• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. 69
  3. Trang 19

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 18
  • 19
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 18
  • 19
  • Sau

Phụ lục

SỰ BIẾN ĐỔI GIÁ TRỊ VĂN HÓA THỂ HIỆN TRONG VĂN HỌC NHẬT BẢN HIỆN ĐẠI

C

ùng với sự phát triển mạnh mẽ của quá trình toàn cầu hóa, văn chương thế giới bước vào kỷ nguyên hậu hiện đại. Những giá trị văn hóa vỡ vụn ra từng mảnh, sự sụp đổ của những đại tự sự dẫn đến khủng hoảng về niềm tin đã làm cho những nụ cười đẫm lệ chua chát. Văn chương chính là tấm gương soi phản chiếu văn hóa, trong đó, chúng ta có thể tìm thấy những quan điểm về thế giới quan và nhân sinh quan của một cá nhân, một dân tộc, một thế hệ. Vượt trên những khác biệt địa lý và văn hóa đang dần thu hẹp lại vì thế giới trở nên phẳng đi là một băn khoăn day dứt về thân phận con người.

Nền văn học Nhật Bản có lịch sử hình thành và phát triển hơn 1.200 năm với những thành tựu văn chương rực rỡ. Bên cạnh những đặc sắc riêng biệt của mình, Nhật Bản là một trong những nước châu Á sớm nhất hòa nhập vào nền kinh tế và văn hóa toàn cầu. Sự hòa nhập đó, cố nhiên sẽ làm thay đổi những giá trị văn hóa truyền thống, gây ra mâu thuẫn và xung đột trước khi hòa đồng và chấp nhận để sống và cùng chung sống.

Khác với thế hệ đi trước như Kawabata, Oe Kenzaburo, Tanizaki…, những tác giả trẻ hiện đại của nền văn học Nhật Bản đang dần thoát ly khỏi những ám ảnh quá khứ cùng với gánh nặng giá trị truyền thống để bước vào một không gian văn hóa toàn cầu. Nơi đây người ta có thể tìm thấy một tiếng nói chung về thân phận bất chấp những nỗi đau riêng về màu da, tôn giáo và chính trị.

Vài năm trở lại đây, độc giả yêu mến nền văn học Nhật Bản có dịp làm quen với làn sóng văn học Nhật Bản hiện đại qua những tác phẩm dịch của những tác gia tên tuổi được xuất bản. Bên cạnh công sức của dịch giả là tầm nhìn xa trông rộng của các công ty sách như Bách Việt, Nhã Nam… đã góp phần làm cho văn hóa đọc nước nhà được phong phú và rộng mở hơn.

Đầu tiên nhất là phải kể đến tác phẩm của Haruki Murakami, một tác gia bây giờ đã không còn xa lạ với bạn đọc Việt Nam. Ngoài những tiểu thuyết như Rừng Na-uy, Biên niên ký chim vặn dây cót, Người tình Sputnik, Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời còn có những tuyển tập truyện ngắn như Người ti-vi, Ngày đẹp trời để xem kangaroo… đã cung cấp cho bạn đọc một cái nhìn khá toàn diện về sự nghiệp của tác gia nổi tiếng thế giới này.

Làn sóng thứ hai đó là Yoshimoto Banana với những tác phẩm Kitchen, Thằn lằn, Vĩnh biệt Tugumi, N.P… Tâm thức cô đơn mất phương hướng, tình yêu ngây thơ, tình dục điên cuồng, bóng đêm cuộc đời vô tận phản ánh rất rõ trong tác phẩm của hai tác gia này. Chúng ta liên tiếp được Haruki Murakami và Yoshimoto Banana dẫn dắt qua những con đường từ tình yêu gãy vỡ đến sa mạc cô đơn và vực sâu nỗi chết. Dường như trong đó, con người sống mà không có chút hy vọng nào ngoài chính bản thân sự sống, không có ai sẻ chia ngoài chính cái bóng của mình.

Làn sóng thứ ba đang vây phủ chúng ta với một loạt tác phẩm của một tác gia tên tuổi khác là Ryu Murakami. Sinh năm 1952, là người cùng thời với Haruki Murakami, Ryu Murakami đưa ra một cách nhìn khác hơn về Nhật Bản hiện đại. Ông dấn thân sâu hơn cả Haruki và Banana trong sự phản ánh sự sa đọa của con người tuổi trẻ với ma túy, chất kích thích, dâm thư và đưa sự thăng hoa lên cao hơn với phong tỏa trường học, các đại nhạc hội, quan hệ với yakuza… để qua đó “xuyên thấu” sự phức tạp của nội tâm và sự bi đát của thân phận con người.

Ngoài ra trên các trang mạng văn chương nổi tiếng trong nước và hải ngoại, chúng ta cũng được làm quen với tác phẩm của những tác gia như Yamada Eimi, Reiko Matsuura… Đây là những tác gia đương đại, tiêu biểu cho nền văn học Nhật Bản, xứng đáng cho chúng ta nghiên cứu cẩn thận.

Trong bài viết này chúng tôi sẽ tìm hiểu về những giá trị văn hóa thể hiện trên khía cạnh nhân sinh quan của các tác giả đương đại là Haruki Murakami, Yoshimoto Banana, Ryu Murakami, Yamada Eimi và Reiko Matsuura về tình yêu, sự cô đơn và cái chết. Có thể nói đây là những chủ đề chính yếu không chỉ của văn học Nhật Bản mà còn của văn học hiện đại thế giới ngày nay, chẳng hạn như phong trào Linglei của Trung Quốc, và một số tác gia hiện đại Việt Nam.

1. Từ tình yêu gãy vỡ

Tình yêu xưa nay vẫn là đề tài vô tận của văn chương. Tuy vậy mỗi thời quan niệm mỗi khác. Tình yêu chẳng còn cao thượng và lãng mạn gì nữa. Thời hậu hiện đại đã dập tắt tất cả ngây thơ lãng mạn cổ điển để đưa ta vào thực tế phũ phàng. Đối với các nhà văn hiện đại Nhật Bản, tình yêu không phải lúc nào cũng gắn liền với tình dục. Đó là hai chuyện khác nhau. Nhân vật của họ cô đơn, có thể quan hệ tình dục với rất nhiều người nhưng lại chẳng tìm thấy ai để yêu thương. Hay ngược lại, người ta yêu thương nhau mà không cần phải quan hệ tình dục.

Trong tác phẩm của Ryu Murakami và Haruki Murakami chúng ta có thể bắt gặp những kiểu cách sống và quan niệm về tình dục hiện đại của giới trẻ Nhật Bản. Trong Rừng Na-uy1, chúng ta thấy đậm đặc trong đó những cảnh mà Nagasawa cùng Watanabe lang thang từng đêm đến các quán bar tìm bạn gái không quen biết để qua đêm trong những khách sạn tình yêu (love hotel), cùng chung đụng xác thịt mà chẳng biết gì về nhau, sáng mai ai đi đường nấy. Thậm chí hai người còn đổi bạn tình cho nhau để tìm kiếm cảm giác khác. Nhưng mặt khác Watanabe cũng yêu thương Naoko với một tình yêu trong suốt mà chỉ làm tình với nàng một lần duy nhất cho đến khi Naoko tự sát. Dù trong thời gian ấy Watanabe vẫn quen biết Midori như người tình.

1 Haruki Murakami: Rừng Na-uy, bản tiếng Việt của Trịnh Lữ dịch, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2006.

Chúng ta cũng có thể tìm thấy một tình yêu nguyên sơ và thuần khiết của tuổi học trò qua tác phẩm 69 của Ryu Murakami.

69 có thể nói là một tác phẩm tươi sáng nhất của Ryu Murakami. Trên cái nền nâu trầm bỗng vút qua một nét màu sáng tươi. Người đọc bất ngờ như khi đi qua rừng sâu bỗng thấy trước mình cánh đồng bạt ngàn hoa thơm cỏ lạ. Những đóa hoa của tình yêu thơ ngây và tuổi trẻ chưa bị đời làm cho gục ngã. Không những thế, 69 còn là tác phẩm hài hước và kích động vô cùng. Rất nhiều lần ta phải bật cười vì vui thích, hân hoan như tìm lại thấy người em thuở sơ đầu. Tác phẩm này gần như là tự truyện. Nhân vật Yazaki, mười bảy tuổi, đang học phổ thông dường như là hình bóng của chính Ryu Murakami. Yazaki kết bạn với Adama, Iwase và “âm mưu” làm một đại nhạc hội có chiếu phim và diễn kịch. Để thực hiện mục tiêu đó, chàng ta phải nhờ Shirokushi, thủ lĩnh nhóm Mềm trường Bắc, ra tay mượn đỡ cái máy quay phim tám li của Matsutabe. Rồi sau đó rất nhiều bi hài đã xảy ra khi chàng ta đến mời nữ nhân vật chính của bộ phim là Kazuko Matsui, biệt danh Lady Jane. Nàng có đôi mắt nai tơ ngơ ngác như chú nai Bambi, gây bao nhiêu sóng gió trên tình trường nơi phái nam của trường Bắc. Rồi vì nàng mà Yazaki quyết định tham gia nhóm Chính trị của Narushima và Otaki, âm mưu “phong tỏa trường học” để lấy lòng người đẹp. Kế hoạch được thực hiện hoàn hảo nhưng trong đêm thâm nhập phong tỏa ngôi trường, khi đang treo biểu ngữ và vẽ graffiti, thì tên dâm tặc Fuse đề nghị “thám hiểm” phòng thay đồ của nữ học sinh. Xin trích dẫn một đoạn:

Khi chúng tôi tập hợp thành vòng tròn thì Fuse, một gã đen thui và đầu óc tăm tối nói: “Chờ chút đã.”

“Có chuyện gì vậy mày? Bọn tao vừa sắp đặt xong mọi thứ.”

Một chút lưỡng lự rồi nụ cười dâm đãng hiện trên mặt Fuse.

“A, chỉ là… những dịp may thế này thật hiếm có.” “Dịp may?”

“Mình đã kiểm tra rồi và nó không khóa.” “Cái gì khóa?”

“Phòng thay đồ của mấy em gái ấy mà. Tại sao chúng ta không dành năm phút để liếc nhìn qua bên trong?” Hắn cười khoái trá ra mặt.

Chỉ có một cách phản ứng.

“Mẹ kiếp mày, thằng khốn, chúng ta đứng đây để thực hiện sứ mệnh thiêng liêng còn mày thì muốn nhìn trộm phòng gái thay đồ? Mày có đầu óc không vậy? Nếu ai cũng như vậy thì mọi chuyện sẽ thất bại ngay khi nó bắt đầu.”

Nhưng không có ai phản đối gì nữa. Và tất cả chúng tôi đều đồng ý ngay lập tức kế hoạch của Fuse.

Tất nhiên sau vụ phong tỏa thì nhóm của Yazaki nổi tiếng như cồn. Những cảnh sát điều tra ra và kết quả là chàng Yazaki và Adama bị quản thúc ở nhà 119 ngày. Thật đau buồn làm sao. Nhưng hình như hy vọng không bao giờ tắt. Vì thiên thần Lady Jane đã gửi tặng chàng Yazaki một bó hoa hồng an ủi làm chàng sung sướng như điên. Chàng lại âm mưu làm một đại nhạc hội văn nghệ nữa. Và lần này ai cũng giúp chàng. Buổi đại nhạc hội đầy khiêu khích mang tên “Đại nhạc hội Bình minh dựng đứng”. Trên tấm vé in hình một em gái tô son môi và đằng sau là hình ảnh một dương vật dựng đứng bên trong lồng một cảnh núi lửa phun hoành tráng. Đầy biểu tượng và khơi gợi. Đúng là tuổi trẻ.

Nhưng có lẽ niềm sung sướng nhất của Yazaki là được gần gũi thiên thần Lady Jane trong lúc quay phim và diễn kịch. Chàng Yazaki cảm thấy kích động vô cùng, lúc nào cũng muốn làm cho thiên thần mất hết lý trí để làm trò mờ ám nhưng không được. Tội nghiệp chàng làm sao. Đến khi kết thúc buổi đại nhạc hội, hai người có dịp đi dạo bên nhau. Cặp tình nhân bước vào một công viên nhỏ ngồi ghế xích đu, và chàng Yazaki mới hỏi “Em đã từng hôn ai chưa?”. Thiên thần đỏ mặt bẽn lẽn lắc đầu và nhắm mắt lại. Đúng là cơ hội ngàn năm một thuở. Nhưng chàng run bắn người lên, cổ họng khô khốc, và đôi môi tuyệt đẹp của thiên thần làm chàng sững sờ, khiến chàng không đủ dũng cảm chạm môi mình vào đó. Chàng lại rủ “mùa đông này mình ra bãi biển chơi nghe em”. Thiên thần (chắc cũng chán nản) mở mắt ra và gật đầu.

Rồi mùa thu qua đi, mùa đông gọi mời. Hai con người trẻ tuổi dìu nhau ra bãi biển Karatsu. Chàng muốn ngắm cảnh hoàng hôn trên biển nên dẫn nàng đi xem phim trước để giết thời gian. Không may đó lại là bộ phim Máu lạnh với đầy cảnh giết chóc làm thiên thần hoảng sợ phải lấy tay che mặt. Hai người ra bờ biển ăn trưa, thảo luận về bộ phim và trở về nhà mà vẫn chưa kịp hôn nhau. Điệp vụ thất bại. Đây là lần thất bại thứ ba của chàng Yazaki. Lần đầu tiên là vào mùa hè năm mười sáu tuổi, chàng Yazaki bỏ nhà ra đi vừa để trốn cuộc thi điền kinh vừa để tìm một em gái hòng bước chân vào đời. Chàng tự bảo mười sáu tuổi mà vẫn còn là trinh nam tử thì là chuyện hệ trọng đấy. Sau khi xem ba bộ phim khiêu dâm, chàng lang thang ra bờ sông gặp mụ tú bà đưa về nhà thổ. Một mụ đen thui, mặt mũi như con gấu trúc bước ra làm chàng hoảng sợ và nhớ đến cảnh mẹ mình giờ đang khóc thương con đỏ mắt. Sau khi khiêu khích một hồi không được mụ gấu trúc bèn nói: “Thôi thì tôi giạng háng ra cho cậu làm gì thì làm nhé”. Và chàng vẫn làm không được. Mất một món tiền mà vẫn còn là trinh nam tử, chàng quay về nhà mới hay cuộc thi điền kinh chưa diễn ra vì trời mưa phải dời lại.

Như vậy, năm 69 của chàng kết thúc với ba vụ thất bại trên tình trường và hai vụ thành công trên chiến trường là phong tỏa trường học và tổ chức đại nhạc hội văn nghệ.

Tất nhiên là năm tháng sẽ qua đi, chàng Yazaki và các bạn bước vào đời. Phần cuối truyện gợi cho chúng ta thấy số phận của những người bạn chàng. Nhưng ta hãy nói về một câu chuyện tình. Yazaki và Matsui chia tay nhau vào một ngày Chủ nhật mưa rơi tháng Hai năm 1970 sau khi nàng đã thay lòng đổi dạ. Và vào một ngày nàng nói với chàng sẽ bước sang ngang. “Tối hôm đó, tôi đã uống cạn một chai Whisky Kaku, nửa chai rượu trắng Sunory, một chai vang đỏ và ăn hết hai đĩa cari, hai chén bò hầm. Sau đó, vào lúc sáng sớm, tôi lấy sáo ra chơi, kết quả là tên yakuza nhỏ tuổi sống chung căn hộ với tôi phàn nàn là tôi làm hắn mất ngủ và thoi tôi bốn quả vào mặt.”

Nhưng rồi sau đó khi chàng đã là một tiểu thuyết gia, và nàng đã lập gia đình thì hai người vẫn còn chút liên lạc.

Từ khi trở thành nhà văn, tôi có nhận được một vài lá thư của nàng và một cuộc điện thoại. Lúc nàng gọi, tôi đang nghe bài Alone Alone của Boz Scaggs.

“Đó có phải là bài của Boz Scaggs không?” “Ừ.”

“Anh vẫn còn nghe Paul Simon chứ?” “Không, không nghe nữa rồi.” “Em cũng nghĩ vậy. Em thì thỉnh thoảng vẫn còn nghe.” “Dạo này em ra sao rồi?”

Nàng không trả lời câu hỏi đó. Và vài ngày sau nàng gửi cho tôi một lá thư:

“Khi nghe giọng nói của anh trên nền nhạc của Boz Scaggs em như trở về thuở học trò. Em cũng thích Boz Scaggs, nhưng giờ em không nghe nữa. Cuộc sống của em trong vòng một năm qua ngày càng trở nên tồi tệ vì thế em nghe Tom Waite rất nhiều. Em muốn quên đi sự tồi tệ này nhưng em nghĩ cách duy nhất khả thi là bắt đầu một cuộc sống mới…”

Cuối thư nàng viết một dòng tiếng Anh từ bản nhạc của Paul Simon:

Vẫn điên rồ sau bấy nhiêu năm…

Chúng ta nghĩ gì về câu hát ngậm ngùi ấy? Vẫn điên rồ sau bấy nhiêu năm… Qua bao nhiêu năm tháng, cái nhiệt huyết tuổi trẻ vẫn còn. Nó làm cho cuộc đời của chàng và của nàng trở nên lộn xộn. Hai người vẫn sống cuộc đời hai mặt, đung đưa đi trên sợi dây cuộc đời, chông chênh giữa hai bờ hiện thực và mộng tưởng. Tuổi trẻ là phá hủy và trên nền hoang tàn ấy, tuổi trẻ sẽ dựng xây.

Chúng ta cần nhiều hơn những tòa nhà đổ nát. Chúng ta cần niềm hy vọng được dựng xây.

Nhưng câu chuyện lững lờ bỏ ngỏ.

Nhưng như vậy mới là cuộc đời. Chúng ta đều tìm thấy mình trong hình ảnh của chàng và nàng. Và khi sự bội phản cuộc đời làm nụ cười chúng ta đẫm lệ chua chát thì lật một trang 69, ta vẫn thấy bùi ngùi khi nhớ lại những đam mê thanh xuân và nhiệt tình tuổi trẻ.

2. Đến sa mạc cô đơn

Sau khi ra đi tìm kiếm, dù có thể được thỏa mãn nhất thời nhưng con người ta vẫn cứ cô đơn và khao khát. Một điều kỳ lạ là mặt trái của tình yêu bao giờ cũng là sự cô đơn. Tình dục không còn là một sự hòa hợp tâm hồn và thể xác mà chỉ còn là một phương tiện tìm quên. Do đó để miêu tả sự cô đơn của con người, các nhà văn Nhật Bản bao giờ cũng mượn chuyện tính dục. Trong một truyện ngắn của Haruki Murakami, một anh chàng thất tình gặp một cô gái ở quán bar. Hai người uống say rồi anh này dìu nàng về nhà. Hai người làm tình như thể “khách đến chơi nhà thì phải mời nước vậy”. Anh này rời đi lúc trời hừng sáng mà vẫn chưa biết tên cô gái. Còn lại một khoảng trống hun hút giữa hai người.

Và “sự cô đơn đẩy cá nhân đến trốn tránh xã hội, cái xã hội vất cá nhân, do đó cá nhân bỏ xã hội ấy để tìm đến với ‘sa mạc êm đềm, nơi lưu trú của sự trong trắng ngây thơ’ (Saint-Amant); và cô đơn tinh thần cũng trở thành cô đơn thể xác”1. Đó là nguồn gốc của chứng bệnh hikikomori, xa lánh xã hội. Nếu không có bản lĩnh, cô đơn sẽ làm cho con người ta muốn phản kháng nổi loạn, hay chán chường tuyệt vọng, sa đà vào thú trụy lạc hay tìm đến cái chết.

1 Henri Benac: Dẫn giải ý tưởng văn chương, bản Việt dịch của Nguyễn Thế Công, Nhà xuất bản Giáo dục, 2008, trang 798.

Banana Yoshimoto trong tác phẩm Kitchen2 đã miêu tả sự cô đơn qua hình ảnh người bố Yuji của nhân vật Yuichi Tanabe sau khi vợ mất đã phẫu thuật chuyển đổi giới tính của mình và đổi tên thành Eriko. Gia đình này nhận nuôi cô gái Sakurai Mikage, một cô gái mồ côi, vì nàng có khuôn mặt giống Nonchan, con chó cưng đã chết. Cuối truyện, Eriko chết, và trong lạnh giá cuộc đời, có vẻ như Tanabe và Mikage xích lại gần nhau. Truyện kết thúc lơ lửng. Phần hai của tác phẩm có tựa đề Bóng trăng miêu tả tình yêu của nhân vật nữ chính Satsuki với Hitoshi nay đã chết. Hitoshi có một người em trai tên Hiiragi. Trong một đêm định mệnh, chiếc xe Hitoshi chở Yumiko, bạn gái của Hiiragi, gặp tai nạn. Từ sau cái chết của người yêu, Hiiragi thường xuyên mặc bộ váy áo của người bạn gái Yumiko yểu mệnh đi lang thang ngoài đường. Còn Satsuki u uất cho đến lúc gặp một cô gái kỳ lạ tên Urara. Nhờ nàng mà trong một sớm tinh mơ, Satsuki đã gặp lại được hình bóng Hitoshi một lần cuối cùng, và Hiiragi cũng mơ hồ gặp được Yumiko. Để giải thoát và để tiếp tục sống với niềm cô đơn.

2 Yoshimoto Banana: Kitchen, bản Việt dịch của Lương Việt Dzũng, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2006.

Còn với Reiko Matsuura, một tác gia từng làm đảo lộn quan niệm tình dục thông thường với những tác phẩm Thời kỳ huấn luyện ngón chân cái P (Oyayubi P no shugyo jidai) và Thân chó (Kenshin), đã đưa ra những chi tiết quái đản để nhấn mạnh nỗi cô đơn cốt tủy. Tác phẩm đầu nói về một người phụ nữ sau một đêm thức dậy thấy ngón chân cái của mình có thể thay thế “vật quý” của đàn ông. Trong quyển Thân chó, một cô gái bị biến thành chó rồi yêu cô chủ Azusa, một nghệ nhân gốm. Chính tác giả nhận định như sau: “Ngay cả khi một người đàn ông và một người đàn bà không yêu thương gì nhau, nhu cầu bản năng của thân thể cũng khiến họ dễ dàng có quan hệ tình dục. Nếu hai con người muốn phát triển sâu hơn mối quan hệ của mình, họ thường nghĩ sex là giai đoạn đưa họ xích lại gần nhau. Đó là lý do tôi muốn miêu tả mối liên hệ giữa người và chó, một thứ quan hệ mà ở đó, kẻ này có thể yêu thương kẻ kia không cần có sex”1.

1 Trang mạng www.evan.com.vn

Yamada Eimi, trong một truyện ngắn đã để cho một nhân vật nam nói với một nữ họa sĩ lớn tuổi hơn anh ta thế này: “Tôi không thiếu đàn bà để làm tình, tôi chỉ thiếu một người để yêu thương.” Tào Đình, một tác giả Trung Quốc hiện đại, trong tác phẩm Xin lỗi, em chỉ là con đĩ, đã để một nhân vật nói: “Nếu em là một cô gái trinh, tôi sẽ cưới em làm vợ; nhưng xin lỗi, em chỉ là một con đĩ…” Chúng ta nghĩ gì về những lời phát biểu trên? Một sự vô cùng nghịch lý. Trước đây con người ta cô đơn vì ngăn cách bởi khoảng cách địa lý, vì khác biệt văn hóa, vì thể chế lạc hậu. Và khoa học kỹ thuật phát triển đã làm thế giới trở nên phẳng đi, khoảng cách địa lý bị thu hẹp, nền văn hóa bản địa dần phai nhạt trong sự phát triển của văn hóa toàn cầu, con người vẫn cô đơn hơn bao giờ hết. Khoa học không giúp con người nhìn sâu vào nội tại. Vì thế, nếu không có một nền tảng tâm linh vững vàng với một làn sương mù tuyệt diệu của tâm hồn hướng nội siêu việt, cá nhân sẽ dễ dàng sa ngã và tìm quên. Và nhiều khi còn tìm đến cái chết.

3. Và vực sâu nỗi chết

Theo Henri Benac, cái chết “là một trong những chủ đề quan trọng nhất ở tất cả các thời đại, dù cái chết được nhìn nhận từ một quan điểm tôn giáo và duy linh hay từ một quan điểm khác với những niềm tin vững chắc của những quan điểm ấy”1. Chính nhờ cái chết mà con người mới tìm cho mình một ý nghĩa sống. Cái chết có người xem là khổ đau, có người xem là giải thoát. Khi quá tuyệt vọng với cuộc đời, con người ta tìm đến cái chết.

1 Henri Benac: Sđd, trang 556.

Nhật Bản với vị trí địa lý đặc thù của mình vừa dữ dội tàn bạo vừa nhẹ nhàng quyến rũ nên từ rất xa xưa con người Nhật Bản đã cảm nhận được cuộc sống vốn mong manh. Ảnh hưởng sâu nặng của Phật giáo làm cho người Nhật thấu hiểu được cảm giác vô thường và giòn mỏng của đời người. Vì thế mà người Nhật bên cạnh việc tìm cho mình một ý nghĩa sống của cuộc đời thì vẫn sẵn sàng hủy hoại mạng sống của mình khi ý nghĩa đó không còn nữa. Cho nên có người nói rằng người Nhật chỉ có triết lý chết mà không có triết lý sống là vì vậy. Có thể nói tự tử là một truyền thống lâu đời trong văn hóa Nhật Bản. Nghi thức này có từ trước thời Muromachi và Kamakura nhưng đến thời đại này, tự sát được thăng hoa lên thành nghệ thuật dành cho người kiếm sĩ samurai bảo toàn danh dự và khí tiết. Mổ bụng tự sát (seppuku) là sự thăng hoa của lòng trọng danh dự của người Nhật Bản. Theo tác giả Đức Phong trong bài viết Vì sao người Nhật hay mổ bụng tự sát? đã cho rằng: “việc mổ bụng tự sát của người Nhật là phương thức thể hiện tâm nguyện nào đó qua việc phơi bày bộ phận quan trọng nhất của cơ thể con người. Hành động tự sát này là biểu hiện một ý thức độc lập tự thân, nó mang lại cho người chết một cảm giác ăn năn chuộc tội hay một cảm giác theo kiểu yêng hùng1. Đương nhiên là hành động mổ bụng tự sát đã bớt đi nhiều nhưng tự sát bằng cách khác như cắt cổ tay, treo cổ, uống thuốc độc vẫn thường xảy ra hằng ngày ở Nhật Bản. Và hiện nay Nhật Bản đứng đầu thế giới về số lượng người tự sát hằng năm. Nhà nghiên cứu văn hóa Hữu Ngọc còn cho ta biết thêm là: “có cả một truyền thống lâu dài về tự tử: tự tử một mình, từng cặp, từng nhóm, tự tử để thử thách tình yêu, tự tử là cử chỉ tối cao của võ sĩ, sự chấm dứt trần thế của nhà sư, tự tử thể hiện sự mất phương hướng hiện tại, sự thất bại trong kinh doanh, đàn ông, đàn bà, người già, trẻ con đều tự tử. Năm 1985, ở Nhật có 23.589 người tự tử (trong đó có 192 trẻ em từ 12 đến 15 tuổi, 12 trẻ em dưới 12 tuổi). Năm 1986, có 275 giám đốc công ty tự tử. Trong giới lãnh đạo nói chung (nghị sĩ quốc hội, công chức cao cấp, chính khách thuộc các đảng hay tự do, giám đốc xí nghiệp…) mỗi tuần trung bình có 9 vụ tự tử”2.

1 Báo An ninh thế giới, số 93, trang 17.

2 Hữu Ngọc: Dạo chơi vườn văn Nhật Bản, Nhà xuất bản Văn nghệ, 2008, trang 78.

Không cần nói đâu xa, điểm lại văn chương Nhật Bản hiện đại, ta cũng thấy số lượng nhà văn tự tử lớn như thế nào. Đầu tiên là Akutagawa uống hai liều thuốc ngủ cực mạnh tự sát năm 35 tuổi. Dazai Osamu tự tử đến lần thứ tư mới chết được bằng cách nhảy sông với người tình. Mishima Yukio chịu ảnh hưởng truyền thống văn hóa của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, mổ bụng tự sát năm 45 tuổi. Kawabata mặc dù không tán thành hình thức chấm dứt cuộc đời bằng tự sát của Akutagawa và Osamu Dazai nhưng cuối cùng cũng tự sát bằng hơi ga năm 1972, bốn năm sau khi nhận giải Nobel văn chương lúc ông 72 tuổi.

Điều này cũng phản ánh rõ trong tác phẩm Rừng Na-uy. Tác phẩm này được báo Đọc sách Trung Hoa xem là “cuốn sách thanh xuân bất diệt, bầu bạn với hết thế hệ này đến thế hệ khác” vậy mà lại ngập tràn cái chết. Kizuki tự sát năm 17 tuổi bằng hơi ngạt, chị của Naoko tự sát năm 17 tuổi bằng cách tự thắt cổ, Hatsumi, bạn gái của Nagasawa tự sát bằng cách cắt đứt cổ tay. Naoko cuối cùng cũng tự thắt cổ chết vào năm 21 tuổi trong một đêm hoang vắng giữa khu rừng sâu. Rõ ràng tác phẩm văn chương chính là một tấm gương soi của đời sống văn hóa. Nhân vật trong tác phẩm rõ ràng mang những cảm xúc, tư duy và là hình bóng của lối sống của những con người Nhật Bản ngoài đời sống thực.

Còn trong Kitchen của Banana Yoshimoto, chúng ta cũng thấy đầy những cái chết. Bà của nhân vật Mikage Sakurai chết, người mẹ kỳ lạ Eriko của Tanabe Yuichi chết. Trong Bóng trăng (phần hai của tác phẩm), người yêu của Satsuki là Hitoshi, bạn gái Yumiko của Hiiragi chết vì tai nạn giao thông, người yêu của Urara cũng chết.

Điều đáng nói là qua mỗi cái chết như vậy, con người ta lại trưởng thành hơn và hiểu biết sâu hơn về cuộc sống. Đó cũng là một hình thức ứng xử văn hóa đối với sự chết. Nhân vật Watanabe đã thấy rằng: “Tôi đã học được một điều từ cái chết của Kizuki, và tôi tin rằng mình đã biến nó thành một phần của con người mình dưới dạng triết thuyết sự chết tồn tại, không phải như một đối nghịch mà là một phần của sự sống.”

Bằng cách sống cuộc đời mình, chúng ta đang nuôi dưỡng sự chết. Hiển nhiên là như vậy, nhưng đó lại là một chân lý duy nhất mà chúng ta phải học mới biết được. Còn cái mà tôi học được từ cái chết của Naoko lại là thế này: “Không có chân lý nào có thể làm dịu được nỗi đau buồn khi chúng ta mất đi một người yêu dấu. Không một chân lý nào, một tấm lòng trung thực nào, một sức mạnh nào, một tấm lòng từ ái nào có thể làm dịu được nỗi đau buồn ấy. Chúng ta chỉ có thể chịu đựng nỗi đau ấy cho đến tận cùng và cố học được một điều gì đó, nhưng bài học ấy cũng lại chẳng có ích gì nữa khi chúng ta phải đối mặt với một nỗi đau buồn mới sẽ ập đến không biết lúc nào”1.

1 Haruki Murakami: Sđd, trang 494, 495.

Còn những tác phẩm của Ryu Murakami mang đến cho ta một sắc màu tối, hay ít nhất thì cũng nâu trầm. Trong Màu xanh trong suốt2, đó là một nhóm bạn trẻ thiêu đốt đời mình trong ảo ảnh của rượu, bia, thuốc lá, ma túy, chất kích thích, tình dục vô tội vạ để tìm quên thân phận. Nhưng cảm thức sau cùng đúng như Vũ Hoàng Chương đã viết:

2 Ryu Murakami: Màu xanh trong suốt, bản Việt dịch của Trần Phương Thúy, Nhà xuất bản Văn học, 2008.

Nhưng em ơi,

Đất trời nghiêng ngửa

Mà trước mắt thành Sầu chưa sụp đổ

Đất trời nghiêng ngửa

Thành Sầu không sụp đổ em ơi

Vậy là bế tắc, tìm đường tự sát. Nhân vật Ryu cuối cùng đã tìm đến cái chết bằng việc lấy mảnh kính cắt mạch máu ở tay, để chấm dứt cuộc đời khi mới 19 tuổi. Nhưng may cho Ryu (hay là bi đát hơn cho Ryu), là anh được cứu sống. Để bắt đầu cuộc đời mới khác hơn ư? Hoàn toàn không phải. Trong bức thư gửi cho người tình một thuở Lily, Ryu đã lưu ý: “không phải anh viết cho em bức thư này là anh đã thay đổi đâu mà như anh trở về con người cũ của mình thôi. Thật đấy.” Vậy là sao? Con người cũ của “bản lai diện mục” ban sơ vào đời hay con người cũ mòn mỏi vì bế tắc cuộc đời? Ta không thể biết. Cũng như ta không thể biết đời mình sẽ ra sao vậy. “Đâu biết có nắng trong đầu, đâu biết môi thắm sẽ nhầu, một đời cày xới nỗi sầu, một đời vun xới niềm đau” (Vũ Thành An). Và văn chương, cũng như âm nhạc, liệu có phải là một sự đam mê thống khổ “cất tiếng hát nâng tình ái lên cao, cây thương đau, đem ngày tháng vun vào?”

Ta còn có thể làm gì khác ngoài “cứ cúi mặt đi để nghe đời lầm lỡ, đừng níu thời gian cho thêm sầu vương mang” (Lam Phương).

Xuyên thấu1 đem lại cho ta một cảm giác khác. Kawashima là một người bình thường với một gia đình bình thường có người vợ tên Yoko là thợ làm bánh với một đứa con nhỏ. Nhưng ám ảnh của tuổi thơ bị ngược đãi đã làm biến dạng tâm hồn anh. Kawashima lúc nào cũng bị ám ảnh bởi chiếc dùi đập đá. Anh sợ rằng đến một ngày nào đó mình sẽ dùng chiếc dùi đập đá giết chết chính đứa con mình. Để thoát khỏi ám ảnh đó, Kawashima quyết định sẽ giết một người đàn bà. Và câu chuyện đúng là “một cuộc tương phùng kỳ lạ giữa người đàn ông có mưu đồ giết người và người phụ nữ mang ý định tự sát”.

1 Ryu Murakami: Xuyên thấu, bản Việt dịch của Lê Thị Hồng Nhung, Nhà xuất bản Văn học, 2008.

Đằng sau con người luôn là một số phận bí ẩn không cùng. Cuộc đời chính là cuộc đấu tranh giữa những điều bình thường với những điều sâu kín ẩn giấu trong nội tâm chờ dịp là phơi bày hiển hiện. Không phải lúc nào ta cũng thắng vượt được ám ảnh mà ngược lại, ám ảnh chi phối cuộc đời ta. Kawashima không thắng được bản thân mình. Anh yếu đuối như mỗi con người chúng ta. Xuyên thấu có thể xem như là một “tội ác và trừng phạt” kiểu mới của riêng Nhật Bản.

4. Tương lai nào cho đôi mắt tối

Điểm qua một số tác phẩm văn học Nhật Bản hiện đại, chúng ta thấy toàn một màu sắc đen tối u buồn, có tươi vui chăng là ở thời học sinh, còn lại thì bi đát. Không tìm thấy một tương lai nào cho đôi mắt tối. Con người lẻ loi, bị lãng quên đi trong thế giới lạnh lùng nghiệt ngã. Cá thể đã cô đơn, quần thể cũng cô đơn nên người ta phải lệ thuộc vào một điều gì đó để sống: công việc, rượu bia, chất gây nghiện, gia đình. Gia đình là cái con người ta mong muốn để nối kết nhất nhưng lại dễ gãy vỡ như sinh mệnh. Vì thế liên hệ gia đình biến dạng. Kawashima muốn tránh khỏi việc giết chính đứa con mình nên đành đi tìm một người khác để giết. Chi tiết về Kawashima mỗi khi nhìn ngắm đứa con mình lại cầm theo chiếc dùi đập đá hình dung có ngày mình sẽ đâm vào cái bụng trắng xinh của nó là một biểu tượng nhiều ý nghĩa.

Đời sống vật chất sung túc không phải bao giờ cũng đi kèm với sự phát triển tinh thần mà nhiều khi là ngược lại. Nhật Bản hiện đại đang phải đối mặt với rất nhiều bất ổn về đời sống gia đình, về sự sa đọa của giới trẻ, cùng với tỷ lệ sinh giảm sút đáng kinh ngạc trong khi tỷ lệ tự sát tăng cao…

Có thể nói Nhật Bản đi trước Việt Nam trong sự phát triển kinh tế và văn hóa. Vì thế nghiên cứu về văn học Nhật Bản có thể giúp chúng ta rút ra bài học kinh nghiệm đối với việc xây dựng nền “văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” của Việt Nam hiện nay.

Trong bài viết này, dù còn sơ lược, chúng tôi cũng đã cố gắng khái quát những gương mặt tiêu biểu của văn chương Nhật Bản hiện đại cùng những chủ đề chính phản chiếu trong văn phẩm của những tác gia. Soi chiếu vào sự phát triển của văn học Việt Nam hiện đại, chúng ta cũng thấy phảng phất phần nào lối sống hiện đại đó. Vì vậy vấn đề làm sao để hòa nhập được sự phát triển về kinh tế và văn hóa toàn cầu đồng thời giữ gìn được nền văn hóa truyền thống dân tộc Việt đang là một thách thức lớn hiện nay.

Thế hệ trẻ cần phải xây dựng cho mình một bản lĩnh sống, với những nguyên tắc rõ ràng, biết tiếp thu những điều cần thiết nhưng biết loại bỏ những gì độc hại, không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Đó cũng là ý nguyện của chúng tôi trong bài viết này.

Sài Gòn, tháng 8-2008

Hoàng Long