Cuốn nhật ký do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia-Sự thật xuất bản cùng bản gốc viết tay của Trung tướng Nguyễn Tiến Bình và các hiện vật được trao tặng Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, tháng 2-2015.
Đó là một trong những dòng đầu tiên của cuốn nhật ký viết ở tuổi 20 của Trung tướng Nguyễn Tiến Bình (1950-2013), nguyên Chính ủy Học viện Quốc phòng, nguyên Chánh Văn phòng Tổng cục Chính trị viết sau một trận bom B-52 rải thảm trên đường hành quân vào chiến trường Đông Nam Bộ.
Ông bắt đầu ghi nhật ký từ tháng 1-1970 khi đơn vị ông rời căn cứ huấn luyện tại Thủy Nguyên, Hải Phòng lên đường ra trận.
Từ đó đến cuối năm 1975, gần 6 năm trọn vẹn chiến đấu ở giai đoạn ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chiến sĩ đặc công nước của Đoàn 367, Bộ Tham mưu Miền (B2) Nguyễn Tiến Bình đã tranh thủ “khoảng lặng giữa cuộc chiến” để ghi lại những nỗi niềm buồn vui, những trận đánh “xuất quỷ nhập thần” của người chiến sĩ đặc công nước... bằng văn phong giản dị, chân thật.
Đường ra trận
14 giờ ngày 24-1-1970, tạm xa quê hương yêu dấu, xa người thân, chàng trai trẻ Nguyễn Tiến Bình lên đường vào Nam đánh Mỹ. “Những đôi mắt đỏ quầng ứa lệ. Những lời nói nghẹn ngào nửa chừng... Chúng con sẽ nhớ mãi, sẽ là nguồn sức mạnh vĩ đại cho chúng con chiến đấu và chiến thắng. Chào tất cả, mai toàn thắng con sẽ về”. Và thế là người lính ấy chính thức bắt đầu những ngày tháng gian khổ mà vinh quang.
Trang nhật ký của Trung tướng Nguyễn Tiến Bình.
Vượt Trường Sơn, đi trên Đường 20-Quyết Thắng với dốc, rồi lại dốc và mây trắng trôi dưới chân, thấy Tổ quốc mình đẹp quá, Nguyễn Tiến Bình viết: “Mỗi vách đá, một thân cây đều còn hằn sâu những vết thương do bom đạn Mỹ. Nhưng cây vẫn xanh tươi, vách đá vẫn đứng sừng sững hiên ngang tô đẹp cảnh hùng vĩ của đất nước thân yêu, luôn che chở cho chúng tôi đi, cho bao đoàn quân đang ra tiền tuyến. Tất cả hiện thân cho sự sống dồi dào của sự dũng cảm, kiên cường và chiến thắng” (ngày 1-2-1970). Đường ra mặt trận nhiều gian nan. Phải chịu những cơn sốt rét rừng hành hạ, những trận đói cồn cào sau nhiều đêm phải di chuyển khẩn cấp khi biệt kích địch đổ quân hay là cơn thèm rau do chỉ được cấp gạo và muối, nhưng ai cũng dặn lòng: “Đất nước còn nhiều khó khăn, được hai thứ ấy là tốt lắm rồi. Đó là thử thách lớn đối với chúng mình. Anh em động viên nhau tích cực, cố gắng bảo đảm sức khỏe tới chiến trường 100% quân số” (ngày 6-2-1970).
Những người lính bất chấp trên trời máy bay Mỹ quần thảo liên tục, tìm mọi cách ngăn chặn con đường hòng giết hại họ về cả tinh thần lẫn thể xác “nhưng chẳng bao giờ chúng đạt được mục đích”. “Kệ thây chúng, những người lính vẫn trầm tĩnh, bình thản đi trên con đường của mình với niềm tin sắt đá thằng Mỹ hay là ông trời rồi cũng phải thua chúng ta thôi. Những chiến sĩ chân đạp đất, đầu đội trời, vai mang nặng nghĩa nước, tình nhà, lòng chồng chất bao niềm thương nhớ và cũng hằn sâu bao nỗi căm thù”.
Cuộc hành quân qua những vùng đất lạ và quen, Nguyễn Tiến Bình và những người bạn cùng trang lứa đã trải qua cuộc thử lửa đầu tiên. “Đau xót và căm giận, hôm qua giặc Mỹ ném bom xuống Trạm 10. Hơn 30 đồng chí thân yêu đã hy sinh trong giấc ngủ. Quân Mỹ dã man, chúng mày sẽ phải đền tội ác này. Đau thương tang tóc không làm cho chúng ta yếu hèn chùn bước tiến. Càng đau thương chồng chất, càng căm thù mãnh liệt, càng vững bước đi lên. Đánh cho chúng mày tan tác, phải chịu đầu hàng nhục nhã mới thôi” (ngày 12-2-1970)...
Trên chiến trường K
Tới chiến trường miền Đông Nam Bộ sau 3 tháng hành quân ròng rã, đơn vị Nguyễn Tiến Bình được bổ sung về ấp 5, Ba Tri-Đoàn Bến Tre (Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 5, Sư đoàn 5 của Miền), đối đầu giữa vòng vây trùng điệp của hai sư đoàn Mỹ. Ngày 6-5-1970, ông dốc bầu tâm sự: “Mình được điều về làm văn thư kiêm quân lực của tiểu đoàn, lại làm công tác bảo mật nữa. Mình chẳng ngại vất vả đâu nhưng điều mình day dứt là phải xa đơn vị chiến đấu. Ở cơ quan bộ tất nhiên cũng có lúc được chiến đấu nhưng không như những đồng chí của mình. Đem suy nghĩ và ước mơ của mình báo cáo cấp trên nhưng các đồng chí ấy chỉ cười và bảo sẽ nghiên cứu giải quyết sau. Nhưng yên tâm làm sao được khi bỗng dưng mình phải quay về phía sau. Mình coi đó là sự khắc nghiệt, tàn nhẫn đối với mình”. Dù vậy, xác định đây là yêu cầu của tổ chức, là nhiệm vụ của Đảng nên Nguyễn Tiến Bình “phải làm tròn công tác mới mẻ này đã” và tranh thủ viết nhật ký trong điều kiện “thật phức tạp”: “Chiến đấu và cơ động liên tục, vừa đánh và chuyển quân trong vòng vây của địch. Không để bị địch chụp gọn và tiêu diệt nhưng cũng không bỏ xa chúng”.
Cuốn nhật ký do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia-Sự thật xuất bản cùng bản gốc viết tay của Trung tướng Nguyễn Tiến Bình và các hiện vật được trao tặng Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, tháng 2-2015.
Nhưng chỉ một tháng sau, ngày 6-6-1970, những chiến sĩ đặc công nước trong đó có Nguyễn Tiến Bình được Bộ chỉ huy Miền lệnh rút khỏi đội hình Tiểu đoàn 5 về làm nhiệm vụ mới: “Chiến đấu trên đất Campuchia, mục tiêu là thành phố Phnom Penh, sào huyệt cuối cùng của bọn Lon Non-Sirik Matak để kiềm chế, phân tán, kìm chân địch, tạo điều kiện thuận lợi cho miền Nam, đồng thời làm nhiệm vụ quốc tế giúp nhân dân Campuchia tiêu diệt giặc Mỹ và tay sai, giải phóng đất nước”. Lần này, Nguyễn Tiến Bình là Phân đội phó Phân đội 4 thuộc Y22, Phòng Tình báo biệt động. “Thật là gian nan nhưng may có anh Hận, một thanh niên người Khmer rất nghèo nhưng có tinh thần yêu nước đã giúp đỡ chúng mình. 7 anh em trong đội không biết tiếng bạn, anh Hận lại không biết tiếng Việt. Vậy mà hàng tháng trời chúng tôi chia nhau từng bát gạo, từng cái bánh nhân dân gửi anh Hận đưa vào cho. Nhân dân chưa biết chúng mình là ai, chỉ biết là người đi đánh Mỹ để ông cha (Hoàng thân Sihanouk-TG) về nước nên họ tin, họ quý” (ngày 30-12-1970).
Từ sự khởi đầu không biết gì, dần dà, họ tự học tiếng Khmer, không chỉ để giao tiếp mà còn làm công tác tuyên truyền, xây dựng cơ sở, nắm địch. Nguyễn Tiến Bình đã chỉ huy đơn vị điều nghiên bộ tư lệnh hải quân địch trong điều kiện tác chiến độc lập trên chiến trường sông nước xa lạ, xung quanh Phnom Penh suốt 3 năm ròng rã, từ tháng 7-1970 đến tháng 8-1973 khi có lệnh về nước. Thời gian này, Nguyễn Tiến Bình đã có những trải nghiệm không thể quên. Trong 400 trang nhật ký thì có đến 200 trang ông ghi lại những hoạt động ở chiến trường Phnom Penh. Đây là những trang viết xúc động nhất, cũng là đau xót nhất kể về chiến công, sự mất mát hy sinh của đồng đội: “Sau 8 lần đi điều nghiên, tuy chưa chui vào từng nhà của địch và bộ tư lệnh hải quân nhưng chúng mình đã xây dựng phương án tác chiến theo phương thức cường tập. Bọn địch ở đây rất chủ quan vì ở sâu, sau bao tuyến phòng thủ nghiêm ngặt. Chúng không ngờ ta đưa được lực lượng xuống đây nhanh và sâu như vậy” (ngày 30-12-1970). “Chúng mình xuất kích đánh cầu Chua Chuộng Hoa. Buổi tối hôm ấy, sau khi hai tổ đánh ĐK2 đã xuất kích, mũi của mình cũng tiến quân. Bọn lính khoảng 5-6 tên đang ngồi gác. Mình tiến đến giật súng của tên lính nằm ngửa, súng kẹp ở hai chân. Anh em ập tới tóm gọn những tên còn lại... Trên đường tiến quân, chúng mình thu được 24 khẩu pháo, giao cho tổ phía sau. Sau đó, toàn đội chia làm hai theo đội hình so le tiến dọc hai bên lộ, lợi dụng gốc cây, góc tường mà đánh. Nhanh chóng chiếm được đầu cầu để bảo vệ tổ 2 hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng bất ngờ, khối 1 của đồng chí Hưng bị chìm vào giữa con nước xoáy. Đồng chí hy sinh!” (ngày 3-2-1971). “Lại trải qua những ngày nghiên cứu gian khổ. Chúng mình trở về nhưng đồng chí Hạnh đã hy sinh. Bên Đại đội 1, đồng chí Miện cũng hy sinh ở bộ tư lệnh hải quân... Chúng mình lặng người tiếc thương những đồng chí hăng hái dũng cảm. Nhiệm vụ AT11 chưa hoàn thành” (ngày 20-10-1971)...
Phu nhân Trung tướng Nguyễn Tiến Bình trong ngày trao cuốn nhật ký của chồng tặng Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam. Ảnh: TUẤN TÚ
Tất cả những điều mắt thấy, tai nghe và trực tiếp trải nghiệm, Nguyễn Tiến Bình đều ghi chép tỉ mỉ, cụ thể, cho dù có giai đoạn bận công tác 5 tháng, thường xuyên là một vài tháng liền ông không có điều kiện ghi nhật ký. Từ những dòng ghi chép này, không ít người mới biết được rằng bộ đội đặc công nước Việt Nam đã nhiều lần đánh hiểm, đánh đau vào sào huyệt của địch.
Tháng 8-2014, hơn một năm sau ngày Trung tướng Nguyễn Tiến Bình mất do căn bệnh có nguyên nhân từ những cánh rừng, những dòng suối nhiễm chất độc hóa học và những ngày tháng ngâm mình trong các đầm lầy, sông rạch ở Campuchia, cũng như vùng sông nước ven đô Sài Gòn, cuốn nhật ký của ông đã được Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia-Sự thật phát hành. Sau đó, ấn phẩm này cùng với bản gốc của cuốn nhật ký đã được gia đình Trung tướng Nguyễn Tiến Bình trao tặng Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam làm hiện vật để góp phần giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ hôm nay.
NGỌC MAI (sưu tầm và biên soạn)