Nếu một người đổ bệnh, uống thuốc hay tiêm thuốc đều có thể chữa khỏi bệnh. Thế nhưng, nếu tư duy, suy nghĩ bị nhiễm độc, giống như bệnh đã đi vào xương tủy thì quả thật là vô phương cứu chữa.
Bệnh trong tư tưởng chính là những hiểu biết sai lầm. Phật giáo gọi là năm loại tà kiến: ngã kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến1. Năm loại này đều là thiên kiến (thấy biết sai lệch). Một người nếu hiểu biết sai lệch, lại khư khư chấp vào đó không chịu buông bỏ, thì quả là một chứng bệnh trầm trọng, khó chữa trị.
1 Năm loại tà kiến:
(1) Ngã kiến: Quan điểm cho rằng có một bản ngã thực sự tồn tại độc lập so với các đối tượng bên ngoài nó gọi là ngoại cảnh. Nhận thức này là sai lầm, không đúng thật với thực tại vốn hiện hữu do sự kết hợp của nhân duyên, kể cả cái gọi là bản ngã đó cũng không ngoại lệ.
(2) Biên kiến: Là cái thấy, cái chấp nghiêng về một bên. Thí dụ: chấp thế gian này là thường hay đoạn đều là biên kiến.
(3) Tà kiến: Là tin vào những hệ thống tư tưởng sai lầm, là cái thấy biết sai lệch. Đây là nguồn gốc của mọi bất thiện.
(4) Kiến thủ kiến: Là cho rằng ý kiến của mình, cái thấy của mình là đúng, của người khác là sai.
(5) Giới cấm thủ kiến: Là chấp giữ vào giới, không thể buông bỏ. Muốn được giải thoát thì tâm không thể bị vướng mắc vào bất cứ thứ gì, kể cả giới.
Chẳng hạn, chấp thường và chấp đoạn trong biên kiến: Có người cho rằng, con người chết đi như “dầu cạn, đèn tắt”, không tin nhân quả nghiệp báo, không tin năm đường lưu chuyển, sáu nẻo trôi lăn, cảm thấy kiếp người chẳng có gì đáng để hy vọng. Đây chính là một loại định kiến. Có người “hôm nay có rượu hôm nay say”, cho rằng con người sinh ra được làm người thì muôn kiếp vẫn là con người; trời sinh ra vạn vật đều để cho con người thọ hưởng, sử dụng. Đây là chấp thường, không tiếp nhận chân lý vô thường biến đổi, cũng là tà kiến.
Trên thế gian, có người cứ ôm khư khư nỗi khổ, có người mãi chấp chặt niềm vui. Người chấp “lạc hạnh”, mỗi ngày đều xa hoa đồi trụy, trong kiếp người nóng hừng hực như lửa đốt, không hề hay biết ba cõi không an, chẳng khác nào ở trong nhà lửa. Còn người chấp “khổ hạnh”, cả ngày chỉ biết tự làm khổ thân tâm, không biết cải thiện nghiệp nhân, đời sống vô cảm vô thần, do đó gặp trở ngại trên con đường chính đạo, tự do, giải thoát.
Lúc Đức Phật mới thành đạo, sở dĩ Ngài muốn nhập Niết bàn ngay lập tức cũng bởi quán thấy chân lý tự mình đã chứng ngộ, dường như đi ngược lại với nhận thức con người, vì chúng sinh chấp trước, suy nghĩ sai lệch. Ngài lo rằng chúng sinh vô tri lại hủy báng chân lý, chi bằng nhập vào vô dư Niết bàn, có thể giảm đi rất nhiều phiền phức.
Thông thường, con người đều tin vào mắt mình, cho rằng những gì chính mắt mình thấy, chính tai mình nghe tuyệt đối không thể sai lầm. Kỳ thực, dù mắt thấy cũng chưa chắc đã chính xác. Chúng ta thường thấy, các bác thợ mộc khi làm việc hay dùng dây dọi đo lường chuẩn xác, đều nhắm một mắt để nhìn, ngắm một mắt đôi khi còn chính xác hơn hai mắt, thậm chí không cần nhìn bằng mắt có khi còn chính xác hơn nhìn một mắt. Không cần nhìn bằng mắt mà nhìn bằng tâm mới nhận rõ chân tướng, nhìn bằng mắt chỉ thấy giả tướng nên mới sinh ra chấp trước và suy nghĩ sai lệch.
Có một người thường có tính kỳ thị và phân biệt chủng tộc, về sau mắt ông ta bị mù, nên không còn nhìn thấy màu da và từ đó chẳng bao giờ có thành kiến với chủng tộc, màu da nữa.
Hai nước không thể cùng nhau phát triển và chung sống hòa bình, là vì mỗi bên đều khăng khăng cố chấp. Vì thành kiến và bảo thủ ấy, mà hai bên chẳng nhìn thấy hàng triệu người đang mong cầu, khát khao được chung sống hòa bình, vui vẻ và hạnh phúc. Chính vì thế, thật sự hy vọng những vị lãnh đạo hai bên từ nay về sau, có thể lấy từ bi và trí tuệ của Phật pháp, vui vẻ dung hòa, tôn trọng bao dung, trừ bỏ những thành kiến cố chấp, buông xuống những chấp niệm giữa hai bên, để thật sự chung sống hòa bình và cùng nhau phát triển. Như vậy, tất cả mới có thể chung hưởng an ổn và phồn vinh.