Các kiến trúc sư bờ Đông và Chicago gặp lại nhau vào sáng thứ Hai, ngày 12 tháng 1, tại thư viện của Burnham & Root ở tầng trên cùng của tòa nhà Rookery. Root vắng mặt. William R. Mead đến từ New York thế chỗ cho McKim đang chịu tang. Trong khi chờ đợi mọi người đến đông đủ, những người đến trước tới cửa sổ phía Đông của thư viện và ngắm nhìn sự bao la của hồ Michigan. Ánh sáng tràn vào căn phòng mãnh liệt phi thường, mang theo sự rạng rỡ của hồ và bờ đê lạnh giá.
Burnham đứng dậy chào đón mọi người, nhưng ông có vẻ không thoải mái. Ông đã nhận thức được sự dè dặt của những người bờ Đông và dường như quyết tâm thuyết phục họ bằng cách dội lên họ những lời khen ngợi mãnh liệt như xức nước thánh - một chiến thuật mà Louis Sullivan biết Burnham sử dụng cực kỳ hiệu quả. “Mặc dù bản thân ông ấy không dễ bị tâng bốc bởi những lời khen tình cảm, nhưng ông ấy lại sớm nhận ra hiệu quả của chúng khi tâng bốc những doanh nhân lớn,” Sullivan viết. “Louis đã nhiều lần chứng kiến chuyện đó, lúc đầu rất ngạc nhiên khi thấy Burnham mặt dày như vậy và càng ngạc nhiên khi thấy đối phương phổng mũi thế nào trước lời khen. Phương pháp này thô thiển nhưng hiệu quả.”
Theo Sullivan, “Rất nhanh chóng tôi nhận ra rằng anh ta không nể nang mà đang liên tục xin lỗi những người bờ Đông vì sự hiện diện của những đồng nghiệp dốt nát từ bờ Tây.”
Hunt cũng nhận thấy điều này. “Mẹ kiếp,” ông ngắt lời, “chúng tôi không đến đây để truyền giáo. Hãy bắt tay vào việc.”
Những lời thỏa thuận thì thầm xuất hiện khắp phòng. Adler vui; Sullivan cười. Olmsted theo dõi họ một cách ngây ngô, chịu đựng tiếng ầm ầm không hề thuyên giảm trong tai mình. Hunt nhăn mặt; chuyến đi từ New York và chuyến tham quan đến công viên Jackson đã khiến bệnh gout của ông tệ hơn.
Sự bực dọc của Hunt khiến Burnham giật mình. Nó dội lại trong ông những lần ông cảm thấy bị xúc phạm, từ thái độ thờ ơ của bờ Đông đến lời từ chối của Harvard và Yale; nhưng những gì nó mang lại cho căn phòng đã khiến Burnham tập trung vào công việc trước mắt. Theo lời Sullivan, “Burnham thoát ra khỏi trạng thái mộng du của mình và tham gia vào cuộc thảo luận. Anh ta đủ thông minh để hiểu rằng “Chú Dick” - tức Hunt - “đã giúp anh ta rất đúng lúc.”
Burnham nói với mọi người rằng từ lúc này họ sẽ là Hội đồng Kiến trúc sư của hội chợ. Ông mời họ chọn một chủ tịch. Họ bầu Hunt. “Ưu thế tự nhiên của người thầy giáo lại mặc nhiên tự khẳng định mình,” Van Brunt viết, “và chúng tôi một lần nữa tự nguyện trở thành những học sinh vui vẻ.”
Với vị trí thư kí, họ bầu Sullivan, người chắc chắn không phải là một học sinh vui vẻ của Hunt. Đối với ông, Hunt là Cấm vệ quân của một vương quốc đã chết. Burnham cũng vậy. Cả hai người đàn ông tượng trưng cho tất cả những gì cản trở các chuẩn mực đang nổi lên trong Sullivan rằng chức năng của một tòa nhà nên được thể hiện thông qua thiết kế của nó - không chỉ đơn thuần ở việc hình thức cần phải tuân theo chức năng, mà còn ở việc “các chức năng tạo ra hoặc định hình hình thức của tòa nhà đó.”
Với Sullivan, Hunt chỉ đơn thuần là một cổ vật, nhưng Burnham nguy hiểm hơn nhiều. Sullivan nhận thấy trong Burnham một nỗi ám ảnh tương tự như mình. Sullivan đã nhận ra nền kiến trúc Chicago gần như bị chi phối bởi chỉ hai công ty: Burnham & Root và Adler & Sullivan. “Trong mỗi công ty là một người đàn ông với một mục đích xuyên suốt trong cuộc sống, vì nó anh ta sẵn sàng bẻ cong hoặc hi sinh tất cả,” Sullivan viết, “Daniel Burnham bị ám ảnh bởi tư tưởng phong kiến về quyền lực. Louis Sullivan bị ám ảnh vì tư tưởng từ thiện của Dân chủ.” Sullivan ngưỡng mộ cả Root và Adler nhưng tin rằng họ ít có ảnh hưởng hơn. “John Root sống buông thả đến mức ông ta có nguy cơ không bao giờ sử dụng hết được khả năng tiềm ẩn của mình; Adler về cơ bản chỉ là một kĩ thuật viên, một kĩ sư, một quản trị viên tỉ mỉ... Rõ ràng, Adler không có đủ trí tưởng tượng; cả John Root cũng vậy - trí tưởng tượng của những người dám mơ mộng. Trong giấc mơ và trí tưởng tượng ấy chỉ có sức mạnh của Burnham và niềm đam mê của Louis.”
Trước buổi trưa, Burnham rời phòng để nghe điện thoại từ Dora Root. Cô nói với ông rằng chồng cô bị cảm nặng và sẽ không thể tham dự cuộc họp. Vài giờ sau đó, cô gọi lại: Một bác sĩ đã đến và chẩn đoán chứng viêm phổi.
Tinh thần Root vẫn tốt. Ông vẫn bông đùa và phác thảo, “Tôi đã không thoát khỏi bệnh tật suốt cả cuộc đời để bây giờ bị hạ một cách dễ dàng như vậy,” ông nói với Harriet Monroe. “Tôi biết nếu tôi ra đi, hẳn sẽ là vì một gã Tartar34.”
34 Tartar (Thát-đát), tên chỉ chung các bộ tộc du mục gốc Thổ sống ở các miền Trung và Nam nước Nga, Ukraine, Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Quốc, Belarus... Vào thế kỷ 13, tổ tiên của các bộ tộc này hợp chủng bằng hôn nhân với quân Mông Cổ lúc đó đang thống trị châu Á và nước Nga. Quân Mông Cổ khi ấy cũng tự nhận mình là người Tartar (Thát-đát).
***
Các kiến trúc sư tiếp tục thảo luận mà không có Burnham, ông ở lại luôn bên cạnh giường bệnh đối tác của mình, ngoại trừ thỉnh thoảng ra ngoài giúp giải quyết các vấn đề tại thư viện hoặc đến thăm Hunt - bệnh gout đã khiến ông đau đớn đến mức chỉ có thể ở trong phòng mình tại khách sạn Wellington. Root đùa giỡn với các y tá của mình. Tại cuộc họp hàng tuần diễn ra vào thứ Tư, Ủy ban Nhà đất đã chúc Root hồi phục nhanh chóng. Ngày hôm đó Burnham viết cho một kiến trúc sư ở Chicago tên là W. W. Boyington, “Root khá ốm yếu và không chắc sẽ phục hồi, nhưng vẫn còn cơ hội cho anh ấy.”
Vào thứ Năm Root, dường như hồi phục. Burnham viết cho Boyington, “Sáng nay tôi đã có thể đem đến cho ngài một tin tốt lành hơn. Anh ấy đã có một đêm khá ổn và đang dần hồi phục. Mặc dù hiểm nguy vẫn chưa kết thúc, chúng tôi đã có nhiều hi vọng hơn.”
***
Sự nhiệt tình của các kiến trúc sư tăng lên. Hunt vẫn phải nằm liệt giường, Post trở thành Chủ tịch. Ông và Van Brunt đi đi về về khách sạn của Hunt như con thoi. Các kiến trúc sư đã phê duyệt bản kế hoạch gốc trên giấy nâu của Burnham, Olmsted và Root với một vài thay đổi. Họ đã quyết định kích thước của các tòa nhà chính và vị trí của chúng tại hội chợ. Họ đã chọn một phong cách thống nhất là tân cổ điển, có nghĩa là các tòa nhà sẽ có những cây cột và những bức tường gợi nhớ đến thời kỳ hưng thịnh của đế chế La Mã cổ đại. Sullivan ghét cay ghét đắng lựa chọn này, ông cũng căm ghét kiến trúc phái sinh, nhưng trong cuộc họp ông đã không phản đối. Các kiến trúc sư cũng đã đưa ra quyết định sau đó sẽ trở thành một trong những quyết định quan trọng nhất của hội chợ: Họ thiết lập một giới hạn chiều cao đồng đều, mười tám mét ba, cho gờ của mỗi cung điện của đại sảnh. Gờ chỉ đơn thuần là một hình thức trang trí theo chiều ngang. Tường, mái nhà, mái vòm và cổng vòm có thể cao hơn, nhưng bằng cách thiết lập điểm tương đồng này, kiến trúc sư đảm bảo sự hài hòa giữa các công trình đường bệ nhất của hội chợ.
Vào khoảng bốn giờ chiều thứ Năm, Codman và Burnham đánh xe đến nhà Root. Codman đợi trong xe ngựa khi Burnham đi vào trong.
***
Burnham thấy Root phải vật lộn để thở. Suốt cả ngày Root đã trải qua những giấc mơ kỳ lạ, trong đó có một giấc mơ mà ông đã từng trải qua nhiều lần về việc bay lượn giữa không trung. Khi Root thấy Burnham, ông nói, “Anh sẽ không để tôi lại đây một mình chứ?”
Burnham nói không, nhưng ông đã để Root lại một mình, để thăm vợ Root đang ở trong một căn phòng gần đó. Khi Burnham nói chuyện với cô, một người họ hàng bước vào và thông báo rằng Root đã qua đời. Bà nói, trong khoảnh khắc cuối cùng, ông đã lướt những ngón tay trên tấm vải trải giường như thể đang chơi piano. “Bà có nghe thấy không?”, ông thì thầm, “chẳng phải nó tuyệt vời lắm sao? Đó mới là âm nhạc.”
***
Sau cái chết của Root, một sự yên tĩnh kỳ lạ bao quanh căn nhà, nó chỉ bị phá vỡ bởi tiếng rít của đèn khí và tiếng tích tắc mệt mỏi của đồng hồ. Burnham bước đi dưới sàn. Ông đang bị theo dõi, nhưng ông không hề biết. Dì Nettie của Harriet Monroe ngồi trên một bậc cao tại khúc cua thiếu sáng của cầu thang từ phòng khách của Root lên tầng hai. Người phụ nữ lắng nghe tiếng chân của Burnham. Ngọn lửa cháy trong lò sưởi phía sau ông đổ bóng trên bức tường đối diện. “Tôi đã làm việc,” Burnham nói, “Tôi đã lên kế hoạch và mơ ước biến chúng ta trở thành những kiến trúc sư vĩ đại nhất thế giới - tôi đã cho anh ấy thấy điều ấy và giữ anh ấy ở đó và giờ anh ấy ra đi. Chết tiệt! Chết tiệt! Chết tiệt!”
Cái chết của Root khiến Burnham choáng váng, khiến Chicago choáng váng. Burnham và Root là đối tác và bạn bè của nhau trong mười tám năm. Người này biết rõ những suy nghĩ của người kia. Người này đều dựa vào kĩ năng của người kia. Giờ đây Root đã ra đi. Người ngoài tự hỏi liệu cái chết của Root có đồng nghĩa với cái chết của hội chợ. Báo chí tràn ngập các cuộc phỏng vấn, trong đó những người đàn ông ưu tú của thành phố mô tả Root là nhân tố chính đằng sau hội chợ, nếu không có ông thì thành phố không có hi vọng thực hiện được ước mơ của mình. Tờ Tribune cho biết Root “dễ có khi” là “kiến trúc sư lỗi lạc nhất Chicago, nếu không muốn nói là cả nước.” Edward Jefferey, chủ tịch Ủy ban Nhà đất, cho biết, “Không có người đàn ông nào trong nghề kiến trúc sư có đủ tài trí và khả năng xử lí các công việc của hội chợ mà Root đã để lại.”
Burnham giữ im lặng. Ông cân nhắc việc rút lui khỏi hội chợ. Hai lực lượng giao chiến trong lòng ông: Sự đau buồn và mong muốn hét lên rằng chính ông, Burnham, mới là nhân tố chính đằng sau các thiết kế của hội chợ; rằng ông mới là người đã giúp công ty Burnham & Root đạt được ngày càng nhiều thành tựu to lớn.
Các kiến trúc sư bờ Đông rời đi vào thứ bảy, ngày 17 tháng 1. Vào ngày Chủ nhật, Burnham tham dự lễ tưởng niệm Root tại nhà riêng ở Astor Place và lễ an táng tại nghĩa trang Graceland, một nơi thường trú đẹp đẽ cho những người giàu có, chỉ vài cây số về phía Bắc khu Loop.
Đến thứ Hai, ông đã trở lại bàn làm việc. Ông đã viết mười hai bức thư. Văn phòng Root im lặng bên cạnh phòng ông, treo cờ rủ. Những bông hoa khô tỏa hương vào không khí.
Thách thức phía trước khó khăn hơn bao giờ hết.
***
Vào thứ Ba, một ngân hàng lớn đã phá sản ở Kansas City. Thứ Bảy tiếp đó, Lyman Gage thông báo rằng ông sẽ rời chức chủ tịch của hội chợ từ ngày 1 tháng 4, để chăm lo ngân hàng riêng của mình. Tổng giám đốc hội chợ, George Davis, lúc đầu không tin điều này. “Thật ngớ ngẩn,” ông quát, “Gage phải ở lại với chúng ta. Chúng ta không thể làm mà không có anh ta.”
Còn cả bạo loạn của công nhân. Đúng như những gì Burnham đã lo sợ, các lãnh đạo công đoàn bắt đầu sử dụng hội chợ tương lai như một phương tiện để khẳng định các mục tiêu của mình như áp dụng mức lương tối thiểu và tám giờ làm việc một ngày. Ngoài ra, còn các nguy cơ cháy nổ, thời tiết và bệnh dịch: Các biên tập viên nước ngoài đã hỏi ai sẽ dám tham dự triển lãm khi Chicago nổi tiếng với vấn đề nước thải. Chưa ai quên vào năm 1885, nước bẩn đã châm ngòi cho một đợt bùng phát dịch tả và thương hàn giết chết 10 phần trăm dân số của thành phố.
Các lực lượng đen tối của thành phố đang lẩn khuất trong làn khói. Ở một nơi nào đó của trung tâm của thành phố, một người nhập cư Ireland trẻ ngày càng chìm sâu hơn vào sự điên rồ, mở đầu cho một hành động gây sốc cả nước và phá hủy những gì Burnham đã mơ ước sẽ trở thành điều vĩ đại nhất trong cuộc đời ông.
Cách đó không xa, một sinh vật lạ lẫm ngẩng đầu lên với những dự tính tương tự. “Tôi sinh ra với ác quỷ trong mình,” y viết. “Tôi không thể thay đổi thực tế rằng tôi là một kẻ sát nhân, giống như các nhà thơ biến những nguồn cảm hứng thành vần điệu.”