G
à à?”
Adama nói lớn hơn mức cần thiết. Đó là vào bữa trưa trước bốn ngày khai mạc Đại nhạc hội Bình minh dựng đứng.
Chúng tôi đã chuẩn bị hoàn tất. Nhờ sự diễn xuất tuyệt vời của Margret, cách diễn xuất đẫm nước mắt của nàng và sự can thiệp của cha Saburo, kịch bản Bên kia biển máu của phản kháng và nổi loạn thì khác xa với những phác thảo ban đầu của tôi, nhưng chúng tôi đã diễn tập xong và sẵn sàng lên sân khấu.
Tôi cũng đã biên tập xong bộ phim, và cũng sắp xếp chỗ an toàn để đặt máy chiếu, cùng dàn âm thanh.
“Gà à?” Adama lặp lại lần nữa.
“Đúng vậy. Mình cần khoảng hai mươi con nhưng nếu không thì tám con cũng được. Cậu biết nơi nào bán nó không?”
“Ở tiệm thịt đấy. Nhưng chúng ta có thể ăn hết tám con gà một lúc à?” Chắc hắn nghĩ tôi cần gà để liên hoan sau buổi đại nhạc hội.
“Cậu đoán sai rồi, mình muốn gà sống cơ.”
“Để làm cái quái gì chứ? Đừng nói với tớ là cậu sẽ vặt cổ, xé thành miếng và uống máu gà trên khán đài à nhe?”
Tôi đưa cho hắn xem một tấm hình mà tôi đã xé ra trong tờ Nghệ thuật ngày nay. Đó là hình chụp buổi hòa nhạc Velvet Underground1 trong một phòng khiêu vũ ở New York. Nền nhà đầy những heo, bò, những lồng kính nhốt đầy chuột, con vẹt đậu trên cành, một con tinh tinh đang bị xích, và có cả hai con hổ đang bị nhốt trong cũi nữa.
1 Ban nhạc rock nổi tiếng của Mỹ, thành lập năm 1965.
“Tuyệt đấy chứ phải không?”
“Cọp, khỉ, vẹt, à thật là tuyệt, nhưng còn gà thì sao, giống như một trại ấp trứng vậy.”
“Chỗ này cậu sai rồi.” Thường thì khi chơi trò chơi trí tuệ, tôi chọn từ rất cẩn thận. “Điều quan trọng là tinh thần ẩn đằng sau kia. Lou Reed1 dùng chim và thú trong buổi hòa nhạc để nói đến sự hỗn loạn của thế giới hôm nay. Ít nhất thì chúng ta cũng có thể làm một biểu tượng như vậy chứ.”
1 Lewis Allan Reed (sinh năm 1942) được biết đến với cái tên Lou Reed, ông là ca sĩ, nhạc sĩ rock, nghệ sĩ guitar người Mỹ. Một trong những thành viên của ban nhạc Velvet Underground.
Adama giờ đã biết rõ ý định của tôi là chôm chỉa từ người khác. Hắn khịt mũi và nói:
“Với những con gà à? Cậu định dùng gà để ám chỉ sự hỗn loạn của thế giới ư?”
Bất cứ làm việc gì, Adama rất sáng tạo. Hắn nói sẽ gọi cho một người quen có một trại gia cầm gần núi xỉ than. Adama là một người rất trung thành nhưng đối với tôi thì không. Hắn rất cả tin nhưng lại không tin tôi. Hắn tin vào bầu không khí mà chúng tôi thở vào những năm cuối thập niên sáu mươi, hắn trung thành với điều đó. Nhưng giải thích chúng thật chẳng dễ dàng gì.
Dù sao đi nữa. Bầu không khí đó cũng làm cho chúng tôi tự do. Nó cứu chúng tôi thoát khỏi sự giới hạn của những giá trị đơn thuần.
Tối đó, chúng tôi đến nông trại.
Chúng tôi có thể cảm thấy hương vị nhẹ nhàng, thoang thoảng của cánh đồng khoai tây rộng bạt ngàn, mùi phân gà bay ngào ngạt và từ một khoảng cách xa, tiếng kêu cục cục của hàng trăm con gà nghe như tĩnh điện trên radio.
“Các cậu sẽ làm gì với mấy con gà vậy?” Người chủ chạy ra khi chúng tôi bước vào trong. Người đàn ông trung niên, nhỏ con, đầu hói này thật giống y như bạn hình dung về chủ trại gà.
“Chúng tôi định sử dụng chúng trong vở kịch.” “Kịch à, kịch gì vậy? Có phải kịch về trại gia cầm không?”
“Không, là kịch của Shakespeare, và không thể trình diễn nếu không có gà.”
Người chủ trại này không biết Shakespeare là ai cả. Nơi góc tối phía cuối nhà kho, có khoảng hai mươi con gà bơ phờ nằm chụm lại với nhau, gục đầu mệt mỏi. Người đàn ông chụp lấy và bỏ chúng vào bao tải đựng thức ăn, cứ hai con vào một bao. Chúng chống cự, đập cánh vài lần rồi bỏ cuộc nằm ủ rũ.
“Thoải mái đi mấy chú gà.” Adama nói. “Chúng bị bệnh đấy.” Ông chủ trại gà nói. “Bệnh à?”
“Ừ, cậu không thấy mắt chúng lờ đờ à?” “Không phải là bệnh dịch chứ?” Tôi hỏi.
Người đàn ông cười lớn, “Đừng lo về chuyện đó, sau vở kịch, cậu có thể vặt cổ và ăn thịt chúng nếu cậu muốn. Chẳng có chuyện gì xảy ra đâu. Cái mà tôi nói bệnh đấy là… nếu là người, có thể ví chúng đang mắc bệnh tâm thần vậy.”
Ông giải thích luôn có vài con gà tự nhiên trở nên mệt mỏi và không ăn uống gì.
Tôi và Adama đứng đợi xe bus khi mặt trời đã chìm xuống chân trời, kéo chiếc bóng chúng tôi trải dài trên đường. Những con gà cứ lục cục và sột soạt liên hồi trong bốn cái túi mà chúng tôi mang theo.
“Adama này, tớ đã nói là càng rẻ càng tốt nhưng thử nhìn mấy con gà này xem. Chúng sắp chết hết rồi nè.”
Phải mang theo những con gà bị thần kinh bên mình, chúng tôi cảm thấy một chút sợ hãi. Không chỉ những con vật như gà, chó lợn mà ngay cả việc đi chung với người điên điên cũng làm ta mất tinh thần.
“Chỉ vì tớ nghe lời cậu đấy. Cậu không muốn chi phí nhiều bởi đã lỡ hứa với Matsui là dẫn nàng ấy đi ăn bít tết sau đại hội mà đúng không?”
“Hừ, ai bảo với cậu như thế?” “Sato chứ còn ai.”
“Đúng, Sato nói đúng, tớ dự định mời cậu và Sato cùng đi.”
“Láo toét. Cậu định dùng tiền vé để đi ăn tối riêng với Matsui mà.”
“Không, cậu chẳng hiểu gì cả.”
“Quên chuyện đó đi. Tất cả chúng ta sẽ cùng đi.”
“Tất cả à, thịt bò đắt lắm đấy người anh em.” “Chúng ta có thể đi đến quán Gekkin, tớ đã đặt chỗ trước rồi.”
Gekkin là quán ăn Trung Hoa dành cho công nhân, nổi tiếng có bánh bao nhân thịt tự làm. Mộng ước của tôi tan như bong bóng xà phòng. Tôi dự định ăn thịt và uống rượu chỉ với người tôi yêu. Tôi đã mời nàng đến nhà hàng ngon nhất ở Sasebo. Tôi định sẽ đưa nàng đi sau buổi biểu diễn, khi màu hoàng hôn đáng yêu của buổi chiều xuất hiện, tôi sẽ chụp hình nàng. Jane đã cười và gật đầu, dấu hiệu của sự đồng ý. Nhưng nàng lại tâm sự với Margret. Tôi không thể tin được. Hỡi Jane, sao em có thể làm như thế được?
“Nghe này Ken…” “Cái gì?”
“Tớ biết là cậu sắc sảo và thông minh hơn nhiều người nhưng…”
“Cám ơn, để xem, vậy tớ sẽ mời cậu và Sato cùng đi nhé.”
“Còn Iwase thì sao?”
“Ừ, cả Iwase nữa, cậu ấy cũng có mặt cùng chúng ta từ đầu đến cuối mà.”
“Còn Fuku-chan nữa, nếu không nhờ cậu ấy, chúng ta không thể nào mượn được dàn âm thanh, cậu biết chứ.”
“Biết rồi, biết rồi.”
“Rồi còn Shirokushi nữa chứ, cậu ấy bán được chín mươi vé đấy người anh em, và hãy xem cậu ấy đã giúp chúng ta dàn xếp với mấy tay ở trường Kỹ thuật Công nghiệp ra sao. Và Matsutabe cho chúng ta mượn camera. Narushima, Otaki, Nakamura, họ bán rất nhiều vé và hứa sẽ giúp đỡ chúng ta lắp đặt trang thiết bị.”
“Tớ thật sự cảm kích với những điều đó.”
“Ý cậu là sao, cậu cảm kích à? Nếu cậu muốn cám ơn họ, tốt nhất cậu hãy mời họ đi ăn sau buổi diễn. Sao, không đúng à? Tớ biết mình chẳng thể trông chờ điều đó nơi cậu, nhưng để tớ nói cậu nghe, khi Sato nói với tớ về bữa ăn bít tết đó, tớ thật sự cảm thấy buồn. Đúng là đại nhạc hội này là ý tưởng của cậu nhưng cậu sẽ không làm được nếu chỉ có một mình.”
Tôi nhận thấy sao mình lại ích kỷ như vậy, sự nhục nhã làm mắt tôi ứa lệ. À, nhưng không đúng vậy đâu. Trong mắt tôi hiện lên chập chờn hình ảnh tấm khăn trải bàn trắng tinh khiết, một nụ hồng cắm trong bình hoa, đồ dùng bằng bạc đắt tiền, một miếng thịt bò kêu xèo xèo, một ly rượu bằng pha lê dễ vỡ, và Jane ửng hồng đôi má. Một chút rượu nho chính hiệu, không giống như rượu vang đỏ mà tôi lén lút uống nhiều lần. Tôi đã từng đọc qua một đoạn rất hay trong tiểu thuyết rằng rượu vang đỏ “có thể làm cho người đàn bà mất hết lý trí”. Làm người đàn bà mất hết lý trí. Jane sẽ mất lý trí sao…
“Cậu đang cười toe toét gì đó hả thằng ngốc. Có phải cậu đang tưởng tượng mình đang uống rượu với Matsui và hôn nàng nồng cháy phải không?”
Tim tôi thắt lại. Con người Adama thiếu trí tưởng tượng nhưng hắn ta là thiên tài trong việc đọc suy nghĩ của người khác.
“Không, ngược lại cơ, tớ chỉ đang suy ngẫm về tính cách đê tiện của mình thôi.” Tôi nói rồi nhướng mày, hếch mũi lên, cố làm ra vẻ vui nhộn nhưng Adama không thèm cười.
Có lẽ vì giấc mơ về bít tết và rượu nho đã tan biến nên tôi cảm thấy ủy mị và tiếc cho mình khi nhìn lên bầu trời đang tối sẫm. Tôi tự hỏi làm thế quái nào mình lại đứng chờ xe bus ở vùng khỉ ho cò gáy có những mỏ than bỏ hoang thế này. Tôi hơi lo lắng là mình đã dùng hết sự kiên nhẫn của Adama với tôi.
“Tớ cho là cậu hết thuốc chữa rồi.” Hắn thì thầm, dường như hắn nói với chính mình hơn là nói với tôi.
“Cậu thuộc nhóm máu O phải không?” Tôi gật đầu.
“Người ta nói rằng người có nhóm máu O không quan tâm nhiều đến người khác, và cậu thuộc cung Song Ngư1 phải không? Người thuộc cung Song Ngư rất ích kỷ. À, và cậu cũng là đứa con trai duy nhất, và có quá nhiều người chống lại cậu. Cậu hết thuốc chữa rồi.”
1 Cung thứ mười hai trong Hoàng đạo.
Adama đã quên mất một điều nữa: Cung Song Ngư, nhóm máu O, là đứa con trai duy nhất, và là thú cưng của ông ngoại.
“Một người như cậu, một khi bỏ đi quan điểm xem mình là trung tâm vũ trụ, thì sẽ chẳng còn lại gì.”
Adama nhìn xuống bao đựng mấy con gà đang gục đầu ủ rũ.
“Ken này…”
“Không, nhưng mình thật sự muốn mời cậu và…” “Đừng để tâm nữa. Mình muốn nói là cậu có nhớ mình đã thấy những con gà này trông cô đơn như thế nào không?”
Hắn đang nhớ đến cảnh những con gà đang co cụm lại một góc, bị nhốt trong một nhà kho chật hẹp, tù túng. Bạn có thể là gà, hay là người, nhưng chỉ cần chút nổi loạn là ta biết được đời ta thuộc về chính bản thân ta.
“Khi kết thúc đại nhạc hội, thay vì bán chúng cho tiệm thịt tớ sẽ thả chúng đâu đó trên những ngọn núi này.” Adama kết luận trong khi vẫn nhìn săm soi vào những cái bao đựng gà.
Vào ngày lễ Tạ ơn lao động quang đãng và đẹp trời, gần năm trăm học sinh trung học tụ tập nơi quảng trường Công nhân.
Otaki, Narushima, Matsutabe, và những thành viên khác của cái gọi là Ủy ban kháng chiến trường Bắc đứng trước lối vào, phân phát truyền đơn với nội dung “phá tan buổi lễ tốt nghiệp”, rồi thỉnh thoảng đội mũ bảo hiểm và diễn thuyết. Shirokushi và băng đảng nhóm Mềm của hắn, tóc xịt keo thẳng tưng, đứng xung quanh trong bộ quần áo thể thao với những em gái trường Junwa và ở những nơi khác, truyền tay nhau chai rượu Whisky nửa lít rẻ tiền.
Các em gái khoe sắc đủ loại thời trang, nhiều em mặc đồng phục, nhưng ta có thể thấy những móng tay sơn đỏ, son môi, những bộ váy xếp li, váy thêu hoa, áo len hồng và quần jeans nữa…
Iwase đang đứng bán những tuyển tập thơ photo của cậu ấy với giá 10 yên một bản. Hắn chẳng bao giờ cho chúng tôi biết là hắn làm thơ. Tay thủ lĩnh trường Kỹ thuật Công nghiệp xuất hiện, không còn nghi ngờ gì là hắn đến chiêm ngưỡng Mie, nhưng hắn không mang theo kiếm. Bọn con trai mặt dày mày dạn ngượng ngập đỏ mặt khi một em gái trường Yamate đung đưa điếu thuốc giữa hai ngón tay sơn đỏ tiến đến trò chuyện. Bốn tên lính Mỹ đen hỏi liệu họ có thể vào trong được không, và tôi cho họ vào. Mọi điều đều được phép tại đại nhạc hội này, có lẽ chỉ trừ giết người thôi. Có cả ông chủ của quán Four Beat, người nữ phục vụ của quán Boulevard đến với một bó hồng dành cho Adama. Những em gái trong ban kịch Anh ngữ mang hàng triệu quả bong bóng thả đầy hội trường, và cả tên yakuza lai da đen đã giúp chúng tôi giải quyết rắc rối với tên mặt mụn, kéo lê một chiếc xe đẩy và hai tên đồng bọn đến bán thịt nướng.
Mie bước lên khán đài khi bản Giao hưởng số 3 của Bach vang lên. Mặc chiếc áo mỏng manh ngoài bộ đồ tắm, nàng cầm cái rìu và hướng đến những tấm áp phích có hình Tổng thống Lyndon Johnson và cổng chính trường Đại học Tokyo mà bổ xuống. Coelacanth bắt đầu chương trình đầu tiên của họ với bài Whole Lotta Love của Zepplin. Fuku-chan, như thường lệ, lại hát câu không biết đâu, hổng biết đâu liên hồi kỳ trận.
Margret là người nhảy đầu tiên, ngực nàng đung đưa trong cái áo sơ mi xanh. Nàng cố gắng bung nó ra trong vở kịch. Những tên lính Mỹ đen huýt sáo với nàng. Mie Nagayama bắt đầu nhảy, cái quần vải satin màu đen thường thấy bó sát người. Tôi xoay đèn chiếu vào hai người họ, cái áo bạc kim tuyến của Mie chiếu sáng lấp lánh. Như thể bị lôi cuốn bởi sự rực rỡ đó, ngày càng có nhiều người tham gia. Vòng tròn nhảy múa lớn dần lên và bong bóng bắt đầu nổ. Coelacanth chơi ba lần, giữa phần nghỉ chơi nhạc, chúng tôi diễn kịch và chiếu phim. Iwase cười toe toét và đỏ mặt khi nhìn thấy khuôn mặt hắn chiếu trên màn hình. Anh bạn yakuza của tôi đến và nói rằng hắn chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì bộ phim cả nhưng hắn sẽ không bỏ đi. Thật sự, chẳng có ai về sớm cả. Thiên thần đứng bên tôi suốt buổi. Coelacanth biểu diễn Lời ru nước mắt trong màn hai, thiên thần và tôi nhìn nhau, mặt đối mặt, cùng lắc lư theo tiếng nhạc.
Sau một chầu bánh bao, uống bia, và cười thỏa chí, Adama sắp xếp để tôi và Jane có thể đi dạo cùng nhau bên bờ sông. Để đền bù cho bữa ăn có thắp nến của chúng tôi đã bị phá hủy, Adama đề nghị một cuộc đi dạo thân mật vào một buổi tối mùa thu.
Ánh trăng phản chiếu xuống dòng sông lấp lánh. “Mọi thứ trôi qua nhanh quá”, thiên thần nói,
“Anh có nghĩ là em được không?”
“Trong phim đấy à?”
“Vâng. Em trông có buồn cười không?” “Không đâu.”
Tôi muốn nói “em đẹp lắm” nhưng cổ họng khô rang và tôi không thốt ra được lời nào cả. Cạnh con đường dọc bờ sông là một công viên nhỏ, có bập bênh và xích đu. Hai chúng tôi ngồi bên nhau trên ghế xích đu. Tiếng kêu ken két của nó nghe ra còn hấp dẫn hơn tiếng guitar solo của Jimi Hendrix.
“Anh luôn gợi em nhớ đến một người nào đó.” Thiên thần nói, “Hôm nay em đã biết đó là ai.”
“Ai thế?”
“Chūya Nakahara1.”
1 Chūya Nakahara (1907–1937): Nhà thơ người Nhật.
Đầu óc tôi cứ bấn loạn cả lên và lúc đầu tôi không biết đó là ai cả. Tôi không hề nhớ bất cứ nam diễn viên nào có tên như thế. Nhưng chưa ai bảo tôi giống diễn viên điện ảnh cả. Và tôi chợt nhớ ra: Chūya Nakahara là một nhà thơ, tài hoa đoản mệnh.
“Jane này…” Tim tôi tưởng như sắp vỡ tung ra, nhưng cuối cùng tôi quyết định nói, “Em đã từng hôn bao giờ chưa?”
Nàng cười. Tôi thấy mắc cỡ quá, đỏ hết cả mặt mũi chân tay. Sau một lúc im lặng, nàng nhìn vào mắt tôi và lắc đầu.
“Lạ lắm phải không anh?” Nàng nói, “Có phải mọi người đều làm thế à?”
“Anh chẳng biết nữa.” Đó là một câu trả lời ngu xuẩn, nhưng đó là câu hay nhất mà tôi có thể nghĩ ra.
“Thật buồn cười, em thích những bài tình ca của Dylan và Donovan, nhưng em chưa từng hôn ai cả.” Cả hai đứa tôi đều thôi đung đưa xích đu, thiên thần nhắm mắt lại. Tim tôi đập thình thịch như muốn nói cố lên, cố lên, cố lên. Tôi bước ra khỏi xích đu và đứng trước mặt nàng. Hai đầu gối tôi lẩy bẩy vô vọng, toàn cơ thể tôi run lên như vầng trăng sóng sánh trên mặt hồ. Thật khó thở quá. Tôi muốn bỏ chạy. Nhưng tôi cúi xuống và nhìn vào đôi môi thiên thần. Nó như một sinh vật sống đẹp lạ lùng, không giống như bất cứ thứ gì tôi từng thấy trước đây, đôi môi đẹp màu hồng phấn run rẩy dưới ánh trăng dìu dịu và ánh đèn đường. Tôi run rẩy và không đủ can đảm để chạm vào nó.
“Jane này”, tôi thì thầm và nàng mở mắt, “Mùa đông này chúng ta đi biển nghe em.”
Đó là tất cả những gì tôi có thể nói. Thiên thần mỉm cười và gật đầu.