• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Ác quỷ thành phố trắng
  3. Trang 68

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 67
  • 68
  • 69
  • More pages
  • 72
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 67
  • 68
  • 69
  • More pages
  • 72
  • Sau

Lời tiễn biệt

Tiếng ầm trong tai, cơn đau trong miệng và chứng mất ngủ của Olmsted chưa bao giờ thuyên giảm. Chả mấy chốc một sự trống rỗng bắt đầu xuất hiện trong ánh mắt của ông. Ông trở nên đãng trí. Vào ngày 10 tháng 5 năm 1895, hai tuần sau sinh nhật lần thứ bảy mươi ba của mình, ông đã viết cho John, con trai ông, “Vào ngày hôm nay, lần đầu tiên ta nhận thấy rõ ràng rằng ta không còn có thể tin tưởng trí nhớ của mình cho những sự kiện gần đây.” Ông đã bảy mươi ba tuổi. Mùa hè năm đó vào ngày cuối cùng tại văn phòng Brookline, ông đã viết ba lá thư cho George Vanderbilt, trong đó nói những điều gần như tương tự.

Trong khoảng thời gian tháng 9 năm 1895 mà ông mô tả là “tuần cay đắng nhất của cuộc đời tôi”, ông thú nhận với người bạn Charles Eliot của ông, về nỗi kinh hoàng rằng tình trạng của ông sẽ sớm buộc ông phải vào một viện tâm thần. “Ngài không thể tưởng tượng nổi tôi đã khiếp sợ như thế nào khi nghĩ rằng việc tôi được đưa vào một “viện” sẽ là một điều hợp lí,” ông viết vào ngày 26 tháng 9. “Bất cứ điều gì trừ điều này. Cha tôi là giám đốc của một bệnh viện tâm thần, sau khi làm việc một cách chuyên nghiệp “phía sau hậu trường” của một vài viện, nỗi sợ hãi những nơi như vậy của tôi là rất sâu sắc.”

Chứng mất trí nhớ của ông ngày càng nặng. Ông trở nên chán nản và hoang tưởng, ông cáo buộc con trai John đã dàn xếp một cuộc “đảo chính” để loại bỏ ông khỏi công ty. Mary, vợ Olmsted, đưa Olmsted đến căn nhà ngoài đảo của gia đình tại Maine, nơi cơn trầm cảm của ông gia tăng và thỉnh thoảng ông trở nên hung dữ. Ông đã đánh đập con ngựa của gia đình.

Mary và con trai của bà nhận ra họ chẳng thể làm gì cho Olmsted. Ông trở nên khó kiểm soát và bệnh mất trí nhớ ngày càng trầm trọng. Với nỗi buồn sâu sắc và có lẽ là cả một sự nhẹ nhõm lớn, Rick đã đưa cha mình vào Viện Tâm thần McLean Asylum ở Waverly, Massachusetts. Bộ nhớ của Olmsted chưa bị phá hủy đến nỗi không nhận ra chính ông đã thiết kế các công trình của McLean. Thực tế này không đem lại cho ông niềm an ủi nào, vì ông ngay lập tức nhận ra rằng các hiện tượng như vậy đã làm giảm số lượng các công trình của ông - Công viên trung tâm, Biltmore, hội chợ Thế giới và nhiều công trình khác, một lần nữa xuất hiện. “Chúng đã không thực hiện kế hoạch của ta,” ông viết, “quỷ tha ma bắt chúng đi!”

Olmsted qua đời vào hai giờ sáng ngày 28 tháng 8 năm 1903. Tang lễ của ông diễn ra khiêm tốn, chỉ gồm các thành viên trong gia đình. Vợ ông, người chứng kiến người đàn ông vĩ đại này biến mất trước mắt mình, đã không tham dự.

***

Vòng đu quay Ferris đạt doanh thu hai trăm ngàn đô-la tại hội chợ và được giữ nguyên cho đến mùa xuân năm 1894, khi George Ferris tháo dỡ và lắp ráp lại nó tại phía Bắc Chicago. Tuy nhiên, đến thời điểm này, nó đã mất đi cả sự mới lạ lẫn số lượng khách tham gia so với hồi ở Midway. Vòng đu quay bắt đầu lỗ. Những thua lỗ này, cộng với chi phí di chuyển một trăm năm mươi ngàn đô-la và thiệt hại tài chính mà công ty kiểm tra thép của Ferris phải hứng chịu từ suy thoái kéo dài, đã khiến Ferris bán gần hết quyền sở hữu vòng đu quay.

Vào mùa thu năm 1896, Ferris và vợ li thân. Cô trở về nhà với cha mẹ mình; ông chuyển đến khách sạn Duquesne ở trung tâm thành phố Pittsburgh. Ngày 17 tháng 11 năm 1896, ông được đưa đến bệnh viện Mercy, nơi ông qua đời năm ngày sau đó, có lẽ do sốt thương hàn. Ông mới ba mươi bảy tuổi. Một năm sau đó, tro của ông vẫn thuộc sở hữu của người mai táng. “Yêu cầu hoàn trả lại tro của bà Ferris đã bị từ chối,” người mai táng cho biết, “vì người đã chết muốn ở bên những người thân gần gũi hơn.” Trong một bài điếu văn, hai người bạn cho biết Ferris đã “tính toán sai sức chịu đựng của mình và ông đã tử vì đạo trước tham vọng danh tiếng và sự lỗi lạc của mình.”

Vào năm 1903, Công ty Dỡ nhà Chicago mua vòng đu quay tại một cuộc đấu giá với giá 8.150 đô-la, sau đó lắp ráp lại nó tại hội chợ mua bán Louisiana năm 1904. Tại đây vòng đu quay một lần nữa có lãi và đem lại cho chủ sở hữu mới của nó hai trăm mười lăm ngàn đô-la. Vào ngày 11 tháng 5 năm 1906, Công ty Dỡ nhà đã cho nổ vòng đu quay bán phế liệu. Bốn mươi lăm cân thuốc nổ đầu tiên được cho là để tháo lỏng bánh xe khỏi hệ thống hỗ trợ và lật nó sang một bên. Thay vào đó, bánh xe bắt đầu quay chậm như thể tìm kiếm một vòng quay cuối cùng qua bầu trời. Nó sụp xuống thành một ngọn núi thép bị cong dưới sức nặng của mình.

***

Sol Bloom, giám đốc của Midway, trở thành một người đàn ông trẻ tuổi giàu có sau hội chợ. Anh đầu tư mạnh vào một công ty chuyên mua các loại thực phẩm dễ bị hư hỏng và vận chuyển chúng trong những chiếc xe lạnh mới nhất đến các thành phố xa xôi. Đó là một phi vụ kinh doanh tốt đẹp và tiên tiến. Tuy nhiên, cuộc đình công tại Pullman đã dừng tất cả lưu lượng tàu qua Chicago và các loại thực phẩm dễ hỏng mục nát trong các toa xe. Anh đã bị hủy hoại. Tuy nhiên, anh vẫn còn trẻ, vẫn rực rỡ105. Anh dùng ngân quỹ còn lại của mình để mua hai bộ quần áo đắt tiền, giải thích rằng dù sau đây anh làm bất cứ điều gì, anh cũng phải trông thuyết phục. “Nhưng có một điều khá rõ ràng...” anh viết. “[Bị] rớt đài không làm phiền tôi chút nào. Tôi bắt đầu từ tay trắng và nếu bây giờ tôi lại tay trắng thì ít nhất tôi đã hòa vốn. Trên thực tế, tôi khá hơn nhiều so với hòa vốn: Tôi đã có một khoảng thời gian tuyệt vời.”

105 Tác giả chơi chữ: Bloom trong tên Sol Bloom có nghĩa là rực rỡ.

Bloom đã trở thành một đại biểu quốc hội và một trong những người lập nên hiến chương thành lập ra Liên Hợp Quốc.

***

Hội chợ đem lại cho Buffalo Bill một triệu đô-la (khoảng ba mươi triệu đô-la ngày nay), ông sử dụng nó để lập nên thị trấn Cody, Wyoming, xây dựng một nghĩa trang và khu hội chợ tại Bắc Platte, Nebraska, trả các khoản nợ của năm nhà thờ Bắc Platte, mua một tờ báo tại Wisconsin và đẩy mạnh sự nghiệp sân khấu của một nữ diễn viên trẻ dễ thương có tên Katherine Clemmons, qua đó làm gia tăng sự lạnh nhạt vốn đã rõ ràng với vợ mình. Đã có thời điểm ông buộc tội vợ cố gắng đầu độc mình.

Cuộc hoảng loạn năm 1907 đã tàn phá Miền Tây hoang dã của ông và buộc ông phải đi làm thuê cho các gánh xiếc. Ông đã hơn bảy mươi tuổi nhưng vẫn cưỡi ngựa chạy vòng quanh vũ đài với chiếc mũ trắng lớn gắn bạc của mình. Ông qua đời ở Denver, tại nhà của chị gái mình vào ngày 10 tháng 1 năm 1917, thậm chí không có tiền để chi trả ma chay của mình.

***

Theodore Dreiser kết hôn với Sara Osborne White. Năm 1898, hai năm trước khi xuất bản Sơ Carrie, anh đã viết cho Sara, “Tôi đã đến công viên Jackson và chiêm ngưỡng những gì còn lại của hội chợ thế giới thân yêu, nơi tôi đã học cách yêu em.” Anh liên tục lừa dối cô.

***

Đối với Dora Root, cuộc sống thiếu John giống như sống trên một sao chổi. Cuộc hôn nhân của họ đã đưa bà vào thế giới của nghệ thuật và tiền bạc, nơi tất cả mọi thứ dường như tràn đầy sinh lực và sức sống. Sự hóm hỉnh của chồng bà, tài năng âm nhạc của ông, những ngón tay dài tinh tế nổi bật trong bất kỳ bức ảnh nào đem lại cho cuộc sống của bà một tia nắng mà bà không bao giờ có thể lấy lại sau khi ông chết. Những năm cuối thập niên đầu tiên của thế kỷ XX, bà đã viết một lá thư dài cho Burnham. “Việc ngài nghĩ rằng tôi đã sống tốt suốt những năm qua có ý nghĩa rất lớn đối với tôi,” bà viết. “Tôi có những nghi ngờ rất lớn về bản thân mình bất cứ khi nào tôi dừng lại để suy nghĩ về vấn đề này, đó là việc một lời động viên từ một trong những người làm chủ cuộc sống của mình một cách tuyệt vời mang lại cho tôi một động lực mới. Nếu việc xả thân trước khi thế hệ sắp tới xuất hiện và khiêm tốn truyền lại ngọn đuốc là phận sự của người phụ nữ, tôi tin rằng tôi xứng đáng nhận được một lời khen ngợi.”

Nhưng bà biết rằng cùng với cái chết của John, cánh cửa đến một tương lai tươi sáng hơn đã nhẹ nhàng nhưng kiên quyết đóng lại. “Nếu John còn sống,” cô nói với Burnham, “tất cả sẽ khác. Dưới sự kích thích từ cuộc sống phấn khởi của anh ấy, tôi sẽ là người vợ và người mẹ của các con anh ấy. Và tôi sẽ là một người thú vị!”

***

Patrick Eugene Joseph Prendergast bị xét xử vào tháng 12 năm 1893. Công tố viên là một luật sư hình sự nhà nước được thuê chỉ cho vụ án này.

Tên ông là Alfred S. Trude.

Luật sư của Prendergast cố gắng chứng minh rằng Prendergast bị điên, nhưng bồi thẩm đoàn giận dữ và đau buồn của Chicago tin điều ngược lại. Một chứng cứ quan trọng của công tố viên khẳng định bị cáo tỉnh táo đó là Prendergast đã thận trọng để một ổ đạn rỗng dưới chốt an toàn của khẩu súng lục khi giữ nó trong túi. Vào hai giờ hai mươi tám phút chiều ngày 29 tháng 12, sau khi thảo luận trong một giờ ba phút, bồi thẩm đoàn kết luận gã có tội. Thẩm phán đã kết án tử hình. Trong suốt phiên tòa và lần kháng án sau đó, gã tiếp tục gửi bưu thiếp cho Trude. Vào ngày 21 tháng 2 năm 1894, gã viết, “Không nên tử hình bất cứ ai nếu có thể tránh được, thật vô đạo đức nếu xã hội trở nên man rợ như vậy.”

Clarence Darrow tham gia vụ án và khéo léo giành được một bài kiểm tra sự tỉnh táo cho Prendergast. Tuy nhiên, bài kiểm tra này cũng thất bại và Prendergast vẫn bị xử tử. Darrow gọi gã là “một gã mất trí khờ dại đáng thương.” Xử tử càng làm gia tăng thù hận vốn đã sâu của Darrow đối với án tử hình. “Tôi cảm thấy tiếc cho tất cả những người cha và tất cả những người mẹ,” ông cho biết, nhiều năm sau đó, khi bào chữa cho Nathan Leopold và Richard Loeb, bị buộc tội giết một cậu bé Chicago cho vui. “Người mẹ nhìn vào đôi mắt xanh của con mình không thể không suy nghĩ đăm chiêu về cái kết của con, liệu nó có được ban thưởng bằng những lời hứa vĩ đại nhất tâm trí bà có thể tưởng tượng ra, hay nó sẽ đối diện với cái chết trên đoạn đầu đài.”

Leopold và Loeb, dần trở nên nổi tiếng trên toàn thế giới, đã lột quần áo nạn nhân để che dấu danh tính của cậu. Họ bỏ lại một số quần áo của nạn nhân tại đầm phá của Olmsted tại công viên Jackson.

***

Tại New York, trong khách sạn Waldorf-Astoria những năm đầu thế kỷ mới vài chục thanh niên trong trang phục buổi tối tụ tập xung quanh một chiếc bánh khổng lồ. Lớp kem phía trên bắt đầu di chuyển. Một người phụ nữ trồi lên. Cô tuyệt đẹp với làn da ô liu và mái tóc đen dài. Tên cô là Farida Mazhar. Những thanh niên đó còn quá trẻ để nhớ đến cô, nhưng một thời gian dài trước đó cô đã từng múa điệu danse du ventre tại hội chợ lớn nhất trong lịch sử.

Giờ những gì các thanh niên chú ý đó là việc cô không mặc gì cả.