Vào thứ Ba ngày 24 tháng 2 năm 1891, Burnham, Olmsted, Hunt và các kiến trúc sư khác tụ họp tại thư viện trên tầng cao nhất của Rookery để trình bày bản vẽ các công trình chính của hội chợ với Ủy ban Nhà đất. Các kiến trúc sư thảo luận với nhau suốt buổi sáng, bầu Hunt làm Chủ tịch. Bệnh gout buộc ông phải đặt một chân trên bàn. Olmsted trông mòn mỏi và xám xịt, ngoại trừ đôi mắt ánh lên như đá lapis35. Người mới gia nhập nhóm, Augustus St. Gaudens, một trong những nhà điêu khắc nổi tiếng nhất nước Mỹ, được Charles McKim mời tới giúp đánh giá các mẫu thiết kế. Các thành viên của Ủy ban Nhà đất đến vào lúc hai giờ chiều và lấp đầy thư viện với hương thơm của xì gà.
35 Đá Lapis là tên một loại đá quý có màu xanh dương, thường được sử dụng làm trang sức.
Ánh sáng trong phòng màu tái xám, mặt trời đã gần lặn. Gió đập vào cửa sổ. Trong lò sưởi tại góc tường phía Bắc có một ngọn lửa cháy lớn nổ lách tách, lan tỏa không khí nóng và khô khiến làn da lạnh cứng trở nên ngứa râm ran.
Vì sự thúc ép cộc cằn của Hunt, các kiến trúc sư bắt tay vào việc.
Từng người một bước đến phía trước căn phòng, trải bản vẽ của mình ra, rồi gắn lên tường. Một điều gì đó đã xảy ra giữa các kiến trúc sư và nó trở nên rõ ràng ngay lập tức, như thể một luồng gió mới đã tràn vào căn phòng. Họ thảo luận, Burnham kể lại, “gần như thì thầm.”
Các tòa nhà sau đẹp đẽ hơn, phức tạp hơn so với tòa nhà trước đó và tất cả đều hoành tráng - tuyệt vời trên một quy mô chưa từng thấy.
Hunt tập tễnh bước về phía trước và trưng bản vẽ Tòa nhà Hành chính của ông, công trình, theo kế hoạch, sẽ là công trình quan trọng nhất tại hội chợ và là nơi du khách sẽ ra vào hội chợ. Trung tâm của nó là một hình bát giác nằm dưới một mái vòm cao gần 84 mét tính từ sàn, cao hơn mái vòm của điện Capitol.
Công trình được giới thiệu sau đó thậm chí còn lớn hơn. Nếu được xây dựng thành công, Tòa nhà Mỹ thuật Tự do và Công nghiệp của George B. Post sẽ là tòa nhà lớn nhất từng được xây dựng với lượng thép tiêu thụ đủ để xây dựng hai cây cầu Brooklyn. Hơn thế nữa, toàn bộ không gian này sẽ được thắp sáng từ trong ra ngoài với đèn điện. Mười hai thang máy điện sẽ đưa du khách đến tầng thượng của tòa nhà. Bốn thang máy sẽ chạy qua một tháp trung tâm đến một cây cầu trong nhà cao 67 mét so với sàn, sau đó dẫn đến một khu đi dạo lộ thiên đưa du khách ngắm những cảnh quan tuyệt mĩ của hồ Michigan phía xa, mà theo một cuốn sách hướng dẫn sau đó cho biết, “Đây sẽ là một bức tranh toàn cảnh mà con người chưa bao giờ được chứng kiến.”
Post đề xuất đặt một mái vòm cao 137 mét trên công trình của mình, qua đó biến đây trở thành công trình không chỉ lớn nhất thế giới mà còn là công trình cao nhất. Khi Post nhìn quanh phòng, ông thấy trong mắt của các đồng nghiệp của mình không chỉ sự ngưỡng mộ mà còn một điều gì đó khác. Một tiếng rì rầm thổi qua giữa họ. Sự gắn kết giữa các kiến trúc sư đã đạt đến một cấp độ cao đến mức Post hiểu ngay họ đang nói gì. Mái vòm quá cao, không phải là không xây dựng được, mà đơn giản là quá khoa trương trong khung cảnh này. Nó sẽ che khuất tòa nhà của Hunt và phá vỡ sự hài hòa của các công trình khác trên đại sảnh. Không hề kích động, Post lặng lẽ nói, “Tôi không nghĩ rằng tôi sẽ ủng hộ xây mái vòm này; có lẽ tôi sẽ sửa lại tòa nhà.” Mọi người đều ngầm đồng ý.
Sullivan đã sửa đổi tòa nhà của mình theo gợi ý của Burnham. Burnham muốn Adler & Sullivan thiết kế Hội trường Âm nhạc của hội chợ, tuy nhiên một phần do cảm giác liên tục bị đối xử tệ bạc bởi Burnham, bộ đôi đã từ chối. Burnham sau đó đề nghị họ xây dựng Tòa nhà Giao thông vận tải, họ đã chấp nhận công trình này. Hai tuần trước cuộc họp, Burnham viết cho Sullivan và đề nghị ông thay đổi thiết kế để tạo ra “một lối vào lớn ở phía đông và làm tòa nhà trở nên phong phú hơn hẳn những thiết kế mà ngài đã đề xuất... Chắc chắn rằng hiệu ứng mà tòa nhà của ngài tạo ra sẽ tốt hơn nhiều so với phương pháp cũ được áp dụng tại hai cổng vào phía bên này, trong đó không có cổng nào có thể đường bệ như cổng của ngài.” Sullivan tiếp thu gợi ý nhưng không bao giờ thừa nhận nguồn gốc của nó, mặc dù cổng vào lớn cuối cùng đã trở thành chủ đề bàn tán của hội chợ.
Tất cả các kiến trúc sư, bao gồm cả Sullivan, dường như đã bị trúng phải cùng một thứ bùa, mặc dù sau đó Sullivan chối bỏ khoảnh khắc này. Khi mỗi kiến trúc sư trải ra bản vẽ của mình, “sự căng thẳng gần như trở nên đau đớn,” Burnham kể lại. St. Gaudens, cao và gầy với một chòm râu dưới cằm, ngồi yên tĩnh trong góc như một bức tượng điêu khắc từ sáp. Burnham nhìn thấy trên mặt từng người một “sự tập trung tĩnh lặng”. Ông nhận thấy rõ ràng vào lúc này, các kiến trúc sư cuối cùng cũng hiểu rằng Chicago luôn nghiêm túc về kế hoạch xây dựng hội chợ của mình. “Hàng loạt bản vẽ nối tiếp nhau được trải ra,” Burnham nói, “và khi ngày dần trôi, có thể thấy rõ một hình ảnh đã dần được hình thành trong tâm trí của những người có mặt, một viễn cảnh hoành tráng và đẹp đẽ hơn tất cả những gì một trí tưởng tượng phong phú nhất từ trước đến nay có thể nghĩ ra.”
Khi ánh sáng bắt đầu mờ dần, các kiến trúc sư đốt đèn khí của thư viện, chúng rít lên như mèo hen. Nhìn từ đường phố bên dưới, tầng trên cùng của tòa Rookery dường như đang bốc cháy với ánh sáng chuyển dịch của các đèn khí và ngọn lửa trong lò sưởi lớn. “Căn phòng lặng như tờ,” Burnham kể lại, “ngoại trừ giọng nói xì xào của những người đang trình bày thiết kế của mình. Có vẻ như một cục nam châm lớn đang giữ tất cả mọi người trong từ trường của nó.”
Các bản vẽ cuối cùng được trình bày. Một vài khoảnh khắc sau đó, sự im lặng tiếp tục bao trùm.
Lyman Gage, lúc này vẫn giữ chức chủ tịch của hội chợ, là người đầu tiên di chuyển. Ông là một nhân viên ngân hàng, cao, lưng thẳng, bảo thủ trong cách cư xử và ăn mặc, nhưng ông đứng dậy đột ngột và đi đến một cửa sổ, run rẩy vì xúc động. “Thưa các quý ông mộng mơ, các ngài đang mơ mộng,” ông thì thầm, “tôi chỉ hi vọng rằng một nửa trong số các giấc mơ này có thể trở thành hiện thực.”
Giờ đến lượt St. Gaudens đứng lên. Ông đã im lặng cả ngày. Ông vội vã đến nắm lấy tay Burnham, “Tôi chưa bao giờ mong đợi được chứng kiến một khoảnh khắc như vậy,” ông nói, “hãy nhìn đây, hỡi những người bạn già, các ngài có nhận ra đây là các cuộc họp quan trọng nhất của các nghệ sĩ kể từ thế kỷ XV hay không?”
***
Olmsted cũng cảm nhận được một điều gì đó phi thường đã xảy ra, nhưng cuộc họp cũng làm ông bối rối. Đầu tiên, nó khẳng định mối lo ngày càng tăng của ông rằng các kiến trúc sư đang dần quên mất bản chất của những công trình họ đề xuất xây dựng. Các tầm nhìn chung thể hiện trong bản vẽ của họ đem lại sự hoành tráng quá mức. Dù sao đây cũng là hội chợ của thế giới và hội chợ thì nên vui vẻ. Nhận thức được việc các kiến trúc sư ngày càng chú trọng vào kích thước, Olmsted, ngay trước cuộc họp, đã viết cho Burnham vài gợi ý giúp sinh động hóa khu vực diễn ra hội chợ. Ông muốn các đầm phá, kênh rạch đầy các loài chim nước đủ màu sắc và có thể đi lại được bằng thuyền nhỏ. Không phải bất kỳ tàu thuyền nào: Phải là các thuyền phù hợp. Chủ đề này đã trở thành một nỗi ám ảnh với ông. Bức tranh rộng lớn của ông về những gì cấu thành nên kiến trúc cảnh quan bao gồm tất cả những thứ mọc lên, bay lượn, thả nổi, hoặc bước vào khung cảnh ông tạo ra. Hoa hồng tạo nên những vệt đỏ; thuyền tạo vẻ cầu kỳ và sức sống. Nhưng việc chọn đúng loại thuyền rất quan trọng. Ông sợ điều đó sẽ xảy ra nếu để cho một trong các ủy ban của hội chợ quyết định. Ông muốn Burnham biết quan điểm của mình ngay từ đầu.
“Chúng ta nên cố gắng để giữ những con thuyền của triển lãm thật nhẹ nhàng và sống động,” ông viết. Ông ghét những tiếng lách cách và khói từ hơi nước; ông muốn tàu điện được thiết kế riêng cho công viên, nhấn mạnh vào những đường viền duyên dáng và không gây tiếng ồn khi sử dụng. Quan trọng nhất, các con thuyền phải liên tục chuyển động lặng lẽ để tạo nên sự tiêu khiển cho đôi mắt và sự bình yên cho đôi tai. “Những gì chúng ta muốn là một dịch vụ tàu thuyền liên tục như dịch vụ xe buýt trên đường phố,” ông viết. Ông cũng hình dung ra một hạm đội thuyền gỗ bạch dương được những nhân công da đỏ trong bộ đồ da hoẵng và lông vũ chèo lái, đồng thời gợi ý rằng các loại hình tàu thuyền của các nước khác nên được neo đậu tại bến cảng của hội chợ. “Ý tôi là bao gồm thuyền buồm hai thân Malaysia, thuyền buồm Ả Rập, thuyền tam bản Trung Quốc, tàu hoa tiêu Nhật Bản, thuyền dài Thổ Nhĩ Kỳ, xuồng của người Eskimo, thuyền chiến Alaska, những chiếc thuyền có mái che của Thụy Sĩ, vân vân...”
Tuy nhiên, một kết quả quan trọng hơn nhiều sau cuộc họp tại Rookery là Olmsted nhận ra rằng những ước mơ cao quý của các kiến trúc sư đã phóng đại và phức tạp hóa những thách thức vốn đã-làm-ông-nản-chí ở công viên Jackson. Khi ông và Calvert Vaux thiết kế công viên trung tâm ở New York, họ đã lên kế hoạch cho các hiệu ứng trực quan chỉ có thể đạt được sau nhiều thập kỷ; ở đây ông chỉ có hai mươi sáu tháng để định hình lại sự tan hoang của công viên và biến nó thành một đồng cỏ Venice. Tại các bờ, các đảo, các bậc thang và các lối đi, trồng bất cứ thứ gì có thể tạo ra một cảnh quan phong phú đủ để đáp ứng tầm nhìn của ông. Tuy nhiên, những bản vẽ của kiến trúc sư đã cho thấy trên thực tế, ông sẽ có ít hơn hai mươi sáu tháng rất nhiều. Phần công việc đóng vai trò quan trọng nhất trong việc định hình cách du khách đánh giá cảnh quan của ông - việc trồng trọt và tỉa tót các khu vực xung quanh mỗi tòa nhà chỉ có thể được thực hiện sau khi các công trình lớn được hoàn thành và mặt đất không còn dấu vết của các thiết bị xây dựng, các con đường tạm bợ và trở ngại thẩm mĩ khác. Tuy nhiên, các cung điện được trưng bày tại tòa Rookery quá rộng lớn, quá chi tiết đến nỗi việc xây dựng chúng nhiều khả năng sẽ tiêu tốn gần như tất cả thời gian còn lại, chỉ để lại cho ông một chút ít ỏi.
Ngay sau cuộc họp, Olmsted đã soạn thảo một chiến lược cho sự chuyển đổi của công viên Jackson. Bản ghi nhớ mười trang của ông đã tóm tắt bản chất của tất cả những gì ông tin tưởng về nghệ thuật kiến trúc cảnh quan và cách nó đem lại hiệu ứng lớn hơn là sự tổng hòa của cánh hoa và lá cây.
Ông tập trung vào đầm phá trung tâm của hội chợ, nơi các máy nạo vét của ông sẽ sớm bắt đầu từ phía bờ công viên Jackson. Việc nạo vét sẽ để lại một hòn đảo ở trung tâm của vùng đầm phá, có tên đơn giản là đảo Wooded. Các tòa nhà chính của hội chợ sẽ mọc lên dọc theo bờ ngoài của đầm phá. Olmsted thấy đầm phá này là phần khó xử lí nhất của hội chợ. Cũng như đại sảnh sẽ trở thành trung tâm kiến trúc của hội chợ, các đầm phá trung tâm và đảo Wooded sẽ trở thành trung tâm cảnh quan của nó.
Trên tất cả, ông muốn cảnh quan của triển lãm tạo nên ánh hào quang của một “hiệu ứng thơ mộng bí ẩn”. Hoa sẽ không được sử dụng theo cách làm vườn thông thường. Thay vào đó, mỗi bông hoa, cây bụi và cây thân gỗ sẽ được trồng với mục tiêu kích thích trí tưởng tượng. Điều đó đã được thực hiện, Olmsted viết, “nhờ sự pha trộn hỗn tạp của rất nhiều loại lá, cộng với sự đan xen luân phiên những chiếc lá và cuống nhô ra, rung rinh khoe đủ các sắc xanh dưới màn ánh sáng. Bên cạnh và bên dưới chúng, những chiếc lá và cuống khác tuy bị khuất và ít nổi hơn, nhưng vẫn được soi sáng một phần bởi ánh sáng phản chiếu từ mặt nước.”
Ông hi vọng sẽ cung cấp cho du khách với một bữa tiệc của sự ẩn hiện - các tán lá lấp lánh phản chiếu ánh sáng; màu sắc rực rỡ thấp thoáng giữa tán cỏ cao vẫy trong gió. Không nơi nào, ông viết, có “một vườn hoa đòi hỏi sự chú ý đến vậy. Những bông hoa được sử dụng cho mục đích này cần phải mang lại hiệu ứng đốm sáng để điểm xuyết cho màu xanh chủ đạo của cảnh quan. Cần tránh để khu vườn quá màu mè, sặc sỡ hay lòe loẹt.”
Cây lách, dương xỉ và cây bồ hoàng duyên dáng sẽ được trồng trên bờ của đảo Wooded nhằm gợi lên sự dày đặc và lộn xộn, “phần nào phủ lên, mà không che giấu, những vườn hoa có thể sẽ tạo ra sự khó chịu.” Ông đã hình dung các bãi đất lớn với những cây dương xỉ xen kẽ những cây bồ hoàng, hoa diên vĩ và bao quanh những loài hoa đang nở, như hoa hồng có màu đỏ của lửa và cây mao lương hoa vàng - được trồng trên những gò đất hơi cao hơn nếu cần để du khách chỉ có thể nhìn thấy chúng giữa các thân cây màu xanh trải dài đung đưa ở phía trước.
Trên bờ, dưới các bậc thang chính thức của các tòa nhà, ông dự định trồng các loại cây có mùi thơm như cây kim ngân và summersweet36, để hương hoa của chúng sẽ đánh thức khứu giác của những du khách dừng lại trên bậc thang để ngắm nhìn các hòn đảo và đầm phá.
36 Loài cây bụi sống ở phía Nam và phía Đông bờ biển nước Mỹ, nở những chùm hoa màu trắng rất thơm.
Hiệu quả tổng thể, ông viết, “ở mức độ nào đó giống như một cái phông nền của sân khấu, ngự trong không gian hội chợ kéo dài một mùa hè duy nhất.”
Hình dung tất cả những điều này trên giấy là một chuyện, thực hiện nó là một chuyện khác. Olmsted đã gần bảy mươi, miệng bỏng rát, đầu ù ù, mỗi đêm mất ngủ triền miên. Kể cả khi không có hội chợ, ông vẫn phải đối mặt với một danh mục các công trình dở dang đáng sợ, trong đó quan trọng nhất là các công trình ở Biltmore và bất động sản Vanderbilt ở Bắc Carolina. Nếu mọi thứ diễn ra hoàn hảo, nếu sức khỏe của ông không suy giảm thêm nữa, nếu thời tiết không xấu đi, nếu Burnham hoàn thành các tòa nhà khác kịp thời gian, nếu các cuộc đình công không phá hủy hội chợ, nếu hàng tá các ủy ban và giám đốc, những người Olmsted gọi là “đội quân hàng trăm chủ nô của chúng ta”, học được cách để Burnham yên - Olmsted có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình đúng thời hạn.
Một nhà văn của Tạp chí Kỹ thuật hỏi một câu chưa ai đặt ra tại tòa nhà Rookery, “Làm thế nào để số lượng các công trình khổng lồ này, hơn rất nhiều hội chợ Paris năm 1889, có thể sẵn sàng trong hai năm?”
***
Đối với Burnham, các cuộc họp tại Rookery cũng đã tạo nên một nhận thức rõ ràng rằng thời gian còn lại ít thế nào. Mọi thứ dường như mất nhiều thời gian hơn cần thiết và không có gì diễn ra suôn sẻ. Các công việc thực sự ở công viên Jackson bắt đầu vào ngày 11 tháng 2, khi năm mươi người nhập cư gốc Ý làm việc cho McArthur Brothers, một công ty Chicago, bắt đầu đào một con mương thoát nước. Đó chỉ là một công việc thường ngày, không có gì to tát. Nhưng lời đồn về công việc lan ra và năm trăm người thuộc công đoàn xông vào công viên và đưa các công nhân đi. Hai ngày sau, thứ Sáu ngày 13, sáu trăm người đã tập trung tại công viên để phản đối việc sử dụng những gì họ cáo buộc là công nhân được “nhập khẩu” của McArthur. Ngày hôm sau, hai ngàn người, nhiều trong số đó được vũ trang bằng gậy nhọn, xông vào, bắt hai người công nhân của McArthur và đánh đập họ. Cảnh sát đến. Đám đông lùi lại. McArthur nhờ Thị trưởng Cregier giải quyết; Cregier giao cho một nhà tư vấn doanh nghiệp thành phố, một luật sư trẻ tên là Clarence Darrow, xem xét vụ việc. Hai đêm sau đó công đoàn của thành phố đã gặp gỡ với các quan chức của hội chợ, yêu cầu họ giới hạn ngày làm việc xuống tám giờ, trả lương theo mức công đoàn đưa ra và ưu tiên thuê nhân công của công đoàn. Sau hai tuần thảo luận, các giám đốc của hội chợ chấp nhận yêu sách tám giờ làm việc, nhưng cho biết họ sẽ suy nghĩ về phần còn lại.
Bên cạnh đó, còn xung đột giữa những người giám sát của hội chợ. Ủy ban Quốc gia, gồm các chính trị gia và đứng đầu là Tổng giám đốc George Davis, muốn kiểm soát tài chính; Công ty hội chợ, bao gồm doanh nhân hàng đầu của Chicago và đứng đầu là Chủ tịch Lyman Gage, từ chối vì cho rằng: Công ty đã huy động tiền và chỉ có Chúa mới ngăn cản được công ty chi tiêu nó theo bất cứ cách nào họ muốn.
Các Ủy ban cai trị tất cả mọi thứ. Trong các dự án tư nhân của mình, Burnham đã quá quen với việc kiểm soát hoàn toàn các chi phí cần thiết để xây dựng các tòa nhà chọc trời. Giờ đây, tại mỗi bước, thậm chí kể cả việc mua bảng vẽ, ông lại phải được sự chấp thuận của Ủy ban điều hành của Công ty hội chợ. Mọi thứ vô cùng phiền phức. “Chúng ta phải thúc họ ngay,” Burnham cho biết. “Sự trì hoãn có vẻ như đang kéo dài vô tận.”
Nhưng ông đã thu được một vài tiến triển. Ví dụ, ông đã chỉ đạo một cuộc thi lựa chọn kiến trúc sư nữ thiết kế Tòa nhà Phụ nữ cho hội chợ. Sophia Hayden đến từ Boston là người thắng cuộc. Cô hai mươi mốt tuổi. Tiền thù lao của cô là giải thưởng của cuộc thi: một ngàn đô-la. Các kiến trúc sư nam mỗi người thu được mười ngàn. Đã có nhiều hoài nghi rằng chỉ một người phụ nữ thì khó có thể thiết kế một tòa nhà quan trọng như vậy. “Sự thật là người phụ nữ này đã không nhận được bất cứ sự giúp đỡ nào khi thiết kế tòa nhà,” Burnham viết. “Tòa nhà được tự tay cô ấy hoàn thành tại nhà riêng.”
Tuy nhiên vào tháng 3, tất cả các kiến trúc sư đều thừa nhận rằng mọi thứ đã được tiến hành quá chậm, rằng nếu họ xây dựng các công trình của họ như kế hoạch ban đầu bằng đá, thép, gạch, các tòa nhà không thể được hoàn thành vào ngày mở cửa. Thay vào đó, họ đã bỏ phiếu để bọc các tòa nhà của họ trong “vữa trộn sợi”, một hỗn hợp đàn hồi của thạch cao và đay có thể được đúc thành các cột, tượng và trải rộng trên khung gỗ để tạo nên ảo giác của đá. “Sẽ không có một viên gạch nào tại khu vực thi công,” Burnham cho biết.
Giữa tất cả điều này, khi khối lượng công việc tăng lên, Burnham nhận ra rằng ông không thể tiếp tục trì hoãn việc thuê một nhà thiết kế để thay thế John Root yêu quý của mình. Ông cần một người quản lí công việc hiện tại của công ty trong khi ông chăm lo cho hội chợ. Một người bạn gợi ý Charles B. Atwood của New York. McKim lắc đầu. Có những lời đồn thổi về Atwood và những dấu hỏi về độ tin cậy. Tuy nhiên, Burnham vẫn sắp xếp gặp Atwood ở New York, tại khách sạn Brunswick.
Atwood cho ông leo cây. Burnham đợi một giờ, sau đó bỏ về cho kịp chuyến tàu. Khi ông đã băng qua đường, một người đàn ông đẹp trai trong chiếc mũ và áo choàng đen với đôi mắt đen sâu thẳm như họng súng tiến lại gần và hỏi ông có phải là Burnham.
“Đúng vậy,” Burnham đáp.
“Tôi là Charles Atwood. Có phải ngài muốn gặp tôi?”
Burnham trừng mắt. “Tôi sẽ trở lại Chicago; Tôi sẽ suy nghĩ và cho ngài biết.” Burnham bắt tàu. Khi quay trở về Chicago, ông đi thẳng đến văn phòng của mình. Một vài giờ sau đó Atwood bước vào. Ông ta đã đi theo Burnham từ New York.
Burnham giao công việc cho ông ta.
Atwood có một bí mật. Ông ta là một người nghiện thuốc phiện. Nó giải thích cho đôi mắt và hành vi thất thường. Nhưng Burnham nghĩ ông ta là một thiên tài.
***
Như một lời nhắc nhở với chính mình và bất cứ ai đến văn phòng của ông ở khu ổ chuột, Burnham đặt một tấm bảng trên bàn của mình với một từ duy nhất: CẤP BÁCH.
***
Thời gian còn ít đến nỗi Ban Giám đốc đã bắt đầu lên kế hoạch cho các cuộc triển lãm và bổ nhiệm các ủy viên hội chợ thế giới để đảm bảo chúng được thực hiện. Vào tháng 2, Ủy ban đã bầu một sĩ quan trẻ, Trung sĩ Mason A. Schufeldt, đến Zanzibar bắt đầu hành trình xác định vị trí một bộ lạc Pygmy mới được nhà thám hiểm Henry Stanley phát hiện gần đây và mang đến hội chợ “một gia đình mười hai đến mười bốn người lùn hung dữ.”
Ủy ban cho Trung sĩ Schufeldt hai năm rưỡi để hoàn thành sứ mệnh của mình.
***
Bên ngoài hàng rào mới của hội chợ, tình trạng hỗn loạn và đau buồn nhấn chìm Chicago. Các nhà lãnh đạo công đoàn đe dọa sẽ tập hợp công đoàn trên toàn thế giới để phản đối hội chợ. Tờ The Inland Architect, một tạp chí nổi tiếng ở Chicago, đưa tin, “Tổ chức phi Hoa Kỳ - các công đoàn thương mại - đã phát triển các nguyên tắc để giảm bớt hoặc loại bỏ quyền tự do cá nhân phi Hoa Kỳ theo một hướng mới, đó là tìm kiếm, càng nhiều càng tốt, cách làm tê liệt hội chợ Thế giới.” Những hành động đó, tạp chí cho biết, “sẽ được coi là phản quốc ở các nước kém giác ngộ và độc đoán hơn chúng ta.” Tình trạng tài chính của quốc gia trở nên tồi tệ. Các văn phòng tại các tòa nhà chọc trời mới nhất của Chicago vẫn bỏ trống. Chỉ cách Rookery hai tòa nhà, Trụ sở xây dựng Burnham & Root đứng sừng sững, màu đen và phần lớn bỏ không. Hai mươi lăm ngàn công nhân thất nghiệp lang thang trên khắp các đường phố. Vào ban đêm họ ngủ trong trạm cảnh sát và trong tầng hầm của tòa thị chính. Các công đoàn trở nên lớn mạnh hơn.
Thế giới cũ đang dần trôi đi. P. T. Barnum37 đã chết; những tên trộm mộ đã cố gắng ăn cắp xác chết của ông. William Tecumseh Sherman38 cũng đã chết. Atlanta vui mừng. Các tin tức từ nước ngoài khẳng định rằng Jack Đồ Tể đã trở lại. Điều đó tất nhiên không đúng. Vào thời gian đó, một vụ giết người đẫm máu tại New York cho thấy hắn có thể đã di cư sang Mỹ.
37 Phineas Taylor “P. T.” Barnum (05/07/1810 – 07/04/1891) là một nghệ sĩ trình diễn, nhà giải trí, nhà chính trị người Mỹ, người sáng lập gánh xiếc sau này trở thành Ringling Bros & Barnum & Bailey Circus.
38 William Tecumseh Sherman (08/02/1820 – 14/02/1891) là một tướng của quân đội Liên bang miền Bắc thời nội chiến Hoa Kỳ, người được coi là “tướng lĩnh đầu tiên của nền quân sự hiện đại”. Tuy nổi tiếng tài giỏi về chỉ huy chiến thuật, ông cũng bị chỉ trích vì đã sử dụng chiến thuật tiêu thổ tàn bạo theo hướng chiến tranh toàn diện đối với quân địch.
Tại Chicago, Thiếu tá R. W. McClaughry, cựu cai tù của nhà tù bang Illinois tại Joliet, bắt đầu chuẩn bị cho thành phố đương đầu với một làn sóng tội phạm tăng vọt, điều mà tất cả mọi người đều cho là từ Hội chợ mà ra. Ông thành lập một văn phòng tại Tòa nhà Thính phòng để tiếp nhận và phân loại các tên tội phạm khét tiếng theo bộ nhận dạng Bertillon. Được xây dựng bởi nhà tội phạm học người Pháp Alphonse Bertillon, hệ thống nhận dạng này yêu cầu cảnh sát thực hiện một cuộc điều tra chính xác về vóc dáng và các đặc điểm thể chất của các nghi phạm. Bertillon tin rằng số đo của mỗi người là duy nhất và do đó chúng có thể được sử dụng để lật tẩy danh tính mà bọn tội phạm sử dụng khi di chuyển từ thành phố này sang thành phố khác. Về lí thuyết, một thám tử ở Cincinnati có thể điện báo một vài con số đặc biệt đến các điều tra viên ở New York với mong muốn rằng nếu có sự trùng khớp, New York sẽ tìm ra hắn.
Một phóng viên hỏi Thiếu tá McClaughry liệu hội chợ có thực sự thu hút tội phạm. Ông dừng lại một lúc, rồi nói, “Tôi nghĩ rằng việc các nhà chức trách ở đây nên được chuẩn bị để đáp ứng và đối phó với các giáo đoàn tội phạm lớn nhất từng được chứng kiến ở đất nước này là một điều khá cần thiết.”