. Hiện nay, liên kết sản xuất, phát triển hợp tác xã là một trong 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới(1). Cả nước có 7.015 xã đạt tiêu chí số 13 về tổ chức sản xuất hợp tác xã, bằng 78,5% số xã cả nước; xây dựng được 21.000 mô hình liên kết chuỗi giá trị ở các xã đạt chuẩn nông thôn mới(2).
(1) Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020.
(2) Ban Chỉ đạo Đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã (14/10/2019), Báo cáo Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002.
Qua 15 năm triển khai Nghị quyết số 13-NQ/TW, hợp tác xã nông nghiệp đã có sự phát triển cả về lượng và chất. Mô hình hoạt động của hợp tác xã đa dạng, đáp ứng được yêu cầu của sản xuất nông nghiệp và thị trường. Tiềm năng, nội lực được cải thiện, nhất là trình độ quản lý, khoa học công nghệ; đảm nhiệm được vai trò là động cơ, động lực thúc đẩy phát triển nông nghiệp hàng hóa, tái cơ cấu ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
b) Lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp
Hiện có tổng số 2.250 hợp tác xã, giảm 30% so với năm 2003(1). Trong đó, vùng Đồng bằng Sông Hồng và Trung du miền núi phía Bắc có số lượng hợp tác xã công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp cao nhất lần lượt là 487 hợp tác xã, 688 hợp tác xã. Các vùng Đông Nam Bộ (102 hợp tác xã) và Tây Nguyên (51 hợp tác xã) có số lượng hợp tác xã ít nhất. Tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm trong lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đạt khoảng 7,3%.
Trong thời gian qua, các hợp tác xã công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp thành lập tương đối đa dạng về ngành nghề khác nhau như: cơ khí, gia công cơ khí, chế biến gỗ gia dụng, mỹ nghệ, mây tre đan… Nhiều hợp tác xã đã phát huy tính năng động, sáng tạo, mạnh dạn đầu tư máy móc, thiết bị công nghệ cao, mở rộng quy mô hoạt động để tạo ra các mặt hàng xuất khẩu có giá trị. Quy mô hợp tác xã ngày càng lớn mạnh, xuất khẩu được nhiều sản phẩm sang thị trường khó tính như Nhật Bản, châu Âu… đặc biệt là các hợp tác xã tại các làng nghề như: Hợp tác xã Hưng Thịnh, Hợp tác xã Quang Minh, Hợp tác xã Mộc Bảo Minh…
c) Lĩnh vực thương mại, dịch vụ
Tại thời điểm 31/12/2018(2) có 1.944 hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, tăng 1.435 hợp tác xã so với thời điểm 31/12/2003, tốc độ tăng trưởng hằng năm của hợp tác xã thương mại, dịch vụ khoảng 9,4%. Có 05 liên hiệp hợp tác xã. Một số tỉnh, thành phố có hợp tác xã lớn như TP. Hà Nội có 227 hợp tác xã, Hải Dương có 110 hợp tác xã, TP. Hồ Chí Minh có 101 hợp tác xã. Tổng số lao động trong hợp tác xã là 150.000 người.
(1), (2) Ban Chỉ đạo Đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã (14/10/2019), Báo cáo Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002.
So với các lĩnh vực khác, hoạt động của các hợp tác xã trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có nhiều chuyển biến tích cực về số lượng cũng như chất lượng hoạt động. Hợp tác xã thương mại, dịch vụ có vai trò cung ứng vật tư nông nghiệp, công cụ sản xuất và hàng tiêu dùng thiết yếu cho thành thị, nông thôn; giúp nông dân tiêu thụ nông sản theo hướng đảm bảo lợi ích cho người sản xuất, hạn chế sự thao túng của thương nghiệp tư nhân; góp phần thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ tập trung các sản phẩm của thành viên(1).
(1) Liên hiệp Hợp tác xã Thương mại TP. Hồ Chí Minh - Saigon Co.op là mô hình kinh doanh theo chuỗi siêu thị và cung ứng hàng hóa cho các hợp tác xã thành viên, đã có mặt trên 40 tỉnh, thành phố của cả nước, vốn điều lệ 3.200 tỷ đồng, doanh thu năm 2018 đạt khoảng 27.500 tỷ đồng, là nhà bán lẻ hàng đầu Việt Nam.
d) Lĩnh vực dịch vụ điện
Quản lý và kinh doanh điện khu vực nông thôn chủ yếu là Tập đoàn Điện lực Việt Nam, hiện nay có một số tỉnh giao cho hợp tác xã có nhiệm vụ quản lý, vận hành, kinh doanh bán điện chiếm khoảng 2% trong tổng số hợp tác xã (khoảng 220 hợp tác xã). Trong giai đoạn này, các hợp tác xã ngành điện dần bị thu hẹp lại và được bàn giao cho ngành điện quản lý do ngành điện đánh giá năng lực quản lý và tài chính không đáp ứng được nhu cầu đầu tư, cải tạo nâng cấp lưới điện nông thôn để nâng cao chất lượng, an toàn điện phục vụ đủ nhu cầu sản xuất và sinh hoạt cho các hộ dân.
đ) Lĩnh vực xây dựng
Trong những năm qua, các hợp tác xã ngành xây dựng ngày càng có nhiều đổi mới và phát triển ổn định hơn. Các hợp tác xã đã dần đổi mới, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã, là chỗ dựa vững chắc cho các thành viên.
Một số hợp tác xã đã mở rộng sản xuất, tạo thêm ngành nghề, phát triển kinh doanh tổng hợp, đầu tư trang thiết bị để nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, nhiều hợp tác xã đã nhanh chóng thích nghi với cơ chế thị trường, tạo sự liên kết, hợp tác cùng nhau và với các doanh nghiệp, tạo lợi thế cạnh tranh trong việc nhận thầu thi công công trình mang lại hiệu quả kinh tế cho xã viên, đóng góp quan trọng vào phát triển các công trình kết cấu hạ tầng tại địa phương.
Tính đến thời điểm 31/12/2018(1), số hợp tác xã lĩnh vực xây dựng là 948 hợp tác xã, tăng 574 hợp tác xã so với thời điểm
01/7/2003, 01 liên hiệp hợp tác xã, thu hút 25.180 người, tăng 11.748 người so với thời điểm 31/12/2003; doanh thu của hợp tác xã tại thời điểm 31/12/2018 là 4.750,2 tỷ đồng, tăng 3.839 tỷ đồng so với thời điểm 31/12/2003; thu nhập bình quân của một thành viên, lao động của hợp tác xã tăng 37 triệu đồng/năm so với thời điểm 31/12/2003 (năm 2018 là 45 triệu đồng/năm).
Các hợp tác xã xây dựng chủ yếu tập trung huy động vốn đầu tư vào máy móc trang thiết bị, tham gia đấu thầu các công trình quy mô vừa và nhỏ, gắn với việc triển khai các chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Các hợp tác xã đã huy động được đội ngũ cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ, đảm bảo chất lượng công trình, tạo được uy tín với khách hàng.
e) Lĩnh vực giao thông vận tải
Tính đến 31/12/2018(2), cả nước có 1.095 hợp tác xã vận tải và 01 liên hiệp hợp tác xã; thu hút 42.264 người, trong đó số lượng thành viên mới tham gia vào hợp tác xã 15.951 người, số lao động làm việc trong khu vực hợp tác xã là 29.119 lao động; doanh thu bình quân một hợp tác xã tính tới thời điểm 31/12/2018 là 1.020 triệu đồng/năm; lãi bình quân đạt 103 triệu đồng/năm; thu nhập của một lao động thường xuyên trong hợp tác xã là 45 triệu đồng/năm tính đến thời điểm 31/12/2018; số lượng cán bộ quản lý hợp tác xã là 1.769 người, trong đó số lượng cán bộ đạt từ đại học trở lên là 896 người.
(1),(2) Ban Chỉ đạo Đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã (14/10/2019), Báo cáo Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002.
Lĩnh vực hoạt động của hợp tác xã vận tải tương đối đa dạng, bao gồm: kinh doanh vận tải đường bộ, hàng hải, đường thủy nội địa. Phần lớn các hợp tác xã vận tải chỉ hoạt động dịch vụ cho thành viên, phương tiện vận tải thuộc sở hữu của thành viên và thành viên tự quản lý, sử dụng. Dịch vụ do hợp tác xã cung ứng cho thành viên bao gồm: thực hiện các thủ tục pháp lý theo quy định của cơ quan nhà nước đối với phương tiện vận tải; làm giấy phép kinh doanh hộ cá thể cho thành viên; giới thiệu đăng kiểm, địa lý; bán bảo hiểm xe cơ giới. Một số hợp tác xã thực hiện phương pháp quản lý tập trung, phương tiện vận tải thuộc sở hữu của hợp tác xã, những thành viên tham gia vào làm lao động, lái xe, quản lý và các vị trí khác trong hợp tác xã.
Trong thời gian qua, các hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực giao thông vận tải ngày càng phát triển ổn định và có hiệu quả. Phần lớn các hợp tác xã đều thực hiện tốt các quy định của pháp luật về an toàn giao thông, phục vụ tốt cho hành khách đi lại. Một số hợp tác xã kinh doanh vận tải đường bộ với số lượng phương tiện lớn, quy mô tổ chức bài bản, khoa học, công tác điều hành tập trung, xây dựng và duy trì thương hiệu vận tải như: Hợp tác xã Xe khách Liên tỉnh Du lịch và Dịch vụ Thống Nhất, Hợp tác xã Vận tải số 9 (TP. Hồ Chí Minh); Hợp tác xã Quyết Thắng (Đắk Lắk); Hợp tác xã Ô tô Vận tải Số 1 Đà Nẵng; Hợp tác xã Cổ phần Dịch vụ Kinh doanh Vận tải Hành khách Nghệ An; Hợp tác xã Vận tải Hợp Lực (Thanh Hóa); Hợp tác xã Vận tải Nội Bài (Hà Nội); Hợp tác xã Vận tải Hàng hóa Đường bộ Hải Phòng; Hợp tác xã Vận tải Lâm Hà (Lâm Đồng)…
f) Lĩnh vực tín dụng
Trong thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tăng cường phối hợp với các bộ, ngành, địa phương trong việc xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển hợp tác xã tín dụng. Các hợp tác xã tín dụng (Quỹ Tín dụng nhân dân) được đánh giá là loại hình hợp tác xã có quy mô và hoạt động ổn định, phát triển nhất trong các loại hình hợp tác xã. Nhiều quỹ hoạt động có quy mô lớn, tiếp tục duy trì được tỷ lệ tăng trưởng cao thông qua các chỉ tiêu hoạt động ổn định và hiệu quả.
Tính đến 31/12/2018(1), cả nước có 1.183 Quỹ Tín dụng nhân dân, hoạt động trên 57/63 tỉnh, thành phố với gần 1,6 triệu thành viên, tăng 50,4% so với thời điểm 31/12/2003. Dư nợ cho vay của các Quỹ Tín dụng nhân dân đã tăng dần qua các năm, từ 4.049.627 triệu đồng năm 2003 lên đến 90.483.193 triệu đồng năm 2018 (gấp 22,3 lần).
(1) Ban Chỉ đạo Đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã (14/10/2019), Báo cáo Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002.
Trong thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục tập trung vào việc củng cố, chấn chỉnh hoạt động của các quỹ tín dụng nhân dân, qua đó những yếu kém từng bước được khắc phục, quy mô và chất lượng hoạt động có sự tăng trưởng bền vững. Các quỹ tín dụng nhân dân đã được củng cố, phát triển tương đối nhanh, hiệu quả và đảm bảo tính liên kết hệ thống cao, bảo đảm an toàn trong hoạt động, quy mô hoạt động của các quỹ tín dụng nhân dân ngày càng tăng trưởng tương đối khá và ổn định; các quỹ tín dụng nhân dân rất quan tâm kiểm soát tốt nợ xấu, tỷ lệ nợ xấu thấp, chỉ tiêu chất lượng tín dụng nhìn chung ở mức an toàn, khoảng 1% dư nợ tín dụng; các quỹ tín dụng nhân dân hằng năm đều quan tâm tăng vốn điều lệ nhằm đảm bảo việc chấp hành các tỷ lệ an toàn và nâng cao năng lực tài chính của đơn vị; chất lượng, trình độ của đội ngũ cán bộ chủ chốt tại các quỹ tín dụng nhân dân cơ bản đã đáp ứng tiêu chuẩn quy định.
Hiện nay, Quỹ Tín dụng nhân dân là một trong những mô hình hợp tác xã hoạt động ổn định, có hiệu quả nhất trong các loại hình hợp tác xã. Hệ thống quỹ tín dụng nhân dân từng bước khẳng định được vị thế của mô hình kinh tế hợp tác xã kiểu mới trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng. Cơ cấu nguồn vốn và dư nợ cho vay ngày càng được cải thiện, hợp lý, chất lượng tín dụng được kiểm soát, hướng tới chủ yếu phục vụ nhu cầu vốn tại địa bàn xã, bảo đảm an toàn trong hoạt động. Năng lực tài chính không ngừng được nâng cao. Tất cả các quỹ tín dụng nhân dân đều đảm bảo vốn điều lệ tối thiểu bằng mức vốn pháp định 100 triệu đồng, trong đó hầu hết các quỹ tín dụng nhân dân đều có vốn điều lệ cao gấp nhiều lần mức vốn pháp định.
g) Lĩnh vực khác
Trong những năm vừa qua, một số mô hình hợp tác xã kinh doanh ngành nghề mới như: vệ sinh môi trường, nước sạch, y tế, dịch vụ trường học đã được thành lập tại một số địa phương đang ngày càng chứng tỏ được vai trò của mình, nhất là ở khu vực nông thôn, nơi chưa có các công ty vệ sinh môi trường, góp phần đáng kể vào công cuộc bảo vệ môi trường, phát triển bền vững cũng như nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân tại các khu vực này. Tính đến 31/12/2018, cả nước có 488 hợp tác xã dịch vụ môi trường, trong đó có 154 hợp tác xã chuyên về môi trường (cung cấp nước sạch, thu gom và xả lý rác thải); còn lại là các hợp tác xã có tham gia một số hoạt động vệ sinh môi trường(1). Những địa phương có hợp tác xã dịch vụ môi trường phát triển mạnh là Hà Tĩnh (171 hợp tác xã, chiếm 35% tổng số hợp tác xã môi trường); Vĩnh Phúc (64 hợp tác xã, chiếm 13,1%)… Ngoài việc tham gia bảo vệ môi trường, các hợp tác xã này còn góp phần tạo việc làm, thu nhập cho hàng chục nghìn lao động, chủ yếu là lao động nghèo.
(1) Ban Chỉ đạo Đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã (14/10/2019), Báo cáo Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002.
Bên cạnh các hợp tác xã dịch vụ môi trường, trong thời gian qua đã xuất hiện mô hình hợp tác xã kinh doanh khai thác và quản lý chợ với hai hình thức chủ yếu là hợp tác xã đứng ra huy động vốn thành viên để đầu tư xây dựng, quản lý chợ và hình thức Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, huyện giao cho hợp tác xã quản lý chợ do Nhà nước đầu tư hoặc hỗ trợ đầu tư; mô hình hợp tác xã nhà ở, hợp tác xã quản lý và cung cấp dịch vụ nhà ở…
1.3.3.6. Các hợp tác xã tham gia xây dựng nông thôn mới có điều kiện bứt phá, vươn lên trở thành những “bà đỡ” thực sự của các hộ nông dân
Qua khảo sát của nhóm tác giả tại một số hợp tác xã trên địa bàn xã đã được công nhận “xã đạt chuẩn nông thôn mới” theo Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020 cho thấy các chính sách hỗ trợ, khuyến khích đối với hợp tác xã nói chung và hợp tác xã nông nghiệp nói riêng đã hỗ trợ thêm cho hợp tác xã nâng cao hiệu quả hoạt động, đặc biệt là các dịch vụ cung ứng cho thành viên có chất lượng hơn, ngày càng đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh ngày càng cao của các hộ thành viên.
Tại tỉnh Hưng Yên, xã Xuân Quan, huyện Văn Giang đã được công nhận “xã đạt chuẩn nông thôn mới”, trên địa bàn xã có Hợp tác xã Dịch vụ Nông nghiệp Xuân Quan là một điển hình. Hợp tác xã tham gia thực hiện các mục tiêu của chương trình xây dựng nông thôn mới với các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, hợp tác xã vừa nâng cao năng lực cung ứng dịch vụ cho thành viên, vừa nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã, cụ thể:
- Về tiêu chí điện: Bằng nguồn vốn góp của thành viên, hợp tác xã đã đầu tư xây dựng và vận hành an toàn 9 trạm biến áp tổng công suất 3600 KVA và hơn 25.000 m đường dây tải điện cao thế, trung thế và hạ thế, đồng bộ cùng hệ thống cột điện các loại đi kèm. Ngoài đảm bảo nhu cầu sử dụng điện sinh hoạt cho mọi người dân trong xã 24/24 giờ, còn đáp ứng kịp thời nhu cầu điện sản xuất cho các hộ nông dân canh tác trên đồng ruộng.
- Về tiêu chí chợ: Bằng nguồn vốn tự có, kết hợp với nguồn kinh phí đầu tư từ địa phương, hợp tác xã đã xây mới được một chợ đạt chuẩn nông thôn mới, tạo điều kiện cho các hộ thành viên của hợp tác xã bán sản phẩm tại chợ; góp phần giải tỏa được các tụ điểm bán hàng rong, lều quán, chợ tạm rải rác khắp các thôn. Thúc đẩy các hoạt động thương mại của xã ngày càng phát triển sầm uất và năng động.
- Về tiêu chí môi trường: Hợp tác xã đã đứng ra đầu tư và khai thác dịch vụ thu gom xử lý rác thải sinh hoạt nông thôn. Giúp bộ mặt làng quê luôn sạch sẽ theo chuẩn tiêu chí môi trường nông thôn mới.
- Về tiêu chí hình thức tổ chức sản xuất: Mỗi năm hợp tác xã mở được 2 - 3 lớp tập huấn chuyển giao công nghệ mới trong chăn nuôi, trồng trọt cho nông dân. Tiến hành nạo vét, trục vớt bèo bòng khơi thông dòng chảy được trên 20.000 m3 gạch, đất, rau bèo trên các kênh mương nội đồng. Đảm bảo tưới, tiêu kịp thời cho trên 200 ha đất canh tác của địa phương. Nhờ có điện lưới kéo ra khắp cánh đồng, mà các xã viên trong hợp tác xã mới quyết định đầu tư làm nhà màng, nhà lưới chuyên canh hoa dân dụng, hoa cao cấp các loại, đạt hiệu quả vượt trội ngoài sự trông đợi của người dân, đã được cả nước biết đến.
Hợp tác xã Dịch vụ Nông nghiệp Xuân Quan đã góp phần quan trọng vào hoàn thành tiêu chí nông thôn mới và khai thác hiệu quả nhiều loại hình dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn, doanh thu của hợp tác xã luôn đạt cao, năm sau hơn năm trước. Giai đoạn 2010 - 2014, trung bình mỗi năm hợp tác xã có doanh thu 7 - 8 tỷ đồng. Lợi nhuận trước thuế ước đạt 12 - 15%. Trong năm 2016 doanh thu hơn 12 tỷ đồng, nộp ngân sách 547 triệu đồng. Năm 2017, hợp tác xã đạt doanh thu 15 tỷ đồng. Ngoài đóng đủ nghĩa vụ thuế cho nhà nước, hằng năm Hợp tác xã Dịch vụ Nông nghiệp Xuân Quan còn dành ra 35 - 40 triệu đồng ủng hộ các quỹ an sinh xã hội của xã như quỹ đền ơn đáp nghĩa, quỹ phòng chống thiên tai bão lụt, quỹ người nghèo...
Tại tỉnh Thái Bình, xã Độc Lập, huyện Hưng Hà đã được công nhận “xã đạt chuẩn nông thôn mới” năm 2014. Trên địa bàn xã có Hợp tác xã Dịch vụ Nông nghiệp Độc Lập là điển hình. Những năm trước đây, hợp tác xã chỉ chủ yếu cung ứng được một số dịch vụ cơ bản như thủy lợi, bảo vệ thực vật, diệt chuột… Nhưng sau khi được tham gia xây dựng nông thôn mới, Hợp tác xã đã tổ chức thực hiện thêm 6 khâu dịch vụ, gồm: chuyển giao khoa học - kỹ thuật; sản xuất mạ khay - cấy máy; làm đất; thu hoạch; thú y và tiêu thụ được một số sản phẩm cho thành viên. Tổng tài sản của hợp tác xã là 16,17 tỷ đồng; doanh thu của hợp tác xã năm 2016 đạt 2,1 tỷ đồng; thu nhập của hợp tác xã đạt 122,994 triệu đồng. Thu nhập của thành viên tăng khoảng 15% so với năm 2015…
Tại tỉnh Bắc Giang, xã Tân Dĩnh, huyện Lạng Giang là địa phương đi đầu làm thí điểm trong xây dựng nông thôn mới. Để tham gia xây dựng nông thôn mới, dưới sự vận động của chính quyền địa phương, 4 hợp tác xã trên địa bàn xã Tân Dĩnh đã hợp nhất lại với nhau thành Hợp tác xã Dịch vụ Nông nghiệp Tân Dĩnh, hoạt động trong phạm vi toàn xã. Hiện Hợp tác xã có 2.800 thành viên. Hằng năm, Hợp tác xã đảm bảo cung ứng đủ các dịch cụ thiết yếu cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ thành viên, như: thủy lợi nội đồng, hướng dẫn, chuyển giao khoa học - kỹ thuật, cung ứng vật tư nông nghiệp, dịch vụ bảo vệ thực vật, tín dụng nội bộ, nước sạch nông thôn, vệ sinh môi trường, quản lý chợ nông thôn, thu mua, tiêu thụ sản phẩm cho thành viên… để các hộ thành viên phát triển sản xuất kinh doanh, tạo thêm việc làm và tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp an toàn, chất lượng phù hợp với yêu cầu của thị trường.
Tại TP. Hà Nội, đi đầu trong phát huy vai trò hợp tác xã trong xây dựng nông thôn mới phải kể đến Hợp tác xã Nông nghiệp An Mỹ, huyện Mỹ Đức. Chính quyền xã An Mỹ đã linh hoạt trong chỉ đạo, tạo mọi điều kiện thuận lợi để Hợp tác xã Nông nghiệp An Mỹ đầu tư, hoạt động có hiệu quả trong các lĩnh vực: điện, thủy lợi, cung cấp giống cây trồng và các dịch vụ khác hỗ trợ thành viên phát triển sản xuất kinh doanh, tạo thêm nhiều việc làm và cơ cấu lại ngành nông nghiệp trên địa bàn xã An Mỹ theo chỉ đạo của Đảng ủy, chính quyền địa phương. Do có sự đa dạng trong hoạt động của Hợp tác xã Nông nghiệp An Mỹ cho nên trải qua bốn lần dồn điền đổi thửa, đến nay hầu hết ruộng đất canh tác của xã An Mỹ đã trở thành những cánh đồng lớn có thể áp dụng khoa học - kỹ thuật vào trong sản xuất, đời sống của người dân được nâng lên đáng kể, nhất là bộ mặt nông thôn đã có những khởi sắc, tạo điều kiện tốt để xã An Mỹ cán đích đủ 19 tiêu chí trong xây dựng nông thôn mới. Hợp tác xã Nông nghiệp Bình Yên (huyện Thạch Thất) mở rộng thêm ngành nghề xây dựng nhà cửa, giao thông thủy lợi nội đồng, xây lắp điện hạ thế; Hợp tác xã Nông nghiệp Quất Động (huyện Thường Tín) mở rộng thêm dịch vụ làm đất, cung ứng vật tư nông nghiệp... Các hợp tác xã nông nghiệp ở các xã xây dựng nông thôn mới trên địa bàn TP. Hà Nội đã và đang giúp các hộ thành viên và cộng đồng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần tích cực vào giảm tỷ lệ hộ nghèo, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương, hoàn thành tốt các tiêu chí xã đạt chuẩn nông thôn mới theo quy định của Chính phủ.
1.4. NHỮNG HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN
1.4.1. Những hạn chế
1.4.1.1. Số lượng hợp tác xã tăng chậm, chất lượng thấp, đóng góp vào GDP còn hạn chế
Sau 5 năm thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2012, số hợp tác xã thành lập mới là 11.191 hợp tác xã, nhưng số hợp tác xã giải thể là 5.973(1) hợp tác xã. Bình quân, mỗi năm cả nước thành lập được 2.238 hợp tác xã; giải thể 1.194 hợp tác xã. Trong nông nghiệp, mỗi năm có khoảng 1.800 hợp tác xã nông nghiệp thành lập mới, nhưng lại có khoảng 1.400 hợp tác xã nông nghiệp giải thể. Thực tế số lượng hợp tác xã nông nghiệp tăng lên mỗi năm chỉ khoảng 400 hợp tác xã. Số lượng hợp tác xã ngừng hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng, hình thức nhưng chưa được xử lý dứt điểm còn khá nhiều. Tại thời điểm 31/12/2018, cả nước còn 3.200 hợp tác xã phải tổ chức lại hoạt động, đăng ký lại theo Luật Hợp tác xã năm 2012, nhưng chưa hoàn thành theo Luật định. Nhiều hợp tác xã tiến hành tổ chức lại hoạt động hoặc chuyển đổi theo quy định của Luật Hợp tác xã năm 2012 là để đáp ứng về mặt thời gian mà chưa thực sự hiểu đầy đủ mục đích của việc tổ chức lại hoạt động của hợp tác xã là phải thay đổi, tổ chức lại bộ máy quản lý, điều hành, phương thức hoạt động; thay đổi cơ cấu dịch vụ cung cấp cho thành viên. Tuy nhiên, trên thực tế, cho đến nay vẫn chưa có điều kiện thẩm tra, làm rõ có bao nhiêu hợp tác xã thành lập và hoạt động thật sự đúng các nguyên tắc, bản chất hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã năm 2012.
(1) Báo cáo của 59 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương năm 2019.
Hiệu quả sản xuất, đóng góp của khu vực hợp tác xã vào GDP cả nước vẫn ở mức thấp, thậm chí là giảm sút so với những năm trước. Số liệu thống kê cho thấy, đóng góp của kinh tế tập thể vào GDP giảm dần qua các năm. Năm 1995 là 11%, năm 2010 là 3,99%(1); bình quân 15 năm (2003 - 2018) đạt khoảng 4%(2).
(1) Niên giám Thống kê năm 1996, 2010.
1.4.1.2. Phần lớn các hợp tác xã còn gặp nhiều khó khăn, quy mô nhỏ, vốn ít, thiếu sự liên kết, hiệu quả hoạt động thấp
Tại thời điểm 31/12/2018, bình quân 1 hợp tác xã có 262 thành viên; lao động làm việc thường xuyên trong hợp tác xã có khoảng 50 người/hợp tác xã. Doanh thu bình quân đạt 4,4 tỷ đồng/hợp tác xã; thu nhập bình quân 1 hợp tác xã đạt 240 triệu đồng/năm(3).
(2),(3) Ban Chỉ đạo Đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã (14/10/2019), Báo cáo Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002.
Riêng khu vực hợp tác xã nông nghiệp, theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tại thời điểm 31/12/2018, cả nước có 13.856 hợp tác xã nông nghiệp, thu hút hơn 7,3 triệu thành viên hợp tác xã, trong đó có khoảng gần 6,7 triệu hộ gia đình, cá nhân là thành viên hợp tác xã nông nghiệp, đạt tỷ lệ khoảng 45% trên tổng số hộ nông nghiệp, nông thôn; trung bình là 615 thành viên/hợp tác xã. Doanh thu bình quân 1 hợp tác xã nông nghiệp đạt khoảng 1,6 tỷ đồng/năm. Thu nhập bình quân 1 hợp tác xã nông nghiệp đạt khoảng 200 triệu đồng/năm; so với mặt bằng chung của nền kinh tế là thấp. Năm 2018, cả nước có 55% hợp tác xã nông nghiệp được phân loại khá, tốt.
Về vốn góp của thành viên hợp tác xã: Các hợp tác xã sau khi tổ chức lại, thành viên đều có góp vốn, tuy nhiên lượng vốn góp không nhiều, có nơi mỗi thành viên chỉ góp vốn 10.000 đồng, do vậy, nguồn vốn hoạt động của hợp tác xã vẫn còn rất hạn chế. Nhiều hợp tác xã chỉ góp vốn tượng trưng hoặc lấy chính giá trị tài sản chung của hợp tác xã chia cho tổng số thành viên hiện có của hợp tác xã để làm thành số vốn tối thiểu của thành viên. Thiếu vốn cũng là khó khăn chung của các hợp tác xã thủy sản. Khi các thành viên nuôi cá không đủ vốn cho chính mình thì rất khó hy vọng họ góp vốn nhiều cho hợp tác xã. Vốn chủ sở hữu chủ yếu của các hợp tác xã là tài sản cố định đã sử dụng lâu năm như nhà xưởng, mương máng, trạm bơm, máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp khác nhưng cũng đã xuống cấp, lạc hậu.
Các hợp tác xã khó tiếp cận được nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các hợp tác xã nông nghiệp, do không có tài sản thế chấp, hoạt động sản xuất, kinh doanh rủi ro, sổ sách kế toán chưa minh bạch và chưa xây dựng được phương án kinh doanh khả thi. Năm 2015, chỉ 0,67% hợp tác xã nông nghiệp được vay vốn tín dụng ngân hàng; 2,25% hợp tác xã nông nghiệp được tiếp cận Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã, 11% hợp tác xã có hoạt động tín dụng nội bộ, nhưng dự nợ trung bình rất nhỏ, chỉ khoảng 400 triệu đồng/ hợp tác xã(1).
(1) Khảo sát của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam năm 2016.
Nhiều hợp tác xã nông nghiệp chưa tổ chức được nhiều các loại hình dịch vụ phục vụ thành viên, đặc biệt còn yếu kém trong việc là cầu nối tiêu thụ sản phẩm nông sản cho thành viên. Một số hợp tác xã hoạt động chưa theo đúng các quy định của Luật Hợp tác xã năm 2012, phương án sản xuất, kinh doanh chưa phù hợp, không ít thành viên không sử dụng dịch vụ của hợp tác xã. Sau khi tổ chức lại hoạt động theo Luật Hợp tác xã năm 2012, nhiều hợp tác xã vẫn chưa thay đổi phương thức hoạt động, tư duy hoạt động còn nặng về hành chính, bao cấp theo phương thức hợp tác xã kiểu cũ. Đa số các hợp tác xã nông nghiệp hiện nay mới chỉ tập trung hoạt động đối với các dịch vụ đầu vào cho sản xuất nông nghiệp như cung ứng giống, vật tư, phân bón, bảo vệ thực vật, thủy lợi nội đồng... mà các dịch vụ khác quan trọng như: bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm chưa được quan tâm. Số hợp tác xã tiêu thụ nông sản cho nông dân ít, hiện mới chỉ có khoảng 30% hợp tác xã nông nghiệp thực hiện bao tiêu một phần nông sản cho thành viên và nông dân(1). Các hợp tác xã còn chậm đổi mới, đầu tư nâng cấp trang thiết bị máy móc, chất lượng sản phẩm chưa cao, thị trường tiêu thụ sản phẩm còn gặp nhiều khó khăn, hiệu quả hoạt động còn hạn chế.
(1) 63 Liên minh Hợp tác xã tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Báo cáo Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002.
Tuy đã hình thành được một số liên hiệp hợp tác xã, nhưng quy mô nhỏ, liên kết nội tại còn hạn chế, hiệu quả hoạt động chưa cao, hỗ trợ cho các hợp tác xã thành viên còn ít. Thiếu liên kết giữa các hợp tác xã, giữa hợp tác xã với doanh nghiệp trong tổ chức sản xuất hàng hóa nông sản theo chuỗi giá trị. Các tổ chức khoa học và công nghệ, dịch vụ hỗ trợ hợp tác xã hoạt động kém hiệu quả, chậm phát triển, vẫn chủ yếu dựa vào Liên minh Hợp tác xã tỉnh, thành phố, tổ chức khuyến nông và Hội Nông dân ở các địa phương.
Việc tiêu thụ sản phẩm cho các thành viên hợp tác xã vẫn còn nhiều khó khăn, hợp tác xã chưa tìm được đầu ra cho sản phẩm; chất lượng sản phẩm thành viên không ổn định hoặc chưa tuân thủ đúng quy trình sản xuất, gây khó khăn cho việc tiêu thụ sản phẩm. Mặt khác, liên kết giữa hợp tác xã với doanh nghiệp trong tiêu thụ sản phẩm cho các hộ thành viên đã có chuyển biến, khởi sắc, tuy nhiên còn ở mức thấp và thiếu bền vững do cơ chế chính sách thiếu đồng bộ, chưa sát với yêu cầu thực tế, doanh nghiệp vẫn chưa mạnh dạn đầu tư vào nông nghiệp. Việc tiêu thụ sản phẩm cho thành viên hợp tác xã mới chỉ được một phần hoặc một hay một số loại sản phẩm.
1.4.1.3. Chưa có chính sách ưu đãi riêng đối với các hợp tác xã tham gia xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu nông nghiệp
Trong điều kiện sản xuất nông nghiệp của nước ta chủ yếu dựa trên sản xuất nông hộ nhỏ lẻ, nhu cầu hợp tác sản xuất theo chuỗi giá trị nông sản càng trở nên cấp thiết khi nước ta tham gia hội nhập quốc tế ngày càng sâu. Nhưng thực tế, hợp tác xã kiểu mới chậm phát triển, nhiều xã xây dựng nông thôn mới chưa có hợp tác xã hoạt động thực sự hiệu quả. Hợp tác xã nông nghiệp mới tập hợp được 3.769.964 thành viên(1) (khoảng 43% số hộ nông nghiệp cả nước) tham gia hợp tác xã, trong khi ở Nhật Bản và Hàn Quốc gần như 100% số hộ nông dân tham gia hợp tác xã nông nghiệp. Đóng góp của hợp tác xã vào Chương trình xây dựng nông thôn mới chưa đáng kể cả về nâng cao thu nhập cho hộ nông dân và tham gia vận động người dân thực hiện xây dựng nông thôn mới; đối với việc cơ cấu lại ngành nông nghiệp hình như mới bắt đầu.
(1) Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Báo cáo Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002.
1.4.2. Nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất, nhận thức về vai trò, bản chất của hợp tác xã kiểu mới thiếu thống nhất
Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002 Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể đã chỉ rõ: “Nhận thức về vị trí, vai trò tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế tập thể chưa thống nhất; việc tuyên truyền chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế tập thể và việc giải thích mô hình hợp tác xã kiểu mới chưa được quan tâm đúng mức”. Hơn 15 năm trôi qua, nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền về chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã vẫn còn chưa thống nhất và chưa đúng; chưa hiểu rõ về bản chất, những giá trị, nguyên tắc của tổ chức hợp tác xã; chưa thấy hết được vai trò, vị trí quan trọng của kinh tế tập thể, hợp tác xã trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; một số nơi, các cấp ủy đảng, chính quyền buông lỏng, không quan tâm chỉ đạo, tạo điều kiện cho kinh tế tập thể, hợp tác xã phát triển hoặc can thiệp sâu vào hoạt động của hợp tác xã, nhất là công tác cán bộ. Vẫn còn cán bộ, đảng viên và người dân chưa hiểu đầy đủ về bản chất hợp tác xã, chưa thật sự tin tưởng vào xu hướng phát triển hợp tác xã. Trong đánh giá còn thiên về hiệu quả kinh tế, chỉ tiêu số lượng mà chưa đánh giá lợi ích về chính trị, an sinh và giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường(1).
(1) Ban Chỉ đạo Đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã (14/10/2019), Báo cáo Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002.
Thứ hai, việc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện một số cơ chế, chính sách còn chậm, thiếu đồng bộ
Việc chuyển tiếp, đăng ký lại hợp tác xã còn chậm là do hệ thống văn bản chưa đồng bộ, các văn bản hướng dẫn Luật Hợp tác xã năm 2012 ban hành chậm; các Nghị định và Thông tư hướng dẫn Luật chưa cụ thể, rõ ràng khiến cho các hợp tác xã lúng túng trong việc chuyển tiếp và đăng ký lại hợp tác xã theo Luật. Một số quy định pháp luật chưa phù hợp với thực tiễn hoạt động của hợp tác xã như: tỷ lệ cung ứng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã cho thành viên và ra thị trường bên ngoài cộng đồng thành viên; địa bàn hoạt động của các Quỹ Tín dụng nhân dân; thủ tục thành lập, giải thể, tiếp nhận chính sách hỗ trợ của hợp tác xã còn gây nhiều khó khăn, phức tạp, khó thực hiện.
Thứ ba, chính sách hỗ trợ, ưu đãi đối với hợp tác xã khó tiếp cận, hiệu quả thấp
Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã và Quyết định số 2261/QĐ-TTg ngày 15/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã giai đoạn 2015 - 2020 đã tập trung vào một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với khu vực hợp tác xã nói chung và hợp tác xã nông nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, số lượng chính sách được ban hành nhiều nhưng còn chồng chéo, khó áp dụng. Một số chính sách được ban hành nhưng thiếu nguồn lực để thực hiện.
Thứ tư, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực của phần lớn cán bộ quản lý, điều hành hợp tác xã trong nông nghiệp, nông thôn còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế
Nhìn chung đội ngũ cán bộ quản lý, điều hành của các hợp tác xã nông nghiệp còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Đa số lao động làm việc trong các hợp tác xã nông nghiệp có trình độ văn hóa từ trung học cơ sở trở xuống, tỷ lệ lao động tốt nghiệp trung học phổ thông rất thấp, cán bộ có trình độ đại học chỉ chiếm 8,5%, cao đẳng 7,7%, trung cấp 33,8%, chưa qua đào tạo khoảng 50%. Do đó, nhiều hợp tác xã còn lúng túng, vướng mắc trong việc tổ chức, quản lý, điều hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh theo cơ chế thị trường(1).
(1) Khảo sát của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam năm 2016.
Thứ năm, công tác quản lý Nhà nước đối với hợp tác xã thiếu thống nhất, năng lực quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu
Bộ máy quản lý Nhà nước về kinh tế tập thể, hợp tác xã ở cấp Trung ương còn phân tán, chưa tập trung.
- Ở Trung ương: Tại thời điểm 31/12/2018 mới chỉ có Bộ Kế hoạch và Đầu tư có Cục Phát triển Hợp tác xã và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn chuyên trách thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế tập thể, hợp tác xã. Các bộ, ngành khác không thành lập tổ chức chuyên trách, mà giao cho đơn vị thuộc cơ cấu công tác của Bộ thực hiện kiêm nhiệm và chỉ có một số cán bộ kiêm nhiệm theo dõi, nên việc thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ được giao tại Nghị định số 193/2013/ NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ còn nhiều hạn chế. Ngày 22/3/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 352/ QĐ-TTg thành lập Ban Chỉ đạo Đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã.
- Ở các tỉnh, thành phố: Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố chỉ đạo thành lập, kiện toàn Ban Chỉ đạo Đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã với thành viên là đại diện lãnh đạo một số ngành liên quan để thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về kinh tế tập thể. Đa số Ủy ban nhân dân các cấp chưa tổ chức được bộ máy quản lý nhà nước tại cấp mình theo yêu cầu mà đa phần chỉ bố trí một cán bộ chuyên trách (hoặc kiêm nhiệm) theo dõi về kinh tế tập thể. Thực tế các địa phương đều dựa vào Liên minh Hợp tác xã tỉnh, thành phố là chính. Một số tỉnh cho phép Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành lập Chi cục Hợp tác xã và Phát triển nông thôn trực thuộc Sở để tham mưu thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế tập thể, hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn nhưng thực tế chỉ có số ít cán bộ được phân công theo dõi về kinh tế tập thể, hợp tác xã. Các sở, ngành còn lại không có các phòng nghiệp vụ mà chỉ bố trí cán bộ kiêm nhiệm làm công tác kinh tế tập thể.
- Ở cấp huyện, Phòng Tài chính - Kế hoạch là cơ quan chuyên môn giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế tập thể. Tuy nhiên, đa phần mới chỉ bố trí được cán bộ kiêm nhiệm thực hiện chức năng này. Đối với lĩnh vực quan trọng như nông nghiệp, theo Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nhiều địa phương cũng mới bố trí được cán bộ kiêm nhiệm theo dõi tình hình các hợp tác xã nông nghiệp ở cấp huyện, rất ít nơi bố trí được cán bộ chuyên trách theo dõi.
Bộ máy cán bộ quản lý nhà nước về hợp tác xã còn thiếu và yếu, đa phần là cán bộ kiêm nhiệm nên gặp nhiều khó khăn trong việc tích lũy kiến thức chuyên ngành về hợp tác xã; hệ thống số liệu cơ bản về hợp tác xã chưa đầy đủ và chính xác, độ tin cậy chưa cao nên hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về kinh tế tập thể nhìn chung còn yếu và nhiều bất cập. Mặt khác, do thiếu cán bộ chuyên trách nên việc phối hợp hoạt động giữa các cơ quan quản lý nhà nước về hợp tác xã còn rời rạc. Quy định cụ thể về quy chế phối hợp về quản lý nhà nước đối với kinh tế tập thể, hợp tác xã giữa các ngành, địa phương chưa có, do đó, phối hợp giữa các ngành, các cấp trong việc hướng dẫn, tuyên truyền và triển khai thực hiện Luật Hợp tác xã, các văn bản dưới Luật, những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với hợp tác xã chưa chặt chẽ, dẫn đến hiện tượng hiểu sai, vận dụng không đúng, hạn chế tiềm năng phát triển hợp tác xã.
Công tác kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2012 chưa được triển khai thường xuyên, chưa kịp thời phát hiện những khó khăn, vướng mắc của hợp tác xã để hướng dẫn giải quyết hoặc kiến nghị các cấp, ngành có thẩm quyền giải quyết; sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các tổ chức đoàn thể xã hội, nhân dân trong việc kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm trong quá trình hoạt động của các hợp tác xã còn hạn chế.
Thứ sáu, chưa có chính sách đặc thù áp dụng cho các hợp tác xã tham gia xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu nông nghiệp
Qua tập hợp và nghiên cứu các chính sách của Đảng, Nhà nước đã ban hành, tác giả nhận thấy chưa có văn bản nào quy định riêng cho hợp tác xã tham gia xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu nông nghiệp, mà chỉ có lồng ghép vào các chương trình dự án nhất định. Do vậy, chưa đáp ứng được các yêu cầu của hợp tác xã cần hỗ trợ để vừa tham gia xây dựng nông thôn mới, vừa tham gia cơ cấu lại ngành nông nghiệp thành công. Đây là một trong những nhiệm vụ rất khó đối với các hợp tác xã tham gia xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu nông nghiệp, rất cần có chính sách hỗ trợ riêng, mang tính đặc thù.
Thứ bảy, nợ đọng của các hợp tác xã chưa được xử lý dứt điểm
Trong giai đoạn 2003 - 2018, vẫn còn tình trạng các hợp tác xã ngưng hoạt động, chưa giải thể do còn nợ đọng không giải quyết được. Giai đoạn 2003 - 2012, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, các ngân hàng thương mại đã xóa nợ khoảng 568,4 tỷ đồng (nợ gốc 362,4 tỷ đồng, nợ lãi 106 tỷ đồng) cho khu vực hợp tác xã; trong đó xóa nợ 168,4 tỷ đồng cho hợp tác xã nông nghiệp; góp phần lành mạnh hóa tài chính giúp hợp tác xã hoạt động.
Tính đến cuối năm 2018, có tới gần 3.200 hợp tác xã ngừng hoạt động nhưng vẫn còn nợ số tiền thuế khê đọng và không có khả năng thu hồi là gần 319 tỷ đồng(1). Hiện nay, Bộ Tài chính đang tổng hợp và báo cáo Chính phủ xem xét trình Quốc hội để sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý thuế, đồng thời xây dựng Nghị quyết về xử lý nợ đọng thuế đối với các khoản nợ thuế không còn khả năng nộp ngân sách nhà nước.
(1) Bộ Tài chính, Báo cáo Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ-TW ngày 18/3/2002.
1.5. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1.5.1. Tình hình phát triển hợp tác xã trên thế giới
Theo Liên minh Hợp tác xã quốc tế (International Cooperative Alliance - ICA), tại thời điểm cuối năm 2017, trên thế giới có gần 3 triệu hợp tác xã, thu hút 1,2 tỷ thành viên từ 156 quốc gia và vùng lãnh thổ, tạo ra doanh thu hằng năm trên 3 nghìn tỷ đô la và tạo việc làm ổn định cho trên 280 triệu người. Liên hợp quốc chính thức thông qua chương trình hợp tác xã nhằm hoàn thành 17 mục tiêu toàn cầu về phát triển bền vững tới năm 2030; góp phần hoàn thành “Chương trình nghị sự phát triển bền vững đến năm 2030” về hợp tác xã là sẽ có 2 tỷ thành viên, 4 triệu hợp tác xã, doanh thu của hợp tác xã sẽ chiếm 20% tổng doanh thu toàn cầu.
Trong đó ở châu Âu có gần 290 nghìn hợp tác xã với 140 triệu thành viên và khoảng 4,9 triệu người lao động; Mỹ có gần 50 nghìn hợp tác xã với khoảng 150 triệu thành viên. Canada, Đức, Pháp, Đan Mạch, Hà Lan, Phần Lan, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan… là những nước có phong trào hợp tác xã phát triển rất sớm và mạnh mẽ. Hợp tác xã nông nghiệp hiện nay đã và đang là một bộ phận của phong trào hợp tác xã nói riêng của các nước này, cũng như trên phạm vi toàn thế giới nói chung. Khu vực hợp tác xã nói chung, hợp tác xã nông nghiệp nói riêng ở mỗi nước đều có những sứ mệnh nhất định, nhất là trong phát triển ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mỗi nước. Do đó, Chính phủ các nước trên thế giới đều có những chính sách hỗ trợ đối với các hợp tác xã nông nghiệp.
1.5.2. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về phát triển hợp tác xã nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu nông nghiệp
Nhiều nước trên thế giới rất quan tâm ban hành khung pháp luật, chính sách hỗ trợ phát triển hợp tác xã nói chung và hợp tác xã nông nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, mỗi nước đều có hoàn cảnh, điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, do đó chính sách đối với khu vực hợp tác xã cũng khác nhau. Đối với hợp tác xã gắn với xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu nông nghiệp cũng không là ngoại lệ, nhưng qua những kinh nghiệm của các nước đều cho chúng ta những bài học quý báu.
1.5.2.1. Tại Canada(1)
(1) Nguồn: www.mpi.gov.vn
Hợp tác xã Tín dụng được thành lập vào năm 1900 tại bang Québec, sau đó đến năm 1910, các hợp tác xã nông nghiệp được hình thành; đến những năm 1930 các hợp tác xã hoạt động trong các lĩnh vực khác từng bước được hình thành và phát triển cho đến ngày nay. Tính đến cuối năm 2010, Canada có khoảng 9.000 hợp tác xã, tạo việc làm thường xuyên cho khoảng 165.000 người. Riêng tại bang Québec có 3.300 hợp tác xã hoạt động ở hầu hết các ngành, lĩnh vực từ tín dụng, thương mại, dịch vụ, bảo hiểm đến nông nghiệp, thu hút khoảng 8,8 triệu thành viên.
Tên gọi tổ chức hợp tác xã ở Canada cũng là điều chúng ta quan tâm. Hiện nay, Canada có các loại hình hợp tác xã mà tên gọi của nó cũng khác với các nước trên thế giới, theo Cục Phát triển Hợp tác xã - Bộ Kế hoạch và Đầu tư tạm gọi là các nhóm hợp tác xã chủ yếu như:
- Nhóm thứ nhất là các hợp tác xã của người sản xuất: Được hình thành và phát triển chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp. Sáng lập viên chủ yếu là các chủ hộ nông dân sản xuất nông nghiệp. Nhưng trong quá trình hình thành và phát triển, các hợp tác xã trong nhóm này cũng chia ra thành nhiều hợp tác xã chuyên như: hợp tác xã tiêu thụ nông sản; hợp tác xã cung ứng vật tư, máy móc nông nghiệp; hợp tác xã sản xuất: chuyên chế biến nông sản, sản xuất thức ăn gia súc, sản xuất máy móc, nông cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp; sản xuất giống cây, con và các hợp tác xã thủy sản cũng được xếp vào nhóm này.
- Nhóm thứ hai là các hợp tác xã của người tiêu dùng, trong đó phổ biến là hợp tác xã dịch vụ tổng hợp, sau đó là các hợp tác xã chuyên cung ứng dịch vụ cho học sinh, sinh viên tại các trường học và các hợp tác xã dịch vụ nhà ở cũng được xếp trong nhóm này.
- Nhóm thứ ba là các hợp tác xã của người lao động, phần lớn được thành lập tại bang Québec. Tính đến cuối năm 2007, Québec có 345 hợp tác xã của người lao động, thu hút 12.876 lao động là xã viên. Các hợp tác xã này do những người làm việc trong lĩnh vực lâm nghiệp thành lập để mua cổ phần của các công ty kinh doanh sản phẩm lâm nghiệp, sau khi mua cổ phần sẽ có đại diện trong hội đồng quản trị công ty trực tiếp tham gia quản lý, điều hành công ty đó, nhằm bảo vệ quyền lợi của người trồng rừng là chính.
- Nhóm thứ tư là hợp tác xã tài chính: Các hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tài chính, tín dụng được tổ chức theo hai cấp: cấp cơ sở và cấp liên hiệp. Ở cấp cơ sở chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm tương hỗ.
- Nhóm thứ năm là các hợp tác xã hoạt động trong các lĩnh vực khác như: hợp tác xã phát triển cộng đồng, hợp tác xã đoàn kết (chủ yếu cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại nhà và các dịch vụ y tế cho xã viên); hợp tác xã dịch vụ tang lễ; hợp tác xã cung cấp nước sinh hoạt; hợp tác xã dịch vụ điện; hợp tác xã dịch vụ khí đốt; hợp tác xã vận tải; hợp tác xã truyền thông...
Tất cả các hợp tác xã ở Canada có vai trò rất quan trọng trong xây dựng, phát triển nông thôn hiện đại. Chính phủ Canada có nhiều chính sách hỗ trợ hợp tác xã nông nghiệp gắn với nông thôn, nhưng chủ yếu giao cho các bang tự ban hành như: Bang Québec có quỹ đầu tư phát triển hợp tác xã tiến hành cho vay trực tiếp và bảo lãnh theo dự án đầu tư đối với hợp tác xã; đào tạo nguồn nhân lực cho hợp tác xã được vào các trường đại học, cao đẳng. Trường đại học Sherbrooke tại Bang có Viện Nghiên cứu hợp tác xã, cơ sở vật chất và kinh phí đào tạo thạc sĩ về hợp tác xã tại Viện do Chính phủ tài trợ. Chính phủ Bang còn giảm thuế đối với hợp tác xã. Bang Québec có đạo luật riêng về hỗ trợ hợp tác xã và các tổ chức phi lợi nhuận, bao gồm các trợ giúp tài chính như: bảo lãnh chi trả một phần hoặc toàn bộ các cam kết tài chính; bảo lãnh toàn bộ hoặc mua lại một phần cổ phần ưu đãi; cho vay có lãi suất thấp hoặc không có lãi suất; miễn một phần chi trả khoản vay... Các ưu đãi, hỗ trợ này được Chính phủ thực hiện trực tiếp đối với hợp tác xã.
1.5.2.2. Tại Hàn Quốc(1)
(1) Nguồn: www.hoinongdan.org.vn
Các hợp tác xã tại Hàn Quốc chủ yếu được hình thành và hoạt động trong ba lĩnh vực chính gồm: nông nghiệp, nghề cá và tài chính, tín dụng. Các hợp tác xã cơ sở của ba lĩnh vực này thành lập liên hiệp hợp tác xã của mình từ cấp cơ sở đến cấp quốc gia và hoạt động tương đối độc lập với nhau.
- Các hợp tác xã nông nghiệp: Hợp tác xã nông nghiệp đầu tiên ở Hàn Quốc được thành lập vào năm 1958, sau một năm Luật Hợp tác xã nông nghiệp Hàn Quốc được ban hành. Tính đến cuối năm 2017, Hàn Quốc có 1.196 hợp tác xã nông nghiệp, thu hút 2.400.000 hộ nông dân trên toàn quốc (tuyệt đại đa số hộ nông dân Hàn Quốc tham gia hợp tác xã nông nghiệp). Các hợp tác xã nông nghiệp thực hiện các dịch vụ phục vụ cho các hộ xã viên sản xuất nông nghiệp có nhu cầu. Hệ thống tổ chức ngành dọc của các hợp tác xã nông nghiệp Hàn Quốc được hình thành ở 2 cấp gồm cấp vùng (cơ sở) và cấp Trung ương.
- Ở cấp Trung ương là Liên đoàn quốc gia Hợp tác xã nông nghiệp Hàn Quốc (National Agricultural Cooperative Federation - NACF).
- Ở cấp vùng được nhóm thành 2 loại:
+ Nhóm 1 gồm các hợp tác xã do những người sản xuất nông nghiệp thành lập và hợp tác xã do những người chăn nuôi thành lập.
+ Nhóm 2 gồm những hợp tác xã chuyên ngành như chuyên trồng hoa, rau, quả, sâm... Các hợp tác xã này cung cấp chủ yếu các dịch vụ cho các hộ thành viên, gồm: cung ứng nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm; dịch vụ chăm sóc; dịch vụ tín dụng và bảo hiểm; dịch vụ tư vấn và hỗ trợ ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ.
Liên đoàn quốc gia Hợp tác xã nông nghiệp Hàn Quốc cung cấp các dịch vụ như: thực hiện tất cả các dịch vụ liên quan đến việc cung ứng vật tư, trang thiết bị máy móc, công cụ cho sản xuất nông nghiệp và tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp của các hợp tác xã cơ sở làm ra trong phạm vi toàn quốc; hỗ trợ các hộ chăn nuôi khi gặp khó khăn; điều tiết và cung cấp các dịch vụ tài chính, tín dụng cho các thành viên, dịch vụ bảo hiểm các loại; khuyến nông... nhằm giúp các thành viên nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm nông nghiệp và an toàn cho người tiêu dùng. Với phương thức như vậy, các hợp tác xã nông nghiệp Hàn Quốc rất hấp dẫn người nông dân tham gia. Đồng thời, các sản phẩm nông nghiệp được điều hành theo cung - cầu của thị trường toàn quốc, do vậy góp phần làm giảm thiểu rủi ro cho nông dân. Các hình thức tranh mua, tranh bán, ép giá nông dân hầu như không xảy ra tại Hàn Quốc.
- Trong lĩnh vực tín dụng: Hàn Quốc có 1.579 hợp tác xã tín dụng (gọi là Hợp tác xã Tín dụng Cộng đồng) và có 3.104 chi nhánh trên phạm vi toàn quốc với 6.141 máy giao dịch tự động (Cash Deposit Machine - CDM, Automated Teller Machine - ATM), tạo việc làm thường xuyên cho 31.593 lao động, phục vụ cho khoảng 7,9 triệu thành viên, khách hàng. Tổ chức của hệ thống Hợp tác xã Tín dụng Cộng đồng Hàn Quốc cũng được tổ chức thành 2 cấp: cấp cơ sở và cấp quốc gia. Ở cấp quốc gia là Liên đoàn các Hợp tác xã Tín dụng Cộng đồng Hàn Quốc (Korean Federation of Community Credit Cooperatives - KFCC). Theo Luật Hợp tác xã Tín dụng Cộng đồng Hàn Quốc, tất cả các hợp tác xã tín dụng cộng đồng đều phải là thành viên của KFCC. KFCC có trách nhiệm giám sát các hoạt động của các thành viên; tư vấn giúp các hợp tác xã tín dụng cộng đồng kinh doanh hiệu quả; cung cấp tín dụng ủy thác cho các hợp tác xã thành viên; tổ chức các loại bảo hiểm; tổ chức các hoạt động giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho các thành viên...
- Trong lĩnh vực nghề cá: Hệ thống tổ chức của các hợp tác xã nghề cá Hàn Quốc được tổ chức tương đối khép kín: từ hậu cần, đánh bắt, chế biến, tiêu thụ trong phạm vi vùng và toàn quốc. Các dịch vụ thiết yếu như: tài chính, tín dụng, hỗ trợ đánh bắt, chế biến, quảng bá, tiêu thụ, đào tạo, giáo dục, bảo hiểm... đều do Liên đoàn quốc gia Hợp tác xã Nghề cá (National Fishery Federation Coopertives - NFFC) tổ chức thực hiện.
Có thể nói, Hàn Quốc là quốc gia có nền nông nghiệp phát triển dựa trên công nghệ. Hiện nay, Chính phủ Hàn Quốc tập trung các chính sách nông nghiệp theo hướng áp dụng nền kinh tế sáng tạo vào nông nghiệp và thực phẩm để tăng giá trị gia tăng trong các ngành này; thiếp lập mạng lưới xã hội an toàn, vững chắc về thu nhập và quản lý trang trại; thúc đẩy phúc lợi để làm cho nông thôn trở thành khu vực có điều kiện sống tốt; thiết lập một cơ cấu phân phối đáp ứng cả người tiêu dùng và nhà sản xuất; cung cấp các sản phẩm nông nghiệp và chăn nuôi an toàn.
Chính phủ rất coi trọng phát triển nông nghiệp, chăm lo đời sống cho cư dân nông thôn thông qua hàng loại các chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân phát triển sản xuất kinh doanh, cải thiện điều kiện sống, yên tâm sinh sống ở nông thôn.
- Về chính sách đất đai: Chính phủ Hàn Quốc khuyến khích và tạo điều kiện sử dụng tối đa quỹ đất hiện có, đồng thời đảm bảo duy trì sự màu mỡ của đất và nguyên tắc “người cày có ruộng”. Đất đai thuộc sở hữu tư nhân. Chủ sở hữu đất nông nghiệp bắt buộc phải sử dụng đất cho sản xuất nông nghiệp, không được để hoang hóa quá một năm. Người sở hữu đất không sản xuất nông nghiệp nhưng vẫn muốn sở hữu có thể ủy thác ngân hàng đất đai cho thuê. Khi ủy quyền cho thuê, chủ sở hữu đất sẽ được miễn các loại thuế có liên quan. Hàn Quốc bỏ hạn điền đất nông nghiệp từ năm 1999 để tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất. Tuy nhiên, diện tích đất canh tác hiện nay cũng chỉ ở mức 1,54 ha/hộ.
Nhà nước có chính sách đền bù thỏa đáng cho nông dân khi thu hồi đất. Việc đền bù được thực hiện theo hai phương thức:
+ Thứ nhất, Nhà nước và người nông dân thỏa thuận với nhau về mức giá đền bù theo giá thị trường.
+ Thứ hai, nếu hai bên không thống nhất được mức giá đền bù sẽ có hai đơn vị thẩm định giá độc lập. Giá đền bù là mức trung bình của hai mức giá do hai đơn vị thẩm định đưa ra, nhưng về nguyên tắc phải bằng hoặc cao hơn giá thị trường. Ngoài tiền đền bù đất đai, nông dân còn nhận tiền đền bù thiệt hại hoa màu trong 02 năm, tiền vận chuyển hoa màu đi nơi khác và tiền trồng lại hoa màu, được giảm thuế lợi tức chuyển nhượng từ 20 - 50% nếu mua đất ở nơi khác phục vụ sản xuất nông nghiệp, được học nghề miễn phí để chuyển nghề.
- Về chính sách tín dụng: Nhà nước hỗ trợ từ 30% - 100% cho nông dân ứng dụng công nghệ mới, công nghệ thông tin, năng lượng tái tạo trong nông nghiệp, triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng chợ nông sản, sản xuất nông nghiệp bền vững, thân thiện với môi trường… Hỗ trợ 100% kinh phí xây dựng hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, bình ổn giá cho nông dân, khảo sát, nghiên cứu, dự báo, cung cấp thông tin thị trường 35 loại nông sản cho nông dân. Ngoài khoản hỗ trợ, Nhà nước cho nông dân vay vốn với lãi suất ưu đãi từ 0% - 2,0%, mức cao nhất cũng chỉ bằng 50% lãi suất cho vay thương mại. Nông dân có thể vay vốn ưu đãi tới 70%, thậm chí 100% vốn đầu tư ứng dụng công nghệ cao, mua máy móc, thiết bị sản xuất nông nghiệp, làm nhà kính, xây dựng cơ sở bảo quản sản phẩm.
- Về chính sách khoa học công nghệ: Công tác nghiên cứu và phát triển, nhất là nghiên cứu cải tiến, tạo giống mới, công nghệ mới phục vụ sản xuất, chế biến và bảo quản nông sản được đặc biệt coi trọng. Hàn Quốc có 240 cơ sở nghiên cứu khoa học là các viện, trung tâm. Chính phủ đầu tư khoảng 1 tỷ đô la/năm cho công tác nghiên cứu, phát triển, chiếm khoảng 8,7% ngân sách đầu tư cho nông nghiệp. Đối với mặt hàng chủ lực như lúa, đậu, đỗ, cà chua, táo, lê… Nhà nước đặt hàng các cơ sở nghiên cứu chọn tạo, sản xuất các giống có năng suất, chất lượng cao phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng để cung cấp cho nông dân. Các cán bộ nghiên cứu, khuyến nông được phân công phụ trách tư vấn trực tiếp từng nhóm nông dân giúp cho nông dân giải quyết kịp thời các khó khăn trong sản xuất. Nhờ áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, năng suất cây trồng tăng vượt bậc, chỉ với 900.000 ha đất lúa, Hàn Quốc sản xuất đủ lương thực đáp ứng nhu cầu của gần 52 triệu dân và xuất khẩu, năng suất cà chua đạt 250 tấn/ha…
- Về chính sách đối với nông nghiệp: Nhà nước đầu tư tới 6% GDP cho phát triển nông nghiệp, mặc dù nông nghiệp chỉ đóng góp khoảng 2% GDP. Đầu tư xây dựng các chợ đầu mối ở các địa điểm thuận lợi cho giao dịch hàng hóa nông sản. Nông dân bán hàng tại chợ đầu mối thông qua đấu giá. Giá sản phẩm của nông dân được xác định thông qua đấu giá sẽ được công khai trên Internet để mọi người tham khảo. Người mua có thể mua trực tiếp từ người sản xuất tại ruộng nhưng phải trả mức giá cao hơn so với mức giá được xác định thông qua đấu giá. Cách làm này giúp người nông dân không phải lo khâu bán hàng, chỉ tập trung vào sản xuất sản phẩm với năng suất, chất lượng cao, không bị tư thương thông đồng ép giá, người tiêu dùng mua được hàng với giá cả hợp lý, khắc phục được tình trạng được mùa, rớt giá, đồng thời kích thích được cả sản xuất và tiêu dùng.
Chính phủ có Quỹ bình ổn giá các mặt hàng chiến lược đảm bảo thu nhập cho nông dân và lợi ích của người tiêu dùng. Bù giá cho nông dân khi giá thị trường thấp hơn giá Chính phủ đảm bảo hoặc hỗ trợ nông dân khi Chính phủ yêu cầu nông dân giảm quy mô sản xuất. Tăng cường đầu tư công nghệ, hỗ trợ xây dựng các cơ sở bảo quản, chế biến nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm. Kiểm soát chặt chẽ vật tư nông nghiệp, chất lượng sản phẩm nông nghiệp thông qua áp dụng các quy chuẩn chất lượng cao, hệ thống truy xuất nguồn gốc, chế tài xử phạt nghiêm khắc, công khai thông tin các đơn vị, cá nhân vi phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Về chính sách đối với nông dân: Chính phủ miễn cho nông dân thuế xăng, dầu, cầu, đường; hỗ trợ tiền xăng, dầu phục vụ sản xuất, vận chuyển hàng hóa, tiền thuê máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất, kinh phí cải tạo đất, phân bón cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ, chi phí lắp đặt nhà kính, thiết bị phòng cháy… Nông dân được Nhà nước hỗ trợ 80% phí bảo hiểm nông nghiệp, 50% bảo hiểm hưu trí và được hưởng chế độ hưu khi đến tuổi 65, được hỗ trợ tới 90% kinh phí sản xuất và phân phối giống mới chất lượng cao nếu hợp tác với nhau, không phải đóng góp tiền xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn.
Hàn Quốc đã đạt được những thành tựu vượt bậc trong nông nghiệp, nhưng vẫn còn những hạn chế cần phải tiếp tục giải quyết như quy mô sản xuất nhỏ lẻ, sản xuất lúa gạo dư thừa dẫn đến đang phải điều chỉnh chính sách hỗ trợ để khuyến khích chuyển sang cây trồng khác có hiệu quả kinh tế cao hơn, dân số làm nông nghiệp đang giảm dần và bị già hóa nhanh chóng với 98% nông dân trên 60 tuổi… Chính phủ Hàn Quốc đã và đang nỗ lực đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn để người dân nông thôn được tiếp cận với các tiện ích như ở thành phố.
1.5.2.3. Tại Nhật Bản(1)
(1) Nguồn: www.tapchicongsan.org.vn
Hợp tác xã ở Nhật Bản được đánh giá là một trong những nước có phong trào hợp tác xã hoạt động hiệu quả nhất thế giới. Năm 2006, Liên minh Hợp tác xã Quốc tế khảo sát, đánh giá, tập hợp và chọn ra 300 hợp tác xã lớn nhất thế giới với các tiêu chí cơ bản như doanh thu và tổng tài sản... Trong danh sách đó, Nhật Bản có Liên hiệp Hợp tác xã Nông nghiệp Quốc gia Nhật Bản (JA ZenNoh) đứng thứ nhất với doanh thu đạt 53.898 triệu đô la, Liên đoàn Hợp tác xã Nông nghiệp Quốc gia Nhật Bản (JA Zenkyoren) đứng thứ hai với doanh thu là 46.680 triệu đô la và Ngân hàng Trung ương Hợp tác xã Nông - Lâm - Ngư nghiệp Nhật Bản (JA Norinchikin) đứng thứ 20 với doanh thu đạt 10.043 triệu đô la...
Trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp thì hầu như 100% hộ gia đình hoạt động trong các lĩnh vực này đều tham gia vào hợp tác xã. Có hộ gia đình tham gia vào nhiều hợp tác xã khác nhau như hợp tác xã tiêu thụ, hợp tác xã dược, hợp tác xã y tế, hợp tác xã bảo hiểm... bởi vì hợp tác xã ở Nhật Bản đáp ứng gần như đầy đủ các nhu cầu chung của thành viên, kể từ lúc con người sinh ra, lớn lên, đi học, đi làm, khi ốm đau, nghỉ dưỡng, lấy vợ, gả chồng, nghỉ hưu và đến khi chết đều được hợp tác xã chăm lo chu đáo. Các hợp tác xã ở Nhật Bản thường có nhiều thành viên, hoạt động trong phạm vi khá rộng (có thể trên phạm vi toàn tỉnh)...
Trong lĩnh vực nông nghiệp chỉ có 851 hợp tác xã, thu hút 9,6 triệu thành viên; Liên đoàn Cung tiêu các Hợp tác xã Nông nghiệp Nhật Bản có tới 10.382 cán bộ, nhân viên làm việc trong 249 công ty, chi nhánh, trung tâm, đơn vị trực thuộc. Ngân hàng Hợp tác xã Trung ương các Hợp tác xã Nông - Lâm - Ngư nghiệp Nhật Bản có tổng tài sản lên tới 603,227 triệu đô la, doanh thu năm 2004 đạt 10.643 triệu đô la...
Nghiên cứu lịch sử phát triển hợp tác xã ở Nhật Bản có thể cho chúng ta rất nhiều kinh nghiệm. Nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nghề cá. Các hợp tác xã nông nghiệp của Nhật Bản được hình thành ở hầu hết các làng, xã, thị trấn, thành phố. Hợp tác xã nông nghiệp của Nhật Bản làm rất tốt hai khâu cơ bản là dịch vụ “đầu vào” và “đầu ra”, hỗ trợ kinh tế hộ thành viên phát triển (điều mà các hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam đang lúng túng); 90% lúa gạo, trên 50% rau, quả, sữa tươi... của các hộ thành viên được tiêu thụ thông qua hợp tác xã. Các hợp tác xã nông nghiệp Nhật Bản được hình thành theo 3 cấp gồm: các hợp tác xã nông nghiệp cơ sở, các liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp cấp địa phương và liên đoàn quốc gia hợp tác xã nông nghiệp. Tổ chức và hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp Nhật Bản khá đa dạng nhưng chủ yếu hoạt động dưới hai dạng:
- Dạng thứ nhất là hợp tác xã đa chức năng: Hợp tác xã đáp ứng tất cả các nhu cầu của thành viên, từ cung cấp nguyên vật liệu, trang thiết bị, marketing cho các sản phẩm, nhận tiền gửi, cho vay tín dụng, đầu tư vốn, dịch vụ bảo hiểm các loại... đến hướng dẫn, hỗ trợ thành viên phát triển sản xuất, kinh doanh.
- Dạng thứ hai là hợp tác xã nông nghiệp đơn chức (chuyên ngành), hoạt động trong một lĩnh vực cụ thể như chăn nuôi, chế biến sữa... Quy mô hợp tác xã nông nghiệp ở Nhật Bản thường lớn, thành viên đông, góp nhiều vốn, hệ thống liên hiệp hợp tác xã làm tốt liên kết kinh tế giữa các thành viên nên có nhiều thuận lợi trong triển khai các hoạt động kinh doanh, dịch vụ.
Một số chính sách của Chính phủ Nhật Bản đối với nông dân:
- Thứ nhất, chính sách hỗ trợ nông dân sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản thực hiện cải cách ruộng đất triệt để. Mọi nông dân đều được chia ruộng đất, nhưng đa phần họ sở hữu ít ruộng, thửa nhỏ. Hoạt động sản xuất khá manh mún, dựa vào sức lao động là chính, khó áp dụng máy móc, khoa học kỹ thuật. Vì thế, Chính phủ Nhật Bản tạo điều kiện để nông dân sản xuất giỏi để có thể tích lũy ruộng đất, phát triển quy mô sản xuất, trở thành nông dân chuyên nghiệp sản xuất hàng hóa lớn. Thông qua tổ chức hợp tác, trang bị cho họ kỹ năng sản xuất, quản lý nông hộ, năng lực tiếp thu khoa học - công nghệ và nắm bắt các yêu cầu của thị trường. Tầng lớp nông dân nhỏ ở Nhật Bản cạnh tranh thành công trên thị trường là nhờ kinh tế hợp tác rất phát triển. Hiện các hợp tác xã nông nghiệp ở Nhật Bản có vai trò lớn, thu hút và hỗ trợ hiệu quả hơn 3 triệu hộ nông dân. Gần như 100% nông dân ở Nhật Bản là hội viên nông hội và xã viên hợp tác xã. Hệ thống hợp tác xã và nông hội được tổ chức theo nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện, bình đẳng và dân chủ ra quyết định. Hội đồng quản trị từ cơ sở đến Trung ương đều do xã viên bầu, Giám đốc điều hành do hội đồng tuyển và ký hợp đồng. Các cấp quản lý có trách nhiệm thực hiện đúng nhiệm vụ được nông dân ủy thác, bảo vệ và phản ánh quyền lợi của nhân dân. Hợp tác xã là người cung cấp chính các dịch vụ thiết yếu cho nông dân như: tín dụng, bảo hiểm rủi ro, khuyến nông, chuyển giao công nghệ, tiêu thụ sản phẩm, sử dụng tập thể các máy móc thiết bị. Đến nay, hợp tác xã đã mở rộng ra các lĩnh vực phúc lợi xã hội như điều trị y tế, giáo dục, văn hóa, cải thiện điều kiện sống, du lịch và đặc biệt là thương mại. Các tổ tư vấn nông nghiệp trong mỗi hợp tác xã làm cầu nối với các cơ quan nông nghiệp, các trạm nghiên cứu, cán bộ thú y và các nhóm nghiên cứu khoa học khác. Năm 1997, Nhật Bản có khoảng 16.869 tổ tư vấn nông nghiệp trong các hợp tác xã. Đây cũng là thị trường lớn thu hút cán bộ kỹ thuật, kỹ sư về công tác ở nông thôn.
Ở Nhật Bản hiện nay, tỷ lệ dân nông thôn chỉ còn gần 5% dân số nhưng vẫn đảm bảo số phiếu bầu theo địa bàn bầu cử (không căn cứ theo tỷ lệ dân cư) và cho phép một lá phiếu nông thôn có giá trị bằng 3 lá phiếu thành thị trong bầu cử Hạ nghị viện, 6 lá phiếu với bầu cử Thượng nghị viện. Vì vậy các quyết định quan trọng về đầu tư kết cấu hạ tầng, chính sách thương mại... đều không thể coi nhẹ quyền lợi của người dân nông thôn.
- Thứ hai, chính sách hỗ trợ nông nghiệp Nhật Bản coi an ninh lương thực là mục tiêu số một nên ngành nông nghiệp được bảo hộ rất cao và được khuyến khích theo kiểu tự cung tự cấp thông qua việc hạn chế nhập khẩu một cách tối đa. Điều đó dẫn tới mức giá nông phẩm cao và khuyến khích sản xuất trong nước. Nhà nước can dự rất sâu trong kiểm soát việc cung cấp và ấn định các mức giá cho một số loại hàng hóa nông phẩm ở thị trường nội địa.
- Thứ ba, chính sách “ly nông bất ly hương”: Hai nhóm chính sách chính là phát triển doanh nghiệp nông thôn và đưa công nghiệp lớn về nông thôn để tạo sự gắn bó hài hòa phát triển nông thôn với phát triển công nghiệp, xóa bỏ khoảng cách về mức sống giữa đô thị và nông thôn.
- Thứ tư, phát triển cộng đồng nông thôn qua các tổ chức hợp tác xã: Các hợp tác xã và tổ chức kinh tế hợp tác dịch vụ nông nghiệp đã đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc đưa công nghiệp về nông thôn, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, cung ứng vật tư và tiêu thụ nông sản. Nhờ chính sách đưa công nghiệp về nông thôn, ngày nay ở Nhật Bản hầu như không còn vùng nông thôn thuần túy, kể cả vùng núi, vùng xa. Ranh giới giữa nông thôn và thành thị thật khó phân biệt cả về kinh tế, xã hội và đời sống. Quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đã cơ bản hoàn thành. Hợp tác xã nông nghiệp được xây dựng trên nền tảng làng, xã nông thôn Nhật Bản. Trong mỗi làng, xã, những mối quan hệ nhiều chiều đa dạng đã tồn tại từ rất lâu giữa các gia đình, giữa những người nông dân. Lợi dụng ưu điểm này, hợp tác xã nông nghiệp được xây dựng trên cơ sở cộng đồng nông thôn để tạo quan hệ cộng đồng mới vững chắc được bắt nguồn từ bên trong cộng đồng làng, xã. Do vậy, hợp tác xã cũng rất chú trọng đến các hoạt động mang tính cộng đồng để làm cho cuộc sống ở nông thôn tốt đẹp hơn.
1.5.2.4. Tại Thái Lan(1)
(1) Nguồn: www.vjol.infp.vn
Hợp tác xã đầu tiên ở Thái Lan được thành lập vào năm 1915, là hợp tác xã tín dụng với mục đích là hỗ trợ các hộ nông dân cải thiện cuộc sống. Từ năm 1916, từng bước các hợp tác xã khác mới được thành lập; năm 1938 hầu hết các tỉnh, thành phố của Thái Lan đã có hợp tác xã. Năm 1966, Chính phủ thành lập Ngân hàng Hợp tác xã phục vụ các hợp tác xã nông nghiệp và nông thôn. Đến năm 1968, Chính phủ Thái Lan ban hành Luật Hợp tác xã. Sau khi có Luật Hợp tác xã năm 1968, phong trào hợp tác xã bắt đầu khởi sắc hơn. Ngoài hợp tác xã tín dụng - tiết kiệm và hợp tác xã nông nghiệp, các hợp tác xã khác cũng đồng thời được thành lập như: hợp tác xã thuê đất, hợp tác xã thủy sản, hợp tác xã tiêu dùng, hợp tác xã dịch vụ... Khu vực hợp tác xã đến nay đã trở thành một trong những yếu tố quan trọng trong việc phát triển kinh tế chung của đất nước cũng như giữ vững ổn định xã hội tại Thái Lan.
Liên đoàn Hợp tác xã Quốc gia Thái Lan (Cooperative Language of Thailand - CLT) được thành lập theo Luật Hợp tác xã năm 1968. Liên đoàn Hợp tác xã Quốc gia Thái Lan là tổ chức hợp tác xã cấp quốc gia cao nhất thực hiện chức năng đại diện, hỗ trợ, giáo dục và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các hợp tác xã và xã viên theo Luật định vì mục tiêu phát triển phong trào hợp tác xã ở Thái Lan.
Theo Luật Hợp tác xã năm 1968, tất cả các loại hình hợp tác xã mọi cấp đều phải là thành viên của Liên đoàn Hợp tác xã Quốc gia Thái Lan. Hệ thống hợp tác xã Thái Lan được tổ chức theo nguyên tắc ngành dọc theo chuyên ngành như: hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã thủy sản, hợp tác xã tín dụng - tiết kiệm; hợp tác xã đất đai; hợp tác xã dịch vụ và hợp tác xã tiêu dùng.
Hệ thống hợp tác xã ở Thái Lan được chia làm 3 cấp:
- Các hợp tác xã cơ sở;
- Liên đoàn hợp tác xã cấp tỉnh, thành phố;
- Liên đoàn hợp tác xã quốc gia.
Các hợp tác xã nông nghiệp Thái Lan được thành lập để giúp những xã viên cùng nhau làm ăn, giúp đỡ lẫn nhau trong những lúc gặp khó khăn cũng như tạo cho họ có cuộc sống tốt đẹp hơn.
Thái Lan khuyến khích phát triển hợp tác xã ở tất cả các ngành, lĩnh vực nhưng ưu tiên vẫn là các hợp tác xã trong nông nghiệp. Năm 2015, Thái Lan có khoảng 6.500 hợp tác xã, trong đó có 3.370 hợp tác xã nông nghiệp với 4.789.493 xã viên (chiếm trên 50% tổng số hợp tác xã của cả nước).
Hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp vừa nhằm hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất, vừa góp phần hiện đại hóa nông thôn:
- Cung cấp vốn cho các thành viên để sản xuất cũng như các mục đích trợ giúp với lãi suất thích hợp.
- Khuyến khích tính tiết kiệm của thành viên thông qua việc gửi tiền tiết kiệm và tiền ký quỹ.
- Cung cấp các mặt hàng thiết yếu cho thành viên với giá cả hợp lý.
- Hỗ trợ các thành viên áp dụng các phương pháp sản xuất nông nghiệp tiên tiến, phổ biến các bí quyết kỹ thuật nhằm giúp xã viên giảm các chi phí sản xuất và tăng sản lượng. Với sự hỗ trợ của Chính phủ, các xã viên được biết đến các kỹ thuật trồng trọt tiên tiến, cách sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu. Một hình thức dịch vụ khác nữa là luôn sẵn có thiết bị nông nghiệp như máy kéo, bơm nước... cho các thành viên thuê với chi phí thấp nhất.
- Giúp thành viên tiêu thụ sản phẩm của họ với mức giá hợp lý bảo đảm được sự công bằng về cân đong, đo đếm.
Chính phủ Thái Lan có một số chính sách hỗ trợ hợp tác xã nông nghiệp như thông qua sự trợ giúp của Chính phủ, Ngân hàng nông nghiệp và hợp tác xã nông nghiệp, các tổ chức và các cơ quan cho vay khác, xã viên hợp tác xã nông nghiệp có thể vay vốn với lãi suất thấp và thời hạn ưu đãi thích hợp cho việc kinh doanh hoặc sản xuất của họ. Vốn vay được chia thành 3 loại: ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Với vốn vay đó, xã viên có thể mua giống, phân bón, thuốc trừ sâu, máy móc nông nghiệp, mua hoặc cải tạo đất… với lợi ích cao nhất. Với sự giúp đỡ của Chính phủ, một số hợp tác xã được phát triển thành các trung tâm tiếp thị các sản phẩm của xã viên, không chỉ ở trong nước mà còn ở nước ngoài. Chuối vàng không dùng thuốc trừ sâu hiện nay đang được xuất khẩu sang hợp tác xã tiêu dùng Toto ở Nhật Bản; việc này giúp tạo thu nhập trung bình là 30.900 baht/ năm cho mỗi hộ gia đình tham gia vào hoạt động này.
1.5.3. Bài học kinh nghiệm từ một số nước
Thứ nhất, tăng cường đầu tư và tích cực chuyển giao công nghệ, đào tạo và dạy nghề cho nông dân thông qua hợp tác xã nông nghiệp nhằm phát huy tài nguyên con người và áp dụng khoa học - công nghệ có hiệu quả. Đây là động lực chính cho tăng trưởng nông nghiệp tương lai, tạo ra bước đột phá về năng suất, chất lượng của nông sản; tăng khả năng cạnh tranh ở trong và ngoài nước.
Thứ hai, hỗ trợ phát triển thị trường cho hợp tác xã phải bao gồm trong nước và xuất khẩu: Hỗ trợ hợp tác xã mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu là 2 khâu phải kết hợp song cùng. Nhà nước cần hỗ trợ mạnh cho các hợp tác xã ở khâu thị trường để giúp các hợp tác xã nâng cao chất lượng hoạt động cung ứng dịch vụ cho thành viên như: cung ứng vật tư nông nghiệp, đào tạo, dạy nghề, cung cấp thông tin, hỗ trợ tài chính, điều kiện sinh hoạt, buôn bán xuất khẩu nông sản, bảo vệ lợi ích của người nông dân... Sự phát triển của các tổ chức hợp tác xã nông nghiệp đã giúp cho cộng đồng xã hội nông thôn phát triển hài hòa cả về kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường với điều kiện hợp tác xã thực sự hoạt động theo nguyên tắc tự lực, tự chịu trách nhiệm, quản lý dân chủ, hiệu quả hoạt động cao, có sự tương trợ lẫn nhau.
Thứ ba, hiện nay ruộng đất bình quân ở Việt Nam chỉ có 0,6 ha/hộ, vào loại thấp nhất thế giới. Nhiều hợp tác xã nông nghiệp đang thực hiện chính sách đồn điền, đổi thửa cho phép xử lý vấn đề đất đai manh mún để có “cánh đồng lớn” sản xuất hàng hóa đồng chất lượng với số lượng lớn để xuất khẩu sang các thị trường có nhu cầu lớn về số lượng như Mỹ, châu Âu… Nhưng cần thực hiện chính sách này từng bước một cách thận trọng và gắn với phân công lại lao động trong nông nghiệp, nông thôn trên cơ sở phát triển kinh tế hộ gia đình và khung pháp luật về đất đai được đổi mới.
Thứ tư, thực hiện liên kết, phát triển sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn với công nghiệp và phát triển đô thị nhằm thu hẹp khoảng cách giữa đô thị và nông thôn theo hướng đưa công nghiệp, kể cả công nghiệp nặng về phân tán ở nông thôn. Chính phủ có thể điều chỉnh kế hoạch mở rộng các đô thị lớn thành xây dựng nhiều thành phố vệ tinh nhỏ nằm ở nông thôn; đồng thời, cải thiện hệ thống giao thông để cư dân nông thôn và đô thị có thể di chuyển thuận lợi, các hợp tác xã có điều kiện phát triển để cung ứng các dịch vụ cho phát triển công nghiệp và nông nghiệp; tạo thêm nhiều việc làm cho nông dân, để họ có việc làm ổn định và thu nhập ngay trên quê hương mà không phải ra đô thị. Điều này vừa giúp tăng thu nhập cho cư dân nông thôn vừa giúp giảm áp lực người dân nông thôn đổ dồn vào thành thị.
Thứ năm, các chính sách về lao động, tiền lương, bảo hiểm… Đối với khu vực hợp tác xã, cũng cần được đổi mới để tương xứng với vai trò, vị trí và đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng của đất nước. Hiện tại là đang có độ chênh với khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thứ sáu, phải thống nhất nhận thức là phát triển hợp tác xã nói chung, hợp tác xã trên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn là xu thế tất yếu, khách quan của cơ chế thị trường. Do đó, chính sách hỗ trợ của Nhà nước phải trên quan điểm có lựa chọn, tập trung, hiệu quả, không dàn trải.
Nếu chúng ta có những chính sách phù hợp, tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả sẽ là đòn bẩy tích cực thúc đẩy phát triển hợp tác xã nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu nông nghiệp thành công hơn mong đợi.