Không phải tự nhiên mà con người trở thành chúa tể của muôn loài, điều này ắt hẳn phải có những nguyên nhân riêng. Trên thực tế, ta có thể thấy được bản lĩnh phi thường của con người thông qua việc săn bắt, huấn luyện các loài chim thú.
Chúng ta thấy đời sống của các loài động vật trong sở thú, từ những loài nhỏ như chim, cá đến cả các loài to lớn, hung dữ như sư tử, hổ, báo, v.v. không loài nào là không bị con người nuôi nhốt trong lồng để phục vụ khách tham quan. Trong gánh xiếc thú, voi, ngựa cũng đều bị nuôi nhốt để làm trò tiêu khiển cho con người. Những con vật này ngoan ngoãn nghe theo sự sắp đặt của người huấn luyện để rồi tự đánh mất đi bản tính hoang dã của chính mình.
Những loài vật dưới đại dương như cá voi, cá heo, sư tử biển, hải cẩu cũng bị con người đánh bắt và thuần phục. Các loài động vật quý hiếm như gấu trúc, gấu túi cũng bị con người biến thành món quà mang tính quốc tế để các nước biếu tặng lẫn nhau.
Cú mèo vốn là loài ăn đêm, ban ngày chúng ta rất hiếm khi gặp được chúng. Thế nhưng, ở Nhật Bản, bên hồ Motosu trong vườn hoa quốc tế Fuji, người ta nuôi những hơn 100 loài cú mèo khác nhau trên thế giới. Chúng giờ đây không thể không thay đổi “giờ sinh học” của chính mình nhằm thích ứng với cuộc sống ban ngày để phục vụ việc tham quan của khách du lịch.
Gà, vịt, ngựa, trâu trở thành những loài gia cầm gia súc được chăn nuôi, đồng thời chỉ phục tùng theo ý muốn của con người. Thêm vào đó, chúng sống không có lý tưởng, ngoài việc lấp đầy cái bụng đói ra thì không còn nhu cầu nào khác nên chỉ biết phó mặc mạng sống, nghe theo mệnh lệnh của loài người. Lại nữa, con người còn coi chó là thú cưng nuôi trong nhà, nhưng khi chó sủa, chủ của chúng lại nhắc nhở: “Không được sủa! Không được sủa!” Cứ như vậy, dần dần chúng đánh mất đi bản năng giống loài của mình. Điều này thực sự khiến người ta cảm thấy buồn thay cho số phận các loài động vật bị con người nuôi nhốt.
Chúng ta hãy nhìn người phương Tây, họ dốc lòng chăm sóc hổ con, báo con bị lạc đàn rồi thả chúng về rừng, về với vòng tay yêu thương của mẹ thiên nhiên. Tình yêu, sự trân quý và tinh thần bảo vệ động vật của người phương Tây thật khiến cho chúng ta vô cùng cảm động. Tinh thần ấy thực sự rất đáng để con người học tập.
Giây phút ta mở cửa lồng để thả những chú chim ra, cho chúng tự do tung đôi cánh bay lượn trên bầu trời, khi ấy lòng chim vui mừng khôn xiết vì một lần nữa lại được thong dong tự tại, điều này đã dấy lên trong chúng một niềm hy vọng khôn nguôi về đời sống hạnh phúc mai sau. Sự đau lòng, tuyệt vọng khi mất tự do chỉ có những người từng bị cầm tù mới có thể hiểu được.
Con người không những nuôi nhốt động vật mà có một số người ở một vài nơi còn nuôi “bùa ngải” với mục đích để làm “tay sai” cho họ trên những ván bài thắng thua. Song “mời quỷ đến thì dễ, tiễn quỷ đi mới khó”. Cuối cùng, chỉ một chút không như ý muốn thôi thì người bị những thứ bùa ngải đó quấy nhiễu lại chính là “chủ nhân” của chúng.
Hơn thế nữa, con người còn coi đồng loại của mình là nô lệ để nuôi nhốt và lợi dụng, có thể kể ra như chế độ mua bán người da màu thời trước hoặc tình trạng nuôi vợ bé hiện nay. Người bị kẻ khác giam cầm, nuôi nhốt đương nhiên thật đáng thương, nhưng chẳng lẽ những kẻ nuôi bắt động vật, giam cầm đồng loại của mình lại là người thông minh, có đức độ ư?
Cùng phận bị “nuôi nhốt”, có người vì bất đắc dĩ, có người lại cam tâm tình nguyện. Thực ra, mỗi sinh mệnh đều đáng nhận được sự tôn trọng như nhau. Nếu có một nhân cách cao quý thì loài người chúng ta nên để cho muôn loài được sống cuộc sống ung dung, tự do tự tại giữa thiên nhiên rộng lớn.
Có câu nói rằng: “Hạc ngoài đồng không ai lo nhưng sống đời tự tại. Gà trong chuồng có người chăm nhưng số phận lênh đênh”. Thật đáng để chúng ta suy ngẫm biết bao!