T
hời gian dường như chậm chạp trôi qua sau ngày lễ đó.
Cha tôi có lần đã nói về Đại nhạc hội Soul đầu tiên của tôi khi tôi lên ba, lúc ấy là vào mùa hạ. Lúc đó, có vẻ như tôi bị cuốn hút vào cái trống được treo cao phía trên, và tôi đã tự đi từng bước chập chững xuyên qua dòng người đang nhảy múa trong tiếng trống mê hoặc. Ông ấy nói nhìn thấy tôi đứng ở đó bằng ánh mắt sáng ngời, và đó là lần đầu tiên cha cảm thấy lo rằng, liệu tôi có trở thành hạng người với một mục đích duy nhất trong cuộc đời là tìm nơi để tổ chức một buổi nhạc hội như vậy.
Và đúng như cha tôi đã lo lắng. Vào năm 1969, khi mười bảy tuổi, tôi đã tổ chức Đại nhạc hội Bình minh dựng đứng. Nhưng ngay cả bây giờ, khi tôi là nhà văn ba mươi hai tuổi, tôi dường như luôn tìm những lý do mới, những phương hướng mới để tổ chức nhạc hội. Giai điệu của trống từ cái thời tôi lên ba đã nối kết liên tục với nhạc jazz của tuổi mười lăm và rock của tuổi mười sáu và bằng cách này hay cách khác, nó làm cho tôi phải tìm kiếm khắp cả hành tinh này để tìm cảm giác rung động mạnh hơn và tuyệt vời hơn.
Chính xác thì giai điệu đó có ý nghĩa gì với tôi, tôi không chắc lắm nhưng tôi ngờ rằng đó là lời hứa hẹn về niềm vui bất tận.
Mùa đông ở Sasebo có cái gì đó trống vắng và siêu thực, nhưng tôi vẫn trông đợi nó vì tôi và Jane đã hứa hẹn cùng nhau ra bãi biển.
Chúng tôi quyết định đi vào ngày lễ Noel. Chúng tôi gặp nhau ở chuyến xe bus cuối cùng trong thị trấn. Tôi đã nũng nịu đòi mẹ mua cái áo choàng trùm đầu hiệu McGregor cho dịp này sau khi bóp vai cho bà trong hơn hai giờ liền và lảm nhảm: “Đại học à, dĩ nhiên, con sẽ vào đại học. Thậm chí con sẽ trở thành giáo viên, dĩ nhiên vì nó đã thấm vào máu con rồi… Mẹ nghĩ đi, tại sao mẹ trông vẫn còn trẻ như vậy, vì mẹ dạy trẻ em. Mẹ biết những gì Yamada đã nói với con không? Hắn nói, “Này Ken, mẹ cậu trông như Ingrid Bergman1 trong phim Chuông nguyện hồn ai vậy.”
1 Ingrid Bergman (1915–1982): Diễn viên nổi tiếng người Thụy Điển.
Cái áo choàng này màu kem, cái khóa trước ngực là đường chéo màu cam mượt như tơ và tất cả những thứ khác từ vớ, giày, quần, áo len đều hợp gu với nhau. Soi mình trong gương cười nhăn nhở, tôi xoa một ít kem cạo râu của cha tôi và tưởng tượng mình đang đi dạo qua làng chài nhỏ và hỏi người dân ở đây “Những con cá kia là phơi khô à? Chắc chúng là cá khô nhỉ?” và người ta sẽ nghĩ tôi đến từ Tokyo.
Jane ngồi đợi tôi trong cái áo choàng xanh hải quân, mang giày buộc dây, tay nàng xách một cái giỏ. Khi tôi rẽ đám đông đến chỗ đôi mắt nai, và cốc đầu thằng bé đang hát bài Jingle Bells, tôi nghĩ nó y chang như một cảnh phim vậy.
Nếu mọi người đều cảm nhận được như tôi vào lúc này, diện cái áo len hợp gu với áo khoác hiệu McGregor và chuẩn bị chuyến du lịch nhỏ với em gái mắt nai Bambi ngơ ngác vào đêm Noel, thì mọi xung đột trên thế giới này sẽ biến mất. Những nụ cười rạng rỡ sẽ ngự trị thế gian này.
Đích đến của chúng tôi là Karatsu.
Xe bus gần như không có ai, ngoại trừ những fan của ban nhạc Simon & Garfunkel tài hoa và nhạy cảm như chúng tôi, thì chỉ có những người mà gia đình tan vỡ không thể sum họp mới đi biển vào ngày Noel để tự tử.
Karatsu nổi tiếng với những cây thông đẹp, bãi biển sóng lớn và đồ gốm.
“Em có tính vào đại học không?” Tôi hỏi nàng. “Có chứ anh.”
“Em tính thi vào trường nào chưa?”
“Em đã nộp đơn vào trường Tsuda, trường nữ ở Tokyo và Tonju.”
Tôi không biết rõ về những tạp chí giới thiệu các trường đại học, nên tôi không biết trường Tonju là cái gì. Dù vậy, nghe thấy cái tên hay hay và tôi bảo có thể tôi sẽ nộp đơn vào đó.
“Cái gì cơ?”, thiên thần cười, “Tonju là trường Cao đẳng Nữ Tokyo mà anh.”
“Anh biết chứ. Anh chỉ đùa thôi mà.” Tôi nói, mặt đỏ như gấc.
“Anh tính thi vào trường nào vậy? Lớp anh đều thi vào y khoa cả mà đúng không?”
“Chín mươi phần trăm là vậy. Nhưng anh không có cơ hội vào trường y đâu.”
“Không à? Em nghĩ sẽ rất tuyệt nếu được một bác sĩ như anh chăm sóc đấy.”
Tôi cố gắng hiểu điều nàng muốn ám chỉ. Có phải nàng muốn tôi cởi áo nàng ra để khám phá bầu ngực hay là để nàng nằm xuống, duỗi chân ra. Trí tưởng tượng phong phú đã ăn sâu vào máu tôi từ lâu rồi. Nhưng chúng tôi vẫn còn ngồi trên xe bus vì thế tôi tập trung nhìn vào tấm hình của Adama và nhờ hắn xua tan ý nghĩ đen tối này đi. Điều đó giúp tôi bình tĩnh trở lại.
Điểm dừng cuối cùng của xe bus là thị trấn Karatsu, người soát vé bảo họ sẽ không đi theo con đường dẫn đến bãi biển trong mùa vắng khách. Tôi nghĩ hắn ghen tị nên nói thế.
Chỉ đi một lát là đến biển. Tôi bắt đầu tính, hiện tại là mười giờ sáng. Chúng tôi sẽ đến biển lúc mười giờ rưỡi và chúng tôi sẽ ở đó trong bao lâu? Trong giỏ của nàng chắc chắn có bữa ăn trưa cho chúng tôi, nhưng ngay cả khi nhâm nhi hết những mẩu vụn bánh mì, chúng tôi vẫn còn nhiều thời gian. Chúng tôi bắt đầu ngồi trong gió lạnh không biết làm gì và quyết định quay về sớm. Điều tôi muốn là ngắm nhìn cảnh hoàng hôn lãng mạn, với niềm xúc cảm nhẹ nhàng khi nhìn bầu trời đỏ tía, khi không khí xung quanh giống như rượu sẽ làm người phụ nữ mất hết lý trí.
“Em thích xem phim không?” Tôi hỏi nàng.
Trong lối vào khu mua sắm Karatsu có một rạp chiếu phim. Họ đang chiếu phim Máu lạnh. Đúng ra họ nên đặt tên là Chuyến du lịch thất bại.
“Thích ạ.” Thiên thần trả lời.
“Người ta đang chiếu phim Máu lạnh đấy. Em có biết phim đó không?”
Tôi giả vờ như mình biết tuốt. “Không ạ.”
“Nó dựa trên quyển sách của tác giả tên Truman Capote1. Nó là một kiệt tác của thời chúng ta đấy.”
1 Truman Capote (1924–1984): Nhà văn đồng tính của Mỹ.
Và bởi vì tôi muốn ngắm biển lúc hoàng hôn, nên chúng tôi quyết định xem bộ phim mà chắc chắn nó không dành cho lứa đôi mười bảy đang chờ mong nụ hôn đầu.
Bộ phim là một bức tranh trung thực về hai người đàn ông nghèo khổ đã giết sạch một gia đình và cuối cùng bị chết trên ghế điện. Những nam diễn viên vào vai không hợp ý nhau, phim thì là phim đen trắng, những cảnh bóp cổ thì quá hiện thực hơn mức cần thiết đến nỗi tôi phải quay mặt đi. Rạp phim thì hư, ghế ngồi cũ kỹ, ngửi mùi như một cái nhà vệ sinh vậy.
Bộ phim Máu lạnh dài hai giờ bốn mươi phút, là câu chuyện về tội ác thật sự khủng khiếp, căng thẳng đến phút cuối cùng. Thiên thần che mắt lại và thì thầm “Trời ơi, không, không thể nào tin được”.
Chính tôi cũng quá mệt mỏi và hối tiếc sao mình không nghĩ ra điều gì để nói với nàng sau đó.
“Bây giờ chúng ta ăn trưa nhé”, nàng nói khi chúng tôi ra đến bờ biển gió lồng lộng. Thiên thần lấy từ trong giỏ ra vài ổ bánh mì sandwich cuộn trong giấy bạc, bơ, trà bông, trứng, rau cải, rau mùi tây và những chiếc khăn tay nhỏ dùng làm khăn ăn. Có cả gà nướng nữa.
Những miếng thịt gà được cuộn tròn và dùng dây lụa hồng cột lại, rất dễ ăn.
“Trông ngon quá!”, tôi nói chân thành, nhưng sự choáng váng khi xem bộ phim Máu lạnh vẫn còn, và tôi cảm thấy như thể miệng, thực quản, bao tử tôi được chà bằng giấy nhám. Dù vậy, tôi cũng phùng mang trợn mắt nuốt ổ bánh mì.
Gió thổi mạnh, phía xa biển, những cái mũ trắng tung lên tung xuống, thỉnh thoảng cát cuộn xoáy vào chúng tôi làm chúng tôi phải che mặt và đóng giỏ đồ ăn lại.
“Phim đó kinh quá anh nhỉ?”, nàng nói khi rót cho tôi một ly nước từ chiếc bình thủy.
“Ý em nói là xem khá mệt mỏi đúng không?” “Đúng vậy ạ.”
“Xin lỗi em.” “Tại sao cơ?”
“Vì đã mất công hẹn hò nhau mà lại bắt em phải xem bộ phim như vậy.”
“Nhưng đó là kiệt tác phải không?” “Ừ, anh đọc trên tạp chí mà.”
“Nhưng em nghĩ chúng ta cũng nên xem những thứ như vậy.”
“À.”
“Em đang tự hỏi là liệu chúng ta có cần một kiệt tác như thế không?”
“Ý em là sao?”
“Nó là một câu chuyện thật đúng không?” “Đúng. Chuyện đó đã xảy ra.”
“Nhưng tại sao họ lại làm phim về nó nhỉ? Em biết…”
“Biết gì?”
“Em biết trên thế giới này vẫn tồn tại cái ác…, như những trại tập trung phát xít, tại sao họ không làm thành phim, vì lý do nào?”
Tôi không có câu trả lời dù tôi hiểu những gì nàng nói. Có câu trả lời nào cho đôi mắt nai ngơ ngác hỏi mình tại sao người ta mãi đi chém giết nhau?
Kazuko Matsui là một cô gái đáng yêu, xinh đẹp, được nuôi dưỡng trong môi trường đầy tình thương yêu. Có lẽ thế giới được miêu tả trong truyện của Capote là một cái nhìn khác, có lẽ đó là điều cần thiết để nhìn vấn đề cho đúng đắn hơn, nhưng cuối cùng điều gì là quan trọng đặt ra cho cuộc đời nàng “cuộc đời như tiếng đàn của Brain Jones1”.
1 Brain Jones (1942–1969): Thành viên của ban nhạc Rolling Stones.
Bỏ mặc những ổ bánh mì còn dang dở, chúng tôi trở về bỏ lại bãi biển mùa đông, và vẫn chưa từng hôn nhau.
Năm 1969 của tôi kết thúc như vậy đấy.
* * *
Hiện tại, Adama là một mạnh thường quân ở Fukuoka. Là người xuất thân từ vùng tỉnh lẻ hoang vu sống bằng nghề khai thác than, nên anh cố gắng thoát ra, tìm kiếm một nghề nghiệp càng hiện đại càng Tây hóa càng tốt. Sau khi bước vào con đường văn chương được chín năm, quyển tiểu thuyết đầu tay của tôi bán rất chạy và gây nhiều tranh cãi. Adama đến tìm tôi tại một khách sạn cao ngất ở Akasaka, nơi tôi đang mai danh ẩn tích để tiếp tục viết tác phẩm thứ hai. Không giống như bây giờ, lúc đó tôi thấy ngượng nghịu khi gặp lại anh ta. Từ khi đột nhiên trở thành nổi tiếng, tôi chịu áp lực rất lớn, nên không thể không thận trọng với những gì gợi lại cuộc sống điên dại của tôi trước đây. Chúng tôi hầu như không nói gì. Adama uống một tách cà phê ấm rót từ trong bình thủy của khách sạn rồi ra về. Sau này, khi tự mình uống thử ly cà phê, tôi cảm thấy hoàn toàn ngớ ngẩn khi mời người bạn đã cùng mình trải qua những tháng ngày của tuổi mười bảy uống thứ cà phê dở tệ như vậy.
Fuku-chan, tay chơi guitar bass và cũng là ca sĩ, hiện giờ cũng sống ở Fukuoka. Anh ta có một cửa hàng đĩa, đa số là đĩa nhạc jazz và đôi khi cũng dàn dựng các buổi hòa nhạc. Anh ta thường gửi cho tôi những đĩa mới về những điệu nhảy của Mỹ La tinh hay những đĩa hát điệu nhạc Tây Ấn. Mỗi khi gặp nhau, chúng tôi cùng nhau hát bài của Janis Joplin, và khi quên mất lời, lại tiếp tục điệp khúc không biết đâu, hổng biết đâu.
Đã nhiều năm rồi tôi không nghe tin về Otaki và Narushima, lãnh đạo Ủy ban kháng chiến trường Bắc. Nhưng khi mới lên Tokyo lần đầu tiên để thi vào đại học, tôi đã ghé qua nhà trọ của hai người. Rải rác trong phòng là mũ bảo hiểm, gậy gỗ, và truyền đơn, có cả một cô gái đang ở đó trong bộ áo cánh quần jeans với khuôn mặt không trang điểm. Chúng tôi đã cùng nghe vài bài ca phản chiến và ăn vài tô mì ăn liền.
Trưởng nhóm Mềm, Yuji Shirokushi, giờ là bác sĩ. Tôi có gặp một lần khi anh ta còn học trường y. Anh ta nói trong tất cả cô gái ở quán bar và những cô gái vũ thoát y mà anh ta đã gặp tại động điếm, thì chỉ có hai người từ chối ngủ qua đêm với anh ta khi anh cho họ xem thẻ sinh viên trường y của mình.
Từ lâu thần nữ Yumi “Ann-Margret” Sato đã có một gia đình hạnh phúc và vẫn ở Sasebo như tôi biết.
Vào thời gian đầu khi mới lên Tokyo, tôi hay gặp Iwase, nhưng tôi đã không còn liên lạc với anh ấy trong nhiều năm qua. Có người bảo tôi rằng anh ta chơi guitar và hát trong hộp đêm vũ thoát y ở dưới phố, nhưng tôi không biết là có đúng vậy không. Tới lúc đó, anh ta sống chung với cô gái có mơ ước trở thành họa sĩ, nhưng lần cuối cùng gặp lại, Iwase nói với tôi là hai người đã chia tay.
Mie Nagayama trở thành thợ trang điểm.
Sasaki, vị thám tử đã từng chất vấn tôi, thường gửi cho tôi thiệp chúc mừng năm mới.
Chúc mừng năm mới, những thanh thiếu niên phạm pháp ngày hôm nay không có điều gì hấp dẫn cả…
“Tên mặt mụn”, thủ lĩnh nhóm Găng tơ của trường Kỹ thuật Công nghiệp bị mất bốn ngón tay phải vì máy ép dùng sức nước khi đang làm việc ở khu công nghiệp nặng Sasebo. Anh ta đã không còn học kiếm đạo được nữa.
Tên yakuza lai da đen cứ thẳng tiến và hiện tại làm chủ quán cà phê ở Sasebo. Chữ ký của tôi được đóng khung treo trên tường trong quán cà phê của hắn.
Kawasaki và Aihara, những huấn luyện viên thể dục đã tìm việc ở những trường khác và không còn ở Sasebo nữa.
Thầy chủ nhiệm tôi, Matsunaga, không còn làm việc ở trường Bắc nữa mà đã chuyển đến dạy một trường nữ sinh nào đó. Gần đây, ông ta lại quở mắng tôi cũng với giọng điệu như khi tôi còn là học sinh của ông ấy:
“Yazaki này, cắt tóc đi, em trông ghê quá.”
Tên phó chủ tịch hội học sinh, gã đã từng nắm cổ áo tôi và la hét sau khi tôi phong tỏa trường học, đã tham gia vào phe quân đội đỏ khi học đại học ở Kyoto, sau đó hắn bị tóm cổ ở Singapore.
Nakamura, lừng danh với phi vụ “ỉa chảy”, hiện giờ làm PR ở Nagazaki, tôi giáp mặt với anh ta khi đến đây giảng bài. Anh ta có đọc tiểu thuyết này trên tạp chí hằng tháng và nói với tôi, “Mình luôn sợ cậu sẽ viết phi vụ đó, và giờ đúng như vậy, cậu đã viết ra rồi.” Anh ta trông có vẻ hài lòng.
Câu chuyện tình yêu của tôi với thiên thần Kazuko “Lady Jane” Matsui kết thúc vào một ngày Chủ nhật mưa rơi tháng Hai năm 1970 sau khi nàng đã thay lòng đổi dạ.
Thiên thần đã tìm cho mình một người bạn trai lớn tuổi hơn.
Anh ta học Đại học Y ở Kyushu trong khi nàng học ở Tonju. Chúng tôi vẫn thỉnh thoảng gặp nhau cho dù giờ đây chúng tôi “chỉ là bạn bè thôi”. Cho đến một ngày, trong công viên, nơi có những cây anh đào đang trút những cánh hoa cuối cùng, nàng báo tin rằng mình sẽ sang sông với người ấy. Tối hôm đó, tôi đã uống cạn một chai Whisky Kaku, nửa chai rượu trắng Sunory, một chai vang đỏ và ăn hết hai đĩa cà ri, hai bát bò hầm. Sau đó, vào lúc sáng sớm, tôi lấy sáo ra chơi, kết quả là tên yakuza nhỏ tuổi sống chung căn hộ với tôi phàn nàn là tôi làm hắn mất ngủ và thụi tôi bốn quả vào mặt.
Từ khi trở thành nhà văn, tôi nhận được một vài lá thư của nàng và một cuộc điện thoại. Lúc nàng gọi, tôi đang nghe bài Alone Alone của Boz Scaggs1.
1 Boz Scaggs, tên khai sinh William Royce Scaggs (sinh năm 1944): Ca sĩ, nhạc sĩ, nghệ sĩ guitar người Mỹ.
“Đó có phải là bài của Boz Scaggs không?” “Ừ.”
“Anh vẫn còn nghe Paul Simon1 chứ?” “Không, không nghe nữa rồi.”
1 Paul Frederic Simon (sinh năm 1941): Nhạc sĩ người Mỹ.
“Em cũng nghĩ vậy. Em thì thỉnh thoảng vẫn còn nghe.”
“Dạo này em ra sao rồi?”
Nàng không trả lời câu hỏi đó. Và vài ngày sau nàng gửi cho tôi một lá thư:
Khi nghe giọng nói của anh trên nền nhạc của Boz Scaggs em như trở về thuở học trò. Em cũng thích Boz Scaggs, nhưng giờ em không nghe nữa. Cuộc sống của em trong vòng một năm qua ngày càng trở nên tồi tệ, vì thế em nghe Tom Waite2 rất nhiều. Em muốn quên đi sự tồi tệ này nhưng em nghĩ cách duy nhất khả thi là bắt đầu một cuộc sống mới…
2 Tom Waite, tên khai sinh là Thomas Alan Waits (sinh năm 1949): Ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên người Mỹ.
Cuối thư nàng viết một dòng tiếng Anh từ bản nhạc của Paul Simon:
Vẫn điên rồ sau bấy nhiêu năm…
Những con gà tham gia trong Đại nhạc hội Bình minh dựng đứng được Adama thả về núi gần nhà anh ấy sau khi những mỏ than đã đóng cửa. Đã có lần chúng được báo địa phương đăng lên.
GÀ HOANG DÃ PHẠM VI GIỚI HẠN MƯỜI MÉT
Hết