• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Ác quỷ thành phố trắng
  3. Trang 67

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 66
  • 67
  • 68
  • More pages
  • 72
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 66
  • 67
  • 68
  • More pages
  • 72
  • Sau

Hội chợ

Hội chợ đã tác động mạnh mẽ và lâu dài đến tâm lí quốc gia, theo những cách khác nhau. Cha của Walt Disney, Elias, đã giúp xây dựng Thành phố Trắng; Vương quốc nhiệm màu của Walt cũng có thể coi là một hậu duệ. Chắc chắn hội chợ đã để ấn tượng mạnh mẽ cho gia đình Disney. Nó đem lại nhiều lợi ích tài chính đến mức khi đứa con trai thứ ba của gia đình ra đời năm đó, với lòng biết ơn, Elias đã muốn đặt tên đứa bé là Columbus. Flora, vợ ông, đã ngăn lại; đứa bé lấy tên Roy. Walt được sinh ra sau đó vào ngày 5 tháng 12 năm 1901. Nhà văn L. Frank Baum và nghệ sĩ đối tác William Wallace Denslow đến thăm hội chợ; sự hùng vĩ của nó đã truyền cho họ nguồn cảm hứng tạo nên xứ Oz. Các ngôi đền Nhật Bản trên đảo Wooded đã quyến rũ Frank Lloyd Wright và có thể đã ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của kiến trúc nhà ở “Đồng cỏ” của ông. Hội chợ khiến Tổng thống Harrison chỉ định ngày 12 tháng 10 là ngày lễ quốc gia, ngày Columbus, mà ngày nay trở thành điểm khởi đầu của hàng ngàn cuộc diễu hành và một kỳ nghỉ ba ngày cuối tuần. Mọi lễ hội kể từ năm 1893 đều bao gồm một khu vui chơi giống công viên Midway và một vòng đu quay Ferris và các cửa hàng tạp hóa đều có các sản phẩm được tạo ra tại triển lãm. Lúa Mì Vụn đã sống sót. Tất cả các ngôi nhà đều được lắp hàng chục bóng đèn sợi đốt chạy bằng dòng điện xoay chiều, lần đầu tiên cả hai cho thấy chúng xứng đáng được sử dụng đại trà là tại hội chợ; và gần như mọi thị trấn lớn nhỏ đều có chút hơi hướng La Mã cổ đại, một số ngân hàng, thư viện hoặc bưu điện được yêu thích và được trang trí bằng hàng cột La Mã. Bị bao phủ bởi các hình vẽ bậy, hoặc thậm chí là một lớp sơn thiếu cẩn thận, tuy nhiên sau tất cả, vầng hào quang của Thành phố Trắng vẫn tồn tại. Ngay cả Đài tưởng niệm Lincoln ở Washington cũng có thể lần theo di sản của mình từ hội chợ.

Tác động lớn nhất của hội chợ nằm ở cách nó thay đổi người Mỹ nhìn nhận thành phố và các kiến trúc sư của họ. Nó khiến toàn bộ nước Mỹ - không chỉ một vài ông trùm kiến trúc giàu có, nghĩ về các thành phố theo cách họ chưa bao giờ nghĩ trước đây. Elihu Root cho biết hội chợ khiến “người ta bước ra khỏi khu vực hoang dã tầm thường để đến với những ý tưởng mới mẻ về vẻ đẹp và sự cao quý của kiến trúc.” Henry Demarest Lloyd cho rằng nó đã bật mí với đại đa số người dân Mỹ “những viễn cảnh của cái đẹp, sự tiện ích và sự hài hòa xã hội mà họ thậm chí chưa từng mơ thấy. Chưa có viễn cảnh tương tự nào xuất hiện trong cuộc sống cực nhọc tầm thường của họ và nó sẽ được cảm nhận trong sự phát triển ở cả thế hệ thứ ba và thứ tư.” Hội chợ đã dạy những người đàn ông và phụ nữ những điều cần thiết để họ thấy rằng một thành phố không nhất thiết là phải tăm tối và bẩn thỉu, một pháo đài không an toàn của những kẻ thực dụng. Chúng cũng có thể đẹp đẽ.

William Stead ngay lập tức nhận ra sức ảnh hưởng của hội chợ. Viễn cảnh của Thành phố Trắng và độ tương phản sâu sắc của nó với Thành phố Đen đã khiến ông viết Nếu chúa Kitô đến Chicago, một cuốn sách được cho là đã phát động phong trào Thành phố đẹp, phong trào tìm cách cải thiện các thành phố của Mỹ sánh ngang với các thành phố lớn của châu Âu. Giống như Stead, chính quyền công dân trên khắp thế giới coi hội chợ là một hình mẫu để hướng tới. Họ nhờ Burnham áp dụng tư duy tổng thể của Thành phố Trắng cho các đô thị của mình. Ông trở thành người tiên phong trong quy hoạch đô thị hiện đại. Ông đã tạo ra các bản quy hoạch toàn thành phố cho Cleveland, San Francisco, Manila và dẫn đầu những nỗ lực củng cố và mở rộng kế hoạch L’Enfant của Washington, D.C.101 vào thời điểm chuyển giao giữa hai thế kỷ. Trong tất cả các trường hợp, ông đều làm không công.

101 Kế hoạch L’Enfant (L’Enfant Plan) cho thành phố Washington là một kế hoạch phát triển đô thị vào năm 1791 do kiến trúc sư Pierre (Peter) Charles L’Enfant lập nên cho George Washington, tổng thống đầu tiên của Mỹ.

Trong khi giúp đỡ thiết kế bản quy hoạch mới cho Washington, Burnham thuyết phục Alexander Cassatt, người đứng đầu Công ty Đường sắt Pennsylvania, bỏ tuyến đường sắt chở hàng và kho từ trung tâm tòa thị chính liên bang, qua đó tạo nên một mảng xanh không bị cản trở kéo dài từ điện Capitol đến Đài tưởng niệm Lincoln ngày nay. Các thành phố khác, trong đó bao gồm Fort Worth, Atlantic City và St. Louis, đều tìm gặp Daniel Burnham vì bản quy hoạch toàn thành phố, tuy nhiên ông đã từ chối họ để tập trung vào kế hoạch cuối cùng của ông, kế hoạch dành cho thành phố Chicago. Trong những năm qua, nhiều phần trong kế hoạch Chicago của ông đã được thông qua, trong đó có việc tạo ra một dải ruy băng đáng yêu tại các công viên bờ hồ và “Dặm đường thần kỳ” của đại lộ Michigan Avenue102. Trên một khu đất ven hồ, công viên Burnham được xây dựng nhằm vinh danh ông, bao gồm sân vận động Soldier Field và bảo tàng Field do ông thiết kế, công viên chạy về phía Nam theo một đường viền hẹp màu xanh lá bao quanh bờ hồ đến tận công viên Jackson, nơi cung điện Mỹ thuật được chuyển thành một công trình cố định, giờ chứa Bảo tàng Khoa học và Công nghiệp. Nó nhìn ra đầm phá và đảo Wooded, giờ đã trở thành một nơi hoang dã và hỗn tạp có lẽ sẽ khiến Olmsted hài lòng - mặc dù chắc chắn ông sẽ tìm ra thứ để chỉ trích.

102 Dặm đường thần kỳ (The Magnificent Mile, đôi khi được gọi là Miracle Mile), là một đoạn đường cao cấp của đại lộ Michigan của Chicago.

Đầu thế kỷ XX, hội chợ đã trở thành một chủ đề tranh luận gay gắt trong giới kiến trúc. Những người chỉ trích tuyên bố hội chợ đã dập tắt Trường Phái Kiến Trúc Chicago, một thổ ngữ bản địa và thay thế nó bằng sự sùng kính phong cách cổ điển lỗi thời. Được nhắc đi nhắc lại từ luận án này đến luận án khác, quan điểm này trở nên nổi tiếng nhờ sự năng nổ đáng tò mò của một cá nhân, khiến người ta cưỡng lại nó một cách khó khăn - như những gì thường thấy trong các phòng tranh luận học thuật chật chội và ngột ngạt - thậm chí nguy hiểm.

Người đó là Louis Sullivan, người đầu tiên và lớn tiếng nhất lên án tầm ảnh hưởng của hội chợ đến kiến trúc, nhưng vào gần cuối đời và rất lâu sau khi Burnham chết.

Sau hội chợ, mọi thứ đã diễn ra không mấy tốt đẹp với Sullivan. Trong năm đầu tiên của cơn trầm cảm sau hội chợ, công ty Adler & Sullivan chỉ nhận được hai hợp đồng; đến năm 1895, không hợp đồng. Đến tháng 7 năm 1895, Adler bỏ công ty. Sullivan lúc đó ba mươi tám tuổi và không đủ khả năng tạo dựng các mối quan hệ mà có thể đã đưa đến các hợp đồng mới để duy trì khả năng thanh toán của công ty. Ông là một người cô độc và thiếu khoan dung về mặt chuyên môn. Khi một kiến trúc sư đồng nghiệp nhờ Sullivan cho lời khuyên về cách cải thiện một trong những thiết kế của mình, Sullivan trả lời, “Nếu tôi có nói với anh, anh cũng không hiểu tôi đang nói gì.”

Khi thực tế vỡ vụn, Sullivan buộc phải rời khỏi văn phòng của mình ở tòa nhà Thính phòng và bán đồ dùng cá nhân. Ông nghiện rượu nặng và sử dụng thuốc cải thiện tâm trạng có tên bro-mua. Trong những năm 1895 đến 1922, Sullivan chỉ xây dựng hai mươi lăm công trình mới, khoảng một công trình một năm. Thỉnh thoảng, ông đến chỗ Burnham vì tiền, dù không rõ ông vay hay bán cho Burnham các tác phẩm nghệ thuật từ bộ sưu tập cá nhân của mình. Một mục trong nhật kí của Burnham vào năm 1911 cho biết, “Louis Sullivan vay thêm tiền của DHB.” Cũng trong năm đó, Sullivan kí dưới một bộ sưu tập các bản vẽ, “Gửi tặng Daniel H. Burnham, với những lời chúc tốt đẹp nhất từ người bạn Louis H. Sullivan.”

Tuy nhiên, Sullivan bồi vào cuốn tự truyện năm 1924 của mình các cuộc tấn công phóng đại nhằm vào Burnham và tác động của hội chợ đến đám đông đi qua cánh cổng của nó. Kiến trúc cổ điển của Thành phố Trắng đã gây ra ấn tượng sâu sắc đến nỗi, Sullivan tuyên bố, nó đã đày đọa Mỹ phải bắt chước trong nửa thế kỷ tới. Hội chợ là một “bệnh dịch lây lan”, một “con virus”, một dạng “viêm màng não cấp”. Theo quan điểm của ông, nó đã gây ra hậu quả chết người. “Kể từ đó kiến trúc đã chết tại vùng đất của tự do và dũng cảm - một vùng đất của nền dân chủ nhiệt thành, của sự sáng tạo, tháo vát, sự táo bạo, kinh doanh và tiến bộ độc nhất.”

Những ý kiến hạ thấp Burnham và hội chợ của Sullivan đối nghịch với cách nhìn cao quý của bản thân ông và những gì ông ta thấy là vai trò của ông trong nỗ lực mang đến cho kiến trúc một điều gì đó mới mẻ và riêng biệt đậm chất Mỹ. Frank Lloyd Wright theo phe Sullivan. Sullivan sa thải ông vào năm 1893, nhưng sau đó Wright và Sullivan trở thành bạn bè. Khi danh tiếng học thuật của Wright tăng lên, danh tiếng học thuật của Sullivan cũng tăng lên. Còn Burnham thì rơi xuống từ trời cao. Điều này đã trở thành quy chuẩn thẩm mĩ trong giới phê bình kiến trúc và lịch sử. Họ tranh luận rằng Burnham đã giết chết kiến trúc Mỹ trong sự bất an và sùng bái đến mù quáng đối với những khao khát từ lâu của kiến trúc phương Đông.

Nhưng quan điểm trên quá đơn giản, như một số nhà sử học và phê bình kiến trúc gần đây thừa nhận. Hội chợ đã đánh thức Mỹ đến với cái đẹp và điều đó là một lối đi cần thiết để đặt nền móng cho những người như Frank Lloyd Wright và Ludwig Mies van der Rohe103.

103 Ludwig Mies van der Rohe (27/03/1886 – 19/08/1969) là một kiến trúc sư nổi tiếng thế giới người Đức. Ông là một trong những người đặt nền móng cho sự phát triển của trào lưu kiến trúc hiện đại của thế kỷ XX và được xem như cha đẻ của phong cách kiến trúc tối giản (Minimalism).

Đối với cá nhân Burnham, hội chợ là một chiến thắng tuyệt đối. Nó cho phép ông thực hiện lời thề trở thành kiến trúc sư vĩ đại nhất nước Mỹ với cha mẹ mình, vì chắc chắn vào ngày đó ông đã trở thành một người như vậy. Trong thời gian diễn ra hội chợ đã xảy ra một sự kiện mà không ai, ngoại trừ những người bạn thân nhất của Burnham nhận ra tầm quan trọng của nó: Cả Harvard và Yale trao cho ông bằng thạc sĩ danh dự, ghi nhận thành tích xây dựng hội chợ của ông. Hai buổi lễ diễn ra trong cùng một ngày. Ông tham dự buổi lễ tại Harvard. Đối với ông, giải thưởng là một hình thức chuộc lỗi. Thất bại trong việc vào cả hai trường đại học trong quá khứ - một điều phủ nhận “sự khởi đầu đúng đắn” của ông - đã đeo bám ông suốt cuộc đời. Thậm chí nhiều năm sau khi nhận giải thưởng, khi ông vận động Harvard cấp quyền nhập học tạm thời cho con trai Daniel, người có kết quả kiểm tra đầu vào còn hơn cả xuất sắc, Burnham viết, “Con cần biết rằng mình là kẻ chiến thắng và một khi con biết điều đó, con sẽ cho thấy phẩm chất thật sự của mình, như ta đã làm. Việc ai đó đã không dõi theo ta tại Cambridge... và cho các nhà chức trách biết những gì ta có thể làm là sự hối hận sâu sắc nhất cuộc đời ta.”

Burnham đã chứng tỏ bản thân mình, ở Chicago, trải qua những công việc khó khăn nhất. Ông nổi giận trước niềm tin dai dẳng rằng John Root xứng đáng nhận được lời khen ngợi nhất vì vẻ đẹp của hội chợ. “Những gì ông ấy đã làm trước khi chết chỉ là gợi ý kế hoạch mờ nhạt nhất,” ông nói. “Ấn tượng về công lao của ông đã từng bước được xây dựng bởi một số người, những người bạn thân của ông và hầu hết là phụ nữ, những người sau khi hội chợ chứng minh vẻ đẹp của mình một cách tự nhiên, đã mong muốn tưởng nhớ đến ông rộng rãi hơn thông qua nó.”

Cái chết của Root khiến Burnham đau buồn, nhưng nó cũng giải phóng ông trở thành một kiến trúc sư tốt và khái quát hơn. “Nhiều người trăn trở rằng liệu mất đi ông Root có phải là một điều không thể khắc phục,” James Ellsworth đã viết trong một bức thư gửi Charles Moore, người viết tiểu sử của Burnham. Ellsworth kết luận rằng cái chết của Root “đem lại những phẩm chất mà có lẽ chính ông Burnham cũng không thể phát triển nếu ông Root còn sống.” Hầu hết mọi người đều chung một quan niệm rằng Burnham quản lí các khía cạnh kinh doanh của công ty, trong khi Root thực hiện tất cả các thiết kế. Burnham dường như “đã học được ít nhiều” từ tài năng nghệ thuật của Root, Ellsworth nói, nhưng nói thêm rằng sau khi Root chết “ông ấy sẽ không bao giờ nhận ra điều gì tương tự... hoặc chưa bao giờ biết rằng mình đã từng có một đối tác hoặc mình đã luôn chỉ đạo ở cả hai khía cạnh.”

Năm 1901, Burnham xây dựng tòa nhà Fuller tại ngã ba của Đường 23 giao với Broadway ở New York, tuy nhiên cư dân khu phố nhận thấy một sự tương đồng kỳ lạ với một dụng cụ trong nhà quen thuộc và gọi nó là tòa nhà Bàn là. Burnham và công ty của ông tiếp tục xây dựng hàng chục tòa nhà khác, trong đó bao gồm trung tâm bán lẻ của Gimbel tại New York, của Filene tại Boston và đài quan sát núi Wilson tại Pasadena, California. Trong số hai mươi bảy tòa nhà ông và John Root xây dựng tại khu Loop của Chicago, chỉ có ba tòa nhà vẫn còn tồn tại đến ngày hôm nay, trong đó có tòa nhà Rookery, thư viện trên tầng thượng vẫn gần như nguyên vẹn như nơi diễn ra cuộc họp diệu kỳ vào tháng 2 năm 1891 và tòa nhà Reliance, được chuyển đổi một cách đẹp đẽ thành khách sạn Burnham. Nhà hàng của nó được gọi là Atwood, lấy theo tên Charles Atwood, người thay thế Root trở thành nhà thiết kế chính của Burnham.

Burnham trở thành nhà môi trường học đầu tiên. “Cho đến thời đại của chúng ta,” ông nói, “việc tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên đã không được nghiêm túc thực hiện, nhưng từ nay trở đi chúng ta phải thực hiện điều này, trừ khi chúng ta đủ vô đạo đức để gây hại cho các điều kiện sống của con cháu chúng ta.” Ông đặt niềm tin lớn lao, mặc dù nhầm chỗ vào xe tự động. Sự kết thúc của xe ngựa sẽ “chấm dứt một kỷ nguyên man rợ,” ông nói. “Khi thay đổi này xuất hiện, nền văn minh sẽ thực hiện một bước tiến thực sự. Không có khói, không có khí ga, không có phân ngựa, không khí và đường phố của chúng ta sẽ sạch sẽ và tinh khiết. Chẳng phải điều này đồng nghĩa với việc sức khỏe và tinh thần của con người sẽ tốt hơn hay sao?”

Vào những đêm mùa đông ở Evanston, ông và vợ cưỡi xe trượt tuyết với ông bà Frank Lloyd Wright. Burnham trở thành tay nghiện bài Brit104, mặc dù mọi người biết đến ông như là một tay mơ. Ông đã hứa với vợ rằng sau khi hội chợ kết thúc, lượng công việc của ông sẽ giảm bớt. Nhưng điều đó đã không xảy ra. Ông nói với Margaret, “Anh đã nghĩ rằng hội chợ là một cuộc sống căng thẳng, nhưng anh nhận thấy tiến độ đầy áp lực của tất cả những dự án này khiến mình bận rộn cả ngày, cả tuần hoặc cả năm.”

104 Bài Brit hay Contract Bridge hay bài Bridge là một kiểu chơi bài ra đời từ thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, thịnh hành ở Mỹ và Anh. Môn chơi gồm bốn người, hai người ngồi đối diện tạo thành một cặp, sử dụng bộ bài 52 cây.

Sức khỏe của Burnham bắt đầu suy giảm, khi ông đã ở tuổi ngũ tuần. Ông bị viêm đại tràng và vào năm 1909, phát hiện ra mình bị bệnh tiểu đường. Cả hai căn bệnh buộc ông phải áp dụng một chế độ ăn uống lành mạnh hơn. Bệnh tiểu đường đã làm hại hệ tuần hoàn của ông và nuôi dưỡng căn bệnh nhiễm trùng chân hành hạ ông suốt phần đời còn lại. Khi năm tháng dần trôi, ông bộc lộ sự quan tâm đến các hiện tượng siêu nhiên. Một đêm ở San Francisco, trong một ngôi nhà gỗ ông xây dựng trên đỉnh Twin Peaks mù sương, khu ổ chuột nơi ông lên kế hoạch, ông nói với một người bạn, “Nếu tôi có thời gian, tôi tin mình có thể chứng minh được rằng cuộc sống vẫn tiếp tục sau cái chết, giải thích từ những điều tất lẽ dĩ ngẫu của niềm tin vào một quyền lực tuyệt đối và phổ quát, một cách triết học.”

Ông biết rằng thời gian của mình sắp hết. Vào ngày 4 tháng 7 năm 1909, khi đứng cùng bạn bè trên nóc tòa nhà Reliance, nhìn ra thành phố ông yêu mến, ông nói, “Các ngài sẽ thấy nó đáng yêu. Tôi sẽ không bao giờ được thấy điều đó. Nhưng nó vẫn đáng yêu.”