1.
Đồng Cồn đọ kiếm
Con đường thiên lý từ phương Bắc lách theo sườn rặng Tây Côn Lĩnh luồn về Lạc Việt, lủi qua vùng rùng Tây Vu khấp khểnh, trườn sang rẻo rùng già Cẩm Khê, duỗi thẳng tới ngã ba Thậm Thụt thì chia làm ba hướng: Hướng trái dẫn đến thành Luy Lâu - Thủ phủ thứ sử Giao Châu, hướng phải rẽ sang Loa Thành - Cố đô của người Lạc Việt và một hướng đi xuống vùng hạ lưu sông Hồng.
Bầu trời hè xanh ngắt, lảng vảng vài vầng mây xốp trắng như bông, muôn ngàn tia nắng soi sói lao xuống đất nhưng đều chững lại phía trên tán lá cây rậm rạp. Rừng Cẩm Khê vắng lặng, không tiếng chim kêu vượn hót, chỉ có làn gió rì rào rủ nhau lẻn qua kẽ lá. Cầy cao đất thoáng mà đường rùng vẫn nặng nề âm khí.
Một kỵ sĩ cưỡi tuấn mã phi như bay từ thượng nguồn sông Gâm xuống vùng rừng Cẩm Khê. Phía sau, một người vận võ phục màu trắng dùng thuật kinh công ráo riết đuổi theo.
Kỵ sĩ vừa ra roi vừa khích lệ:
- Cố lên! Cố lên! Tòng Vân kiếm khách, cố lên!
Tới cửa rừng Cẩm Khê thì kẻ phi hành đuổi kịp gã tế ngựa nước đại. Kỵ sĩ buông lỏng dây cương có dáng chịu thua cuộc. Bỗng gã nhướn người nhấn đà cho ngựa tâng tốc độ rồi khích đố:
- Thuật phi hành của ngươi thật là danh bất hư truyền. Lại thử xem sức Tòng Vân kiếm khách có dẻo dai bằng sức Bạch long câu của ta không? Nào, cố lên! Tới ngã ba Thậm...
Kỵ sĩ nói chưa hết lời đã bị một mũi phi tiêu điểm đúng huyệt mệnh môn, sũng người trên lung ngựa. Tên ám toán nhảy vọt tới ghìm ngựa, kéo gã kỵ sĩ xuống đất, chỉ mặt nghiến răng bảo:
- Ta cho mi biết thế nào là cừu hận!
Kỵ sĩ thất thần khi thấy trước mình không phải Tòng Vân kiếm khách mà là kẻ tử thù. Biết chắc không thoát khỏi sự báo oán, gã yêu cầu:
- Xin được chết nhanh chóng!
Gã bạch y trừng mắt, toan giở thủ đoạn tàn khốc hành hạ kẻ thù cho hả lòng căm giận, nhưng nghĩ sao, gã đổi ý gật đầu, đồng thời đưa mạnh bàn tay về phía trước. Nạn nhân “hự” một tiếng, bật tay chân ra mà chết.
Tên giết người móc túi áo của tử thi lấy một cuộn giấy. Đó là bản đồ xác định vị trí kho tàng Đồng Cồn. Gã ngẩng mặt nhìn lên, lẩm nhẩm:
- Cái này cũng được việc đây!
Tên cướp nhét cuộn giấy vào bọc, vác xác chết quẳng xuống sông, rồi nhảy lên lưng Bạch long câu, phóng về hướng ngã ba Thậm Thụt.
*
Hành động bất lương của tên cướp không lọt qua mắt Đan Tốc - Thông hiệu trưởng cơ mật vụ, thuộc Toà thứ sử Giao Châu. Đan Tốc thấy gã bạch y dùng thuật kinh công lén lút đuổi theo người cưỡi ngựa, đoán có sự mờ ám nên bí mật theo dõi. Khi xảy ra sự tình, Đan Tốc toan dùng phi đao xử lý kẻ giết người, nhưng nghĩ tới công việc đang tiến hành, y bỏ ý định “ngang đường thấy sự bất bình chẳng tha”, chỉ lặng lẽ theo hút đối tượng.
Tới ngã ba Thậm Thụt, lên giết người dừng ngựa trước Nghinh Tân Đình.
Nghinh Tân Đình là toà nhà lớn, cột to tày ôm, mái lợp ngói lòng mo, lưng tựa bên sườn đồi cây cối um âm u rậm rạp. Trước toà nhà là chiếc trụ sắt rộng ba gang tay; trụ có từ thời Tần Thuỷ Hoàng phái bốn mươi vạn quân tấn công Âu Lạc, do người Lạc Việt thắng trận gom vũ khí hỏng đúc lên, người Tây Vu vẫn gọi nó là Kình thiên thiết trụ. Nghinh Tân Đình án ngữ ngã ba Thậm Thụt, nằm phía cuối đất Tây Vu. Chủ nhân là Vu Lệ Nương - em gái Vu Lang. Tây Vu là miền đất hương hoả của họ Vu. Hơn ba trăm năm trước, Tây Vu Vương nổi lên khởi nghĩa chống quân xâm lược Triệu Đà, đang thắng lợi thì bị tả tướng Hoàng Đồng ám hại. Nhà Hán tiêu diệt cơ nghiệp họ Triệu, Âu Lạc chuyển sang tay Tây Hán. Bọn đô hộ muốn mua chuộc lòng dân liền cho con cháu Tây Vũ vương được nối tiếp làm hào trưởng trong vùng để giữ hương khói thờ cúng Tây Vu vương. Dân chúng ngưỡng mộ và nhớ ơn đức người xưa nên một niềm tôn phục các con cháu Tây Vu vương. Vu Lang thừa hưởng ân duệ ấy.
Vu Lang là kẻ từng sang Kiến Nghiệp học chữ thánh hiền. Hắn thuộc làu kinh truyện, hấp thụ đủ loại triết lý viển công, phép tắc gò bó. Đầu óc hắn mang nặng thói tôn sùng ngoại bang, miệt thị nền văn hoá dân tộc. Nhà thờ họ Vu, gian chính không thờ tổ tiên mà thờ Tiên thánh sư Khổng phu tử và Sĩ Nhiếp, Tích Quang[1]. Hắn lấy hiếu, đễ, trung, thứ, tu, tề, trị, bình của Khổng - Mạnh làm tiêu chuẩn nhìn đời và phương châm xử thế. Hắn coi tổ quốc của Khổng - Mạnh là trung tâm của vũ trụ. Hắn trương trước cổng tấm hoành phi “Tây Vu ẩn sĩ”, tự coi mình là kẻ sĩ nhắm mắt bưng tai đối với chuyện đời trái ngang. Hỗ trợ vào đó, hắn cho em gái mở Nghinh Tân Đình mua thêm cái danh Mạnh Thường Quân miền Âu Lạc, nhằm làm sáng tỏ danh tiếng bậc trí giả đau đời và thức thời.
[1] Hai viên quan thứ sử đã truyền bá văn tự tượng hình (Ta vân gọi là chữ Nho) ở nước ta.
Nhiều người đã bị họ Vu mồi chài huyễn hoặc... coi Nghinh Tân Đình và Tây Vu trang như cứu cánh khi thất cơ lỡ bước. Nhưng, giới võ lâm giang hồ dần dần phát hiện ra điều mờ ám, họ gọi đích danh chúng là Tây Vu hắc điếm và tên hoạt đầu nham hiểm. Thái thú Giao chỉ muốn lợi dụng Vu Lang để khỏi lo đối phó với hào khí Tây Vu nên ngầm giao kết với họ Vu. Bọn quan quân trảo nha Toà thứ sử biến Nghinh Tân Đình thành thứ sào huyệt tao nhã thực hiện các âm mưu.
Đan Tốc và nữ chủ nhân Tây Vu hắc điếm có quan hệ “cùng hội, cùng thuyền”. Khi biết chắc kẻ giết người trú qua đêm ở Nghinh Tân Đình, Đan Tốc nhanh chóng trở về Luy Lâu vào Dinh cơ mật xin gặp Trấn Ba thượng tướng Lâm Thảo.
*
Lâm Thảo là người có ngoại hình cường mãnh, nhiều cơ mưu, biết nhún mình, giỏi võ nghệ, thường sử dụng cây nhuyễn sách chuỳ nặng trăm cân. Hắn ít mang giáp trụ mà thích dùng bộ y phục màu tím kiểu võ sinh, ngang hông thắt dải đai trắng biểu thị quan cấp bậc cao. Giới võ lâm Giao Châu chỉ có vài người đáng là đối thủ của hắn. Cô Tồn hết sức tin dùng Lâm Thảo.
Cô Tồn được triều đình Kiến Nghiệp phái xuống phương Nam với sứ mệnh cai trị và Ngô hoá người Lạc Việt. Nhưng, Cô Tồn là kẻ nuôi tham vọng lớn. Nhìn hình thế Trung Nguyên, ba nước Ngô, Thục, Nguỵ động binh sát phạt nhau liên miên. Cô Tồn cho rằng đó chính là cơ hội cho anh hùng lập nghiệp, mưu bá đồ vương. Tổn chú tâm thu rụng nhân tài làm nanh vuốt. Y đã nhận bốn mươi chín người có bản lĩnh làm nghĩa tử, đang muốn tìm một người nữa cho tròn số. Cô Tồn đặc biệt hậu đãi Lâm Thảo, giao cho Thảo nhiều quyền hành để Thảo triển khai các kế hoạch giúp y thực hiện mộng bá vương. Kế sách của Lâm Thảo gồm: Tỉa dần bạn đông liêu, lũ thuộc hạ không tuân phục; chặn tin tức giữa Kiến Nghiệp với Lạc Việt dập tắt mọi mầm mống chống đối của người Lạc Việt và điều quan trọng bậc nhất là chiêu mộ tuấn kiệt, thâu gom lực lượng.
Lâm Thảo giao cho Thái Cát thực hiện kế hoạch “chia để trị” đối với những bộ lạc hùng mạnh của Lạc Việt.
Thái Cát là một gã có dáng vẻ thư sinh, mặc áo dài xanh cổ chéo viền hồng, quần đoạn tía, đội mũ đen bằng đầu. Gã giỏi nghề thuốc và thiện dụng các thủ đoạn lừa phỉnh, kích động. Trong túi thuốc của gã luôn luôn giấu một mũi chủy thủ tẩm thuốc độc cực mạnh.
Lâm Thảo tiếp Thái Cát ở sảnh đường. Giao nhiệm vụ xong, Thảo ân cần dặn:
- Ngô và Thục liên minh nên kiệt hiệt như Tào Tháo cũng phải chạy dài. Hải Cẩu và Câu Lậu là hai bộ lạc của quân Giao Chỉ kết thân với nhau là mối lo cho Đô hộ phủ. Trong hai bộ lạc đó có bọn thủ lĩnh quân sự tài giỏi như chàng Đông, đô Hàm, đô Liệp, đô Suất, Tô Đầu Đại...; bản chức từng phái nhiều người đến chiêu dụ bọn tráng sĩ ấy, nhưng bị từ chối, duy Tô Đầu Đại là đứa có thể sai khiến được. Con rồng ẩn trong mây, con hổ gầm gừ trên đỉnh núi, vật mềm khó bẻ, người trung thực dễ nổi giận, kẻ gian tham thường nhũn nhặn và hay quay quắt. Thứ sử đại nhân đặt trọng trách lên vai tiên tinh. Tiên sinh xuống đấy, tuỳ nghi ứng biến, xin lưu tâm!
Thái Cát vâng vâng dạ dạ xin y lời. Đúng lúc đó quân hầu vào báo “Đan thông hiệu trưởng đã về”. Lâm Thảo vẫy tay gật đầu. Đan Tốc bước vào thấy Thái Cát ngồi đó nên lưỡng lự không muốn bẩm việc. Lâm Thảo giục, giọng thân mật:
- Thái tiên sinh và ta là một, ngươi cứ tự nhiên!
Nghe Đan Tốc trình bày xong sự vụ “kẻ gian ám toán người từ kinh Đô Kiến Nghiệp sang”, Lâm Thảo cau mày ra chiều suy nghĩ. Giây lát hắn bảo thuộc hạ:
- Kẻ ấy xổng chân thì tội của ta và ngươi không nhỏ đâu. Ngươi lập tức dẫn tốp Long kiếm đến ngay Thậm Thụt, giám sát tên giết người, ta sẽ tới sau.
Đan Tốc toan đi thì Thái Cát giơ tay ngăn:
- Lâm trấn ba chẳng phải bận tâm, Đan đại huynh cũng chẳng cần vội vàng, hắn đã bước vào Nghinh Tân Đình ắt khó có thể ra ngay. Vu Lệ Nương là cô gái chu đáo. Thuộc hạ tặng tướng quân tín vật để làm quen với Vu nữ. Ai có tín bài này, Vu nữ coi là chủ.
Lâm Thảo nhận tín bài, nắm hai tay nâng lên cao nói:
- Đa tạ sự chu đáo của tiên sinh. Dù sao bản chức cũng phải tới đó. Công việc của tiên sinh... xin cứ thế mà làm.
Một lát sau, cả bọn đã lên ngựa. Thái Cát về quán khách chuẩn bị hành trang cho cuộc đi lâu dài. Lâm Thảo và Đan Tốc thúc ngựa phi về ngã ba Thâm Thụt. Tới nơi, Lâm Thảo giao ngựa cho Đan Tốc, bước lên Nghinh Tân Đình.
Bọn tửu bảo thấy khách quý liền lui vào phía sau. Chủ nhân thân hành ra đón khách. Vu Lệ Nương là cô gái chắc lẳn, dỏng cao, mắt xếch, miệng nhỏ, tuổi chừng ngoài hai mươi, vặn quần áo đen, đi hài đen, tóc gài lược ngà ghim châm bạc, đi đúng yểu điệu. Nữ chủ nhân có điều gì đó kích thích mạnh nên mắt óng ánh, má đỏ rừng rực. Ả cười chúm chím, lên tiếng:
- Đội ơn Trấn Ba tướng quân chiếu cố! Ngài dùng thứ gì, xin sai bảo?
Lâm Thảo chắp tai sau lưng, liếc nhanh toàn cảnh một lượt rồi nhìn vẻ hớn hở của chủ nhân, nói buông thõng:
- Cô nương vừa có bổng, ta muốn dự phần!
Vu Lệ Nương chột dạ: “Gã rậm râu mưu toan thọc gậy bánh xe chăng? Này, chèn ngang chân gái Tây Vu không dễ đâu nhé!”. Nghĩ vậy nhưng ả vẫn giữ vẻ hồn nhiên, khẽ lắc lư đầu, môi son nở nụ cười, cặp mắt phượng cũng cười:
- Người ta thường nói: “Lòng dân dễ biết, ý quan khó dò”. Tướng quân Trấn Ba có nhã ý dạy bảo điều gì, tiện nữ muốn biết rõ?
Lâm Thảo là kẻ thoáng hoạt, gặp gái đẹp thích buông vài lời bỡn cợt. Nay gặp cô gái đẹp là người quen của kẻ tâm phúc nên muốn vui đùa quấy quá vài câu. Y nhắc lại lần thứ hai lời nói của mình, lập tức được đáp bằng tiếng “hứ” vừa đỏng đảnh vừa ngang bướng. Y toan nhắc lần thứ ba thì thoáng thấy cặp mắt phượng, đôi chân mày xếch của cô gái chau lại, y liền cười xoà, tay móc tín bài miệng nói:
- Quả là “mật đắng khó nhá, gái khôn chớ nhờn”. Ta muốn cô nương xem vật này để khỏi coi ta là kẻ ngoài cuộc!
Vu Lệ Nương xét tín bài xong, liền gật đầu mỉm cười. Lâm hỏi tiếp:
- Chớ để mất thì giờ! Gã cưỡi Bạch long câu đâu? Trong người gã có những gì?
Vu nữ mở hòm lấy cuộn giấy ghi chép cách tìm kiếm và khai quật kho tàng Đồng Cồn đưa cho Lâm Thảo. Lâm Thảo xem lướt qua, đặt tập giấy lên bàn nói:
- Ta không cần mớ giấy này! Cô nương tìm kỹ người gã chưa? Ta e rằng thư tín về kho tàng chỉ là cái bình phong che đậy thứ khác hệ trọng hơn.
Vu nữ nhoẻn cười, thay đổi cách xưng hô:
- Tướng quân tha lỗi, chỉ thiếu nước tiểu muội lột da gã ra để lục soát. Gã chỉ là một tên đi tìm kho tàng.
Lâm Thảo kể cho Vu Lệ Nương biết, người đi tìm vàng đã bị kẻ này ám toán trong rừng cẩm Khê. Kẻ nói người nghe bỗng chững lại. Hạng tầm thường không thể biết, nhưng họ đều là bậc cao thủ nên phát hiện phía dưới cửa có chuyện bất thường. Họ chưa kịp phản ứng, một người vận đồ trắng đã vụt vào, tay lăm lăm thanh kiếm sáng loáng. Lâm Thảo phỏng đoán Đan Tốc bị khống chế, mà khống chế nổi Đan Tốc một cách nhanh chóng đến vậy chúng tỏ gã bạch y có thủ đoạn cao cường. Lâm vốn đang mang ý đồ thu dụng vây cánh nên giữ thái độ bình tĩnh, hai tay vẫn chắp sau lưng để người lạ khỏi nghi mình động thủ, y điềm tĩnh hỏi:
- Mạt chức đường đột muốn biết quý tính cao danh của các hạ và còn dám bạo miệng hỏi thêm lý do nào khiến các hạ đột nhập Nghinh Tân Đình?
Khách lạ tra kiếm vào bao, đáp:
- Tào Hiển Điện, giới võ lâm giang hồ tặng thêm bàng danh Tòng vân kiếm khách. Chủ của Bạch long câu cũng là ân chủ của Tào này.
Vu Lệ Nương nhếch mép cười khinh miệt:
- Vậy quý khách là đầy tớ của tên giết người?
Tào Hiểm Điện đằm mắt ngó Vu nữ. Lâm Thảo vội xua tay:
- Tào tráng sĩ bình tâm! Vu cô nương chớ nặng lời. Đây là câu chuyện ám muội. Chỉ Đan Tốc mới có thể phân giải rõ trắng đen - Lâm cao giọng gọi:
- Đan Tốc!
Tào lên tiếng:
- Người ngoài cửa đã bị tại hạ điểm huyệt rồi!
Vừa lúc đó, Đan Tốc từ ngoài vụt vào, tay lăm lăm bảo kiếm, y đáp lời Tào:
- Khá khen người xuất thủ ảo diệu. Nhưng, Đan mỗ đâu có phải hạng tiểu tốt vô danh.
Tào thấy Đan tự giải khai huyệt đạo nhanh đến thế lấy làm lạ lắm. Y nói:
- Khách giang hồ thường nói “Lĩnh Nam nhiều quái dị”, quả không sai. Tào vui lòng nghe sự phân giải của chư vị!
Đan Tốc thuật lại toàn bộ diễn biến trong rừng cẩm Khê. Tào Hiển Điện không tin, bảo:
- Ân chủ của Tào là một kiếm khách siêu quần, không thể bị hạ dễ dàng đến thế.
Vu Lệ Nương mời Tào vào nhà trong để nhận diện kẻ giết người. Tào cười bảo:
- Cô nương hẳn biết, Tào Hiển Điện vốn xuất thân ở chốn giang hồ và từng lăn lộn, vùng vẫy trên giang hồ nên không lạ gì mê cung của hắc quán. Cớ sao không bảo nô bộc khênh người ấy lên đây mà dụ Tào xuống đó.
Lâm Thảo đáp thay Vu nữ:
- Bậc trượng phu anh hùng không đâm kẻ thù từ phía sau lưng!
Tào không biết đối đáp làm sao cho phải, đành miễn cưỡng theo mọi người xuống nhà dưới. Vừa thoáng thấy nét mặt kẻ giết người ngủ như chết. Tào đã kêu lên:
- Ấy a! Đấy là Giang Đông nhất kiệt Ân Bá Thiên, một trong Giang Đông tứ kiệt. Hắn là tay kiếm siêu hạng, nội công ngoại lực thượng thặng và có những mũi phi tiêu thần sầu quỷ thảm. Nữ chủ quán phải là người có thủ đoạn cao cường mới hạ nổi kẻ lịch duyệt chốn giang hồ này. Nhung tại sao hắn ám toán Cam kiếm khách. Có đúng Cam kiếm khách bị hắn ám toán không?
Đan Tốc đáp:
- Điều nghi vấn của Tào nghĩa sĩ chỉ được cởi mở bằng hai cách: Thứ nhất, khám xét thi thể Cam kiếm khách; Thứ nhì, buộc tên giết người thú nhận tội ác. Thi thể họ Cam trôi tới khúc sông nào, thật khó mà tìm. Bây giờ, chỉ còn cách giải mê cho tên giết người.
Vu Lệ Nương liền lấy thuốc giải mê đổ vào mồm Ân Bá Thiên. Giây lát sau, thuốc giải mê đã kiến hiệu. Ân Bá Thiên vừa chớp mắt, Tào Hiển Điện đã dí mũi Thiểm Điện thần kiếm sát cổ. Tào dằn giọng nói:
- Tại sao mi ám toán Cam Hiền Đức? Nói không lọt tai thì máu người tuôn ngay tức khắc!
Ân Bá Thiên mở trừng mắt mọi người. Y biết mình lâm vào cảnh ngộ hiểm nghèo, nhưng vẫn dửng dưng:
- Tòng Vân Khách! Dùng kiếm bức chế kẻ vừa ngủ dậy, người hèn đến mức đấy sao? Ta với ngươi không thù oán. Ngươi chịu ân của họ Cam, nhưng họ Cam lại mang oán nặng với ta. Ta giết hắn vì đòi nợ oán, người giết ta để trả nợ ân. Đời này, ân đền oán trả là thường. Nếu ngươi không muốn nghe ta giãi bày ân oán thì thọc thẳng mũi kiếm xuống cổ ta đi!
Tào Hiển Điện lặng giây lát rồi thu kiếm tra vào bao:
- Kẻ anh hùng hành động quang minh, nói năng hợp lẽ, ta sẵn lòng nghe ngươi phân giải!
Lâm Thảo đã có chủ định nên mời mọi người lên phòng lớn, bảo Vu nữ dọn rượu thịt ra bàn. Lâm nói ngay để xua tan nghi vấn của mọi người:
- Kẻ trượng phu anh hùng hành động theo chí kẻ anh hùng trượng phu. Tào, Ân hai vị huynh đệ cùng cạn chén với tệ chức, vừa ăn uống vừa kể chuyện ân oán theo đủng khí phách bậc anh hùng trượng nghĩa “nói không đổi lời, làm không chối việc”. Nếu ân oán cần phải dùng kiếm để xử lại thì tệ chức và các thuộc hạ xin đứng ngoài để chứng kiến cảnh so kiếm phân định ân oán.
Tất cả bằng lòng, cùng ngồi vào bàn rượu. Tào Hiện Điện là khách giang hồ mã thượng, ngang đường thấy sự bất bằng chẳng tha. Chẳng may, Tào bị kịch bệnh ở giữa rừng, tính mệnh treo trên sợi tóc. Cam Phụ đi săn, bắt gặp lúc Tào mê man bất tỉnh liền cho người đưa về phục dịch thuốc thang chạy chữa. Tào được cứu sống. Gia nhân họ Cam cho Tào biết Cam là người nhân hậu, Tào tự hứa sẽ trung thành với ân chủ. Thực ra Cam Phu là tên ác độc, lòng lang dạ thú giấu ở trong cái vỏ bọc ngoài hiền đức mã thượng. Hắn thường tung tiền mua lòng kẻ khó nên kẻ hàm ơn và giới giang hồ quen thói bợ đỡ xưng tụng hắn là Hiền Đức kiếm sĩ. Hắn mê say nhan sắc Thảo Hường, vợ Ân Bá Thiên nhưng sợ Ân Bá Thiên nên không dám ho he. Ân Bá Thiên là kẻ giang hồ kỳ hiệp, thường sống ở chốn giang hồ, thỉnh thoảng mới về Kiến Nghiệp thăm vợ con. Hiền Đức lợi dụng tình thế ấy, thuê kiếm khách bí mật đột nhập vào nhà Thảo Hương, cướp nàng về dinh phủ họ Cam. Nàng Thảo Hương cắn lưỡi chết để thủ tiết với chồng. Con trai nàng lên tám tuổi bị bỏ ở nhà, không nơi nương tựa, chả hiểu thất lạc phương nào. Ân Bá Thiên trở về thì nhà cửa điêu tàn, vợ con không còn một ai. Ân dò hỏi nhưng không ra manh mối vợ con mất tích, về sau, gã kiếm khách đâm thuê chém mướn bị họ Cam bạc đãi liền đến tố cáo với Ân Bá Thiên. Ân quyết chí trả thù. Nhiều phen Ân đột nhập dinh thự họ Cam, nhung họ Cam nuôi nhiều võ sư, kiếm khách, họ canh phòng rất cẩn mật. Ân thân cô thế cô khống thể đơn độc hành động. Ân dò la biết Cam sẽ cùng Tòng vân khách sang Giao Châu tìm kho tàng của cha ông hắn chôn giấu. Ân không bỏ qua cơ hội này. Nhưng, Ân biết Tào Hiển Điện và Cam Phụ là hai tay kiếm thượng thặng, cặp bài trùng ấy hỗ trợ nhau thì rất khó đối phó. Ân nảy mẹo “điệu hổ ly sơn”, chia để trị. Ân cùng một người đi trước đón đường. Đến khu rừng gần sườn Nam Tây Côn Lĩnh, người bạn ở lại dụ chiến Tào Hiển Điện. Một mình Ân đuổi theo Cam Phụ. Quả thiên, Tào, Cam bị mắc mẹo họ Ân.
Nghe xong nguyên uỷ, Lâm Thảo đứng lên, giữ vai hoà giải:
- Mỗi người một niềm u uất riêng! Dù sao tệ chức cũng thấy hai vị huynh đệ không thể đem lòng giận nhau. Ân oán giang hồ khó ai tránh khỏi, nhưng câu chuyện đã kết thúc như vậy, xin hai vị đại huynh coi là xong. Con người ta chuộng ân nghĩa, xa lánh oán hờn. Họ Cam thất đức phải chuốc tai vạ.
Tào Hiển Điện đứng dậy, chắp tay hướng về phía Ân Bá Thiên nói:
- Cam Phụ quả là kẻ miệng Phật tâm xà, Tào mỗ lấy làm bối rối khi biết mình chịu ân trọng của một kẻ như thế. Mối thù nhà của Ân huynh rất lớn, không thể không báo. Tào này xin lạy ba lạy để tạ lỗi đã xu phụ kẻ đại thù của Ân huynh, cũng là kẻ đại ác trong thiên hạ.
Ân Bá Thiên xô ghế đứng thẳng người chắp tay vái ba vái.
- Đội ơn Tào huynh rộng lượng. Ân này xin lạy ba lạy để tạ lỗi đã hạ sát kẻ mà Tào huynh mang trọng ân.
Đó là phong cách cư xử của kẻ anh hùng trượng nghĩa. Lâm Thảo hoàn toàn yên tâm tiếp tục triển khai ý đồ của mình:
- Tệ chức có lời gan ruột bày tỏ cùng chư huynh muội. Bá Nha gặp ngựa ký biết ngay là thiên lý câu. Lưu Bị gặp Quan, Trương biết ngay là bạn thuỷ chung. Người xưa cũng nói: Chim khôn tìm cành cao mà đậu, người anh hùng kén chúa minh mà thờ, bậc nghĩa sĩ chọn người hiền mà kết bạn. Ngu hạ muốn bắt chước gương Lưu, Quan, Trương tụ nghĩa Vườn đào, khởi khí anh hùng lưu danh muôn thủa.
Tào Hiển Điện hưởng ứng liền:
- Tào này đã rửa tai để nghe lời đại nhân dạy bảo!
Lâm Thảo tiếp lời:
- Ngày nay thiên hạ đại loạn, ấy là thời có cho người anh hùng lập nghiệp. Bây giờ Giao Châu có sáu người lạ. Đó là Tòng Vân Khách Tào Hiển Điện, Giang Đông nhất kiệt Ân Bá Thiên, Biển Thước tái sinh Thái Cát, Xuyên Sơn tiềm khách Đan Tốc, Tây Vu nữ lang Vu Lệ Nương và ngu hạ Trấn Ba thượng tướng cơ mật vụ Lâm Thảo. Ngu hạ muốn chúng ta mở hội Nghinh tân, kết nghĩa anh em nguyện vì nhau mà sống và chết, nguyện đem sức mình phò tá sự nghiệp của minh công thứ sử. Nếu chư vị huynh đệ đồng tâm nhất trí thì Đan đệ di đón Thái Y Cát tới đây để chúng ta hành lễ.
Tất cả bằng lòng. Đan Tốc rời bàn tiệc đi đón Thái Cát.
Lễ kết nghĩa cử hành long trọng tại Nghinh Tân Đình. Lâm Thảo được tôn là trưởng huynh, thứ đến Thái Cát, Tào Hiển Điện, Ân Bá Thiên, Đan Tốc và Vu Lệ Nương lấy tên là Hưng nghiệp lục hiệp. Sau lễ kết nghĩa, họ tiễn Thái Cát lên đường thực hiện sứ mệnh “Bạng duật tương tranh. Ngư ông đắc lợi”. Khi trở lại Nghinh Tân Đình, Lâm Thảo bảo bọn đàn em:
- Công việc của chúng ta cần chi dùng nhiều châu báu vàng bạc. Bởi vậy, trước mắt phải tìm cho ra kho tàng Đồng Cồn. Tứ đệ Ân Bá Thiên và lục muội Vu Lệ Nương ở lại Nghinh Tán Đình tiếp tục chiêu mộ nhân tài. Chớ giết nhầm người tài. Ngu huynh cùng tam đệ và ngũ đệ xuống đó là đủ - Lâm hướng về phía Vu Lệ Nương nói tiếp - Từ đây tới Đồng Cồn cách xa hàng mấy trăm dặm, sức ngựa đi mới tiện. Ngu huynh nghe nói Tây Vu ẩn sĩ có con Thiên lý long câu hắc mã, hỏi mượn được không?
Vu Lệ Nương gàn ngay:
- Đại huynh không mượn được đâu! Có người trả mấy ngàn vàng, có người xin đổi cả đàn trâu bò anh muội vẫn không đổi. Quà tặng ngài thứ sử vào dịp tết Nguyên tiêu tới đấy.
Tào, Đan đỡ lời:
- Bọn tiểu đệ quen dùng thuật khinh công, không cần ngựa. Huynh trưởng cưỡi Bạnh long câu, bọn tiểu đệ theo bén gót.
Quả nhiên, Tào, Đan đều có thuật khinh công siêu việt, vó ngựa Bạch long câu như cuốn gió nhưng vẫn không nhanh bằng đôi chân của họ. Tới khu vực Đồng Cồn, Lâm Thảo ghìm ngựa đi nước kiệu tiến vào vạt rùng có miếu Đồng Cồn. Bất chợt, Lâm gò ngựa đứng lại, trỏ tay về phía ngôi miếu cổ nói nhỏ:
- Nhị đệ nhìn xem!
Tào, Đan chăm chú nhìn theo hướng tay Lâm chỉ.
Bên ngôi miếu cổ cạnh gốc cây đa cổ thụ là cảnh tượng dị kỳ. Một chàng trai trẻ, tóc cum cúm ngang tai đang ngủ, đầu gối lên con trăn to như cột đình.
Đan Tốc quài tay toan rút phi đao, Lâm Thảo vội ngăn lại:
- Chớ giết uổng kẻ dũng sĩ!
Tào Hiển Điện nắm chặt chuôi thanh Thiểm điện thần kiếm, hỏi:
- Người hay thần canh cửa kho tàng?
Lâm Thảo nhảy xuống đất, bảo:
- Điều đó cần làm sáng tỏ!
*
Rừng Đồng Cồn nằm ở mạn Tây Nam làng Cao Lộng. Mùa mưa lũ, nước sông Hồng dềnh vào tận đây, làng xóm lọt thỏm trong biển nước mênh mông, gió gào rú sóng nổi cồn ào lên đập vào luỹ tre bao bọc quanh làng. Những ngày con nước lên như thế, việc đồng áng, săn bắn đều phải xếp lại, cả làng cưỡi thuyền đổ xô ra kiếm cá. Thuyền lưới, thuyền câu, thuyền tải, thuyền độc mộc, thuyền mủng, bè tre, bè nứa, bè chuối... nhan nhản trên mặt nước.
Ngày xưa, hẳn là chưa xưa lắm, cả miền này hoang vu, dưới đất rắn rết lúc nhúc, trên trời cò bay trắng xoá. Bọn Ngô đi qua, xem xét địa lý biết thế đất thiêng nên mang rất nhiều vàng bạc châu báu vơ vét được ở Lạc Việt tới đây chôn giấu. Chúng bắt một cô gái trinh chôn sống dưới hầm làm thần giữ của. Ngôi miếu là cửa xuống kho tàng.
Từ đó, những đêm trăng suông thanh vắng, thường có cô gái vận đồ trắng, xoã tóc dẫn mười hai con lợn vàng, từ trong miếu đi ra, tha thẩn quanh gốc đa cao ngợp ánh trăng. Có anh thợ săn bắt gặp. Đêm nào anh ta cũng ra rình đêm nào cũng thấy con lợn què bé nhất đàn khập khiễng đi cuối cùng, anh ta chê nó bé nên cứ nhằm con to mà bắt. Mấy đêm liền hăm hở săn đuổi anh ta vẫn chẳng tóm được con nào. Nhiều người hay chuyện, đổ xô đến mắt cả ăn cả ngủ, nhưng không gặp đàn lợn nữa. Người ta kháo nhau: Bà thần giữ của rất thiêng, chỉ khi nào vắng vẻ nữ thần mới dẫn bày lợn vàng của chủ lên dong chơi đây đó; còn thì, nữ thần sai trăn thần ra trấn cửa phòng kẻ gian tham. Con trăn thần loang lổ dài tới chục sải tay thường nằm phơi nắng, thấy người liền trườn lủi ra sau ngôi miếu, khoanh mình nằm im như chết dưới gốc cây cổ thụ nhiều rễ dày cành. Bao nhiêu muông thú trong vùng bị trăn thần ăn hết, hẳn là trăn thần đói nên người ta bắt gặp trăn thần bò xuống nước mò tôm cá. Mọi người thấy thế càng sợ, tránh xa khu vực quanh miếu Đồng Cồn, ruộng nương cũng phải bỏ hoang.
Ông Thụ, người làng Cao Lộng có ba con đều là bậc dũng sĩ. Chàng Hai ghê gớm hơn cả. Một hôm, chàng Ba bảo chàng Hai:
- Anh ơi! Em muốn vằm nát con quái xà để dân làng yên lòng lên rừng xuống ruộng.
Chàng Hai trầm ngâm giây làu rồi bảo em:
- Tốt đấy! Nhưng giữ nguyên vẻ huyền bí âm u của Đồng Cồn để dùng nó làm nơi tập võ nghệ thì hơn. Cha bảo: “Đã tới lúc bờ sông vạt rừng của tổ tiên cần cánh tay khoẻ mạnh nâng đỡ”.
Chàng Ba sốt sắng:
- Vậy, anh cho em ra Đồng Cồn xem rắn rết ra sao?
Chàng Hai gật đầu:
- Ừ, một con vật tanh tưởi không cần tới hai trang dũng sĩ! Nhưng, chớ có coi thường rắn rết!
Chàng Ba ra Đồng Cồn. Anh thấy con trăn nằm ngoằn ngoèo bên gốc đa, bụng lép kẹp, nghĩ thầm: Trăn thần mà vẫn phải ăn thì có thể dùng cái ăn mà khuất phục. Chàng Ba đi ra vạt rừng phía ngoài tìm mồi. Anh có tài phi thạch đạn kỳ diệu, ném đâu trúng đó, anh có thể ném mù cả hai mắt con chim cú mèo. Anh săn được con chim bồ nông khá lớn liền mang về miếu, ném cách con trăn chừng mươi bước rồi lùi ra sau quan sát. Con trăn bò đến táp mồi liền. Những ngày sau, chàng Ba tiếp tục thủ đoạn ấy, mỗi ngày một rút ngắn cự ly giữa anh và con vật. Tiếp đến, anh đưa mồi đặt tận miệng nó, rồi ngồi xem nó nuốt mồi. Thuần phục trăn thực dễ, chẳng bao lâu con trăn quấn quýt lấy người nuôi mình. Chàng Ba thực sự coi nó như bạn, mỗi khi thư nhàn anh ra đây nằm gối đầu lên con trăn mà ngủ... Từ đó, chàng Ba và anh trai dùng Đồng Cồn làm nơi luyện võ. Họ có sức mạnh bạt sơn cử đỉnh và tài nghệ nội ngoại công thượng thừa.
*
Chàng Ba đang ngủ chợt thấy con trăn cuộn khúc và rít khe khẽ. Anh ngỏm dậy và nhìn thấy ba người lạ mặt đang gờm gờm ngó mình. Anh là người nóng tính, không bao giờ tha thứ cho ké nào bước vào giang sơn riêng của anh và nghiêng nghé anh với vẻ láo xược như thế. Anh chỉ tay quát:
- Bước!
Ba kẻ lạ cùng rút vũ khí. Lâm Thảo sử dụng nhuyễn sách chuỳ. Tào và Đan dùng kiếm. Chàng Ba không lường có chuyện thế này xảy ra nên búa chiến để ở nhà. Cạnh miếu chỉ có một đống gậy tre dùng để luyện kinh công, Chàng Ba nhặt hai đoạn gốc tre chập làm một. Con trăn ngọ ngoậy muốn lao lên. Chàng Ba rít một hơi đài ra hiệu cho trăn rồi bảo bọn người lạ:
- Ta chấp cả ba thằng!
Lâm Thảo khảng khái bảo Tào, Đan lùi ra sau rồi nói:
- Hảo hán giao đấu theo kiểu hảo hán. Một ta cũng thừa sức hạ ngươi.
Chàng Ba là người cấp tính, anh chập đôi gộc tre quất liền một đòn cực mạnh tưởng đối phương phải tan xương nát thị. Lâm Thảo biết gặp tay lợi hại không dám xem thường, vung nhuyễn xách chuỳ đón đỡ. Không ngờ người đánh mạnh kẻ đỡ cũng mạnh, cặp gậy của chàng Ba tơi ra như bó chán hương.
Lâm Thảo cười bảo:
- Ngươi khá đấy! Cho ngươi lấy gậy khác. Nhưng gậy tre sao chống nổi chuỳ đồng, hàng đi là hơn.
Chàng Ba biết tre không thể cự địch trực tiếp với đồng nên hai tay hai gậy, anh múa vù vù sấn vào đánh địch thủ. Lâm Thảo huy động cây nhuyễn xách chuỳ như gió lộng. Hai địch thủ tạo thành hai vòng tròn nhăm nhăm áp đảo nhau. Hai người ngang tài ngang sức, nhưng Câm Thảo có vũ khí lợi hại nên bình tĩnh đánh lấn. Chàng Ba vừa đánh vừa giận thân về nỗi để búa chiến ở nhà, đống gậy tre đã dùng nát hết mà đối phương càng tỏ ra sung sức.
Đang lúc gay cấn bỗng nhiên có tiếng quát to:
- Dừng tay!
Chàng Ba thấy người quát chàng là chàng Hai liền nhảy lùi về phía sau. Lâm Thảo cũng thu chuỳ lùi lại nhìn người mới đến. Lòng kẻ có ý đồ “Chiêu binh mã” rộn lên khi thấy đứng trước mình là một lực sĩ hùng vĩ khoác áo da hổ, tóc chấm vai, chít ngang đầu dải khăn làm bằng da rắn cạp nia, chân di dép bằng da trăn. Y toan cất lời hoà giải thì chàng Hai đã rút chuỳ giắt ở sau lưng ra nói:
- Mi cậy có chuỳ đồng, áp đảo em ta. Ta phải cho mi biết thủ đoạn. Ta đánh bên trái, nhớ mà đỡ.
Chàng dũng sĩ vung chuỳ giáng một cú không nể nang theo thế Lôi đả hung thần. Lâm Thảo ngỡ chàng trai có sức khỏe như chàng Ba hoặc hơn một chút ít nên yên tâm vung nhuyễn xách chùy đón đỡ. Không ngờ chàng dũng sĩ mạnh quá. Nhuyễn xách chuỳ bị đánh đút tung xích, quả chuỳ bay vèo ra xa, quật đổ một cây lớn. Tay Lâm Thảo rách toác, máu chảy ròng ròng, toàn thân rung động muốn ngã. Lập tức, Tào Hiển Điện rút Thiểm điện thần kiếm từ trên cây nhảy xuống quát:
- Không được hại huynh trưởng ta!
Ý Lâm Thảo vẫn muốn gàn, nhưng Tào Hiển Điện đã xoay tít thanh thần kiếm sấn vào tấn công chàng Hai. Tào Hiển Điện là tay kiếm khách thượng thừa, khinh công siêu hạng nên toàn ra những thế hiểm để hạ địch thủ. Chàng Hai vốn dòng võ tướng, được cha và thày luyện võ truyền dạy huyền công bí pháp và nhiều thủ đoạn kỳ ảo của giới võ lâm giang hồ, lại thêm sức lực như thần nên huy động cây chuỳ đồng loang loáng, ào ào như gió cuốn theo thế “cuồng phong tảo điệp” để đối phó với kiếm phong ào ạt, hung hiểm theo thế “ toàn vi tốc sát” của Tào Hiển Điện. Chàng Hai huy động cây đồng chuỳ thành hình cầu kín tới mức giọt mưa cũng không thể lọt tới người. Tào, Hiển Điện không lường nổi chàng Hai lợi hại tới mức nào, hắn đưa vòng bạch quang chống lại vòng hồng quang. Chỉ một tiếng keng, lập tức vòng kiếm quang biến mất. Tào bị sái cánh tay, thu vội kiếm, nhảy tránh sang bên. Đan Tốc không ghìm được, liền rút luôn ba mũi phi đao phóng vào chàng Hai, đều bị vòng hồng quang hất ra xa. Hắn toan tiếp tục thủ đoạn ám toán thì chợt có tiếng con gái từ ngọn cây nào đó lanh lảnh thét to:
- Con chó cắn trộm kia! Chị cho mày biết cách dùng ám khí.
Tiếng quát vừa dứt thì Đan Tốc cũng vừa ngã nhào xuống đất. Chàng Hai thu vùng hồng quang, cầm cây chuỳ trỏ ba kẻ xâm nhập bảo:
- Rừng nào mãnh hổ ấy. Bọn ta và các ngươi không thù không oán nên ta không nỡ dùng thủ đoạn ác độc. Ta cho các ngươi yên ổn ra khỏi rừng này!
Lâm Thảo biết không thể xoay chuyển tình thế, nấn ná thêm có thể chuốc vạ vào thân nên giục Tào Hiển Điện vực Đan Tốc lên Bạch long câu rồi họ tống người bị thương rút lui.
Chàng Hai gọi người vừa đến yểm trợ mình, nhưng không một tiếng đáp lại. Anh đấm tay vào lòng bàn tay ra dáng buồn bực.
Chàng Ba hậm hực.
- Hẳn là Lạc Việt tiên nương chứ chẳng ai!
Trên đường về Luy Lâu, Tào Hiển Điện và Đan Tốc ấm ức mãi chuyện bại trận, một hai quyết trí báo thù. Lâm Thảo lựa lời khuyên giải hai em hãy vì đại sự mà bỏ qua tiểu tiết. Tới Luy Lâu, Lâm vào Dinh thứ sử gặp Cô Tồn thuật lại vụ Đồng Cồn so kiếm, y khen chàng dũng sĩ mặc áo da hổ không tiếc lời.
Cô Tồn chép miệng than:
- Tiếc rằng, có những trang hảo hán như thế mà ta chẳng được dùng.
Lâm Thảo đáp:
- Minh Công không muốn chứ muốn dùng thì có khó gì đâu. Con gà tức nhau tiếng gáy, người tài cũng vậy. Kẻ vũ dũng thích khoe vũ dũng là thói thường tình. Người có tài năng mong muốn được sử dụng tài năng cũng là lẽ thường tình. Minh công mở hội thi đấu với “mãnh ngưu”, tiếp đến lập võ trường tỉ thí võ nghệ kén chọn người giỏi. Phần thưởng cho hậu, quan chức cho cao, nhiều kẻ dũng sĩ đến, hẳn kẻ ấy cũng đến.
Cô Tồn vỗ tay reo:
- Cao kiến! Ngươi thực là cánh tay phải của ta! Nghiệp lớn mà thành ta và nhà ngươi cùng hưởng phú quý! Ngươi hãy tìm cách thu dụng bằng được kẻ đó. Có người ấy phụ tá, chúng ta có thể nằm khểnh mà hưởng phú quí vinh hoa.
2.
Hồng Hà từ mẫu
Bà Nguyệt đi thăm đồng về. Bà vừa dựa cuốc vào góc sân vừa dằn giọng:
- Ba.
Chàng Ba - cậu thiếu niên chừng mười sáu, mười bảy tuổi, cởi trần, đóng khố, tóc chưa phủ kín hết mang tai, từ dãy nhà bên nhảy bổ ra, hớn hở săn đón:
- Mẹ con thứ gì đấy?
Bà Nguyệt làm mặt giận:
- Mọi hôm mẹ mang về cho con bánh đa bánh đúc. Hôm nay mẹ chỉ mang xấu hổ về thôi. Mẹ xấu hổ vì con!
Chàng Ba ngớ người, hai tay đan nhau vận kêu răng rắc, cậu lùi dần như sợ bị mẹ mắng nữa.
- Con có làm nên lỗi gì đâu?
Bà Nguyệt vẫn đứng ở chỗ cũ, ngay lối vào, giọng bà dịu dàng, nhưng vẫn chứa dụng sự nghiêm khắc không dung thứ với lỗi lầm của con:
- Ngày mai sẽ có người nói với mẹ thế này: “Ới bà Nguyệt ơi! Ới bà vợ ông chủ làng mà chúng tôi quý hoá ơi! Bà thường bảo chúng tôi phải cày sâu cuốc bẫm mới có hạt thóc mà ăn. Chúng tôi theo lời bà, vì tổ tiên ta cũng dạy con cháu như vậy. Ầy thế mà, bà...- Gớm, cậu con trai bà cày mới sâu, cuốc mới bẫm làm sao, có khác gì gà bới đất không. Ngày mai bà bảo chúng tôi mang mạ ra đồng cấy hay thả nổi trên mặt nước?”.
Chàng Ba hiểu ra, cậu đỏ bừng mặt. Quả là có thế. Cậu đang căm hận về trận đấu thất bại ở Đồng Cồn bữa trước, hôm qua cậu dồn cơn tức giận vào con trâu. Cậu lúng túng bào chữa:
- Ai cũng khen con trâu nhà ta khoẻ nhất làng, hư nhất làng thì có. Con giục đi, nó ì ạch. Kéo cái cày bằng que tăm mà cứ làm như phải kéo cả trái núi không bằng.
Bà Nguyện bước lại, nhưng vẫn không tới gần con như mọi bữa, và làm một cử chỉ tỏ vẻ không bằng lòng:
- Con trâu biết nói nhỉ? Mẹ hỏi, nó sẽ trả lời thế này: “Mẹ ơi, con có biết gì, sức con đến đâu con cố đến đấy, còn làm thế nào là do anh Ba chứ. Anh ấy làm chẳng nên thân còn nổi cáu đá gẫy chân con. Con đau quá, con giận anh ấy quá. Có dễ đến hàng tháng con chẳng thể theo mẹ ra đồng gặm cỏ nữa”.
Chàng Ba chống đỡ gượng gạo:
- Vâng lời cha mẹ dậy, con không khi nào dám nhãng quên việc lớn.
Người mẹ hiểu công việc luyện tập võ nghệ và ý chí phục quốc ở trong lòng người dũng sĩ, nhưng bà vẫn nghiêm khắc phê phán:
- Việc nhỏ bôi bác, việc lớn sao có thể chu toàn!
Chàng Ba chẳng còn biết nói năng sao nữa, cứ gằm mặt đứng giữa sân như trời trồng.
Chàng Hai thương hại em, từ trong nhà bước ta đỡ lời:
- Thưa mẹ! Con trâu ấy dạo này cũng hay đốc chứng lồng phá mẹ ạ.
Bà Nguyện “hừ” một tiếng nghiêm mặt, ngắt lời:
- Phạm lỗi không biết lỗi, còn bênh che nhau. Việc nhỏ còn vậy, việc lớn thì sao? Thực xấu hổ! - Bà nhắc lại bằng giọng nặng nề hơn: - Thực xấu hổ!
Nói rồi bà bước lên hè, đi thẳng, chẳng đoái hoài đến hai con nữa.
Chàng Hai sợ quá không dám nhìn mẹ, vội lảng vào trong. Đợi mẹ đi khuất anh bước ra sân, bảo nhỏ chàng Ba:
- Tối nay anh em mình đi cày lại! Đừng để mẹ buồn!
Chàng Ba phụng phịu, có lẽ cậu dỗi vì bữa nay mẹ không chầm vập, ríu rít với mình như mọi hôm. cậu không đáp lời anh mà ra hiệu không có trâu.
Chàng Hai chỉ chỉ vai mình và nháy mặt về phía trong nhà, ra ý bảo: Chớ nói to!
Tối ấy, chờ cha mẹ ngủ yên, chàng Hai rón rén trở dậy, sang đánh thức em thì chàng Ba đã dậy từ lúc nào, đang ngồi thu lu trước cửa chuồng trâu đợi anh.
Anh vác cày, em khoác bừa ra đồng. Trước khi cày chàng Hai hỏi chàng Ba:
- Em chê con trâu ấy yếu phải không? Được, bậm lưỡi cầy cho sâu và nhớ giữ thằng đường cày nhé!
Chàng Hai kéo cày đi băng băng. Cày lật đất rào rào. Cày ngốn đất nhanh tựa sóng lan trên mặt nước. Chàng Ba chạy theo khá vất vả, phải kêu lên:
- Ôi, trăm trâu nghìn trâu cũng chẳng kéo khoẻ bằng anh. Từ từ kẻ gãy cày!
- Cày gẫy hay người hèn? - Chàng Hai giễu em, nhưng vẫn không chậm bước - Trai Lạc Việt mà xoàng thế. Cố lên, giữ cho thẳng đường cày! Anh em mình phải cày bừa cho xong trước lúc bình minh lên. Đừng làm việc gì dở dang, lầm lỡ khiến mẹ giận!
Chàng Hai thực hiện đúng ý định của mình mặc em nằn nỉ xin nghỉ giữa chừng. Khi bình minh vừa rạng phía chân trời đông, hai anh em cũng vừa xong việc.
Chàng Ba rửa cày bừa. Chàng Hai lội trên ruộng một lượt, thấy đã hoàn hảo mới vác cày khoác bừa về.
Chàng Hai đi trước. Chàng Ba theo sau, cậu vừa bước vào đến giữa sân thì gặp mẹ từ nhà trong đi ra.
Bà Nguyệt bước xuống sân, đứng trước con, bà hiểu rất rõ tác dụng lời nói của mình đối với các con, nên khi trông thấy chàng Ba khoác bừa trên vai, bà hỏi:
- Thế nào, cậu?
Chàng Ba không đáp, chỉ chàng Hai lúc ấy đã đi khuất về phía chuồng trâu, làm luôn một chập điệu bộ: Nháy mắt, rùng mình uể oải lắc đầu... ra ý bảo: “Mẹ ơi, gớm quá! Anh ấy gớm quá! Vào tay anh ấy thì con trâu nát như cám chư chẳng chỉ sai khớp đâu”.
Bà Nguyệt nhìn hút theo bóng chàng Hai, lại nhìn chàng Ba, bà mỉm cười.
Chàng Hai biết mình có lỗi vì bênh em không đúng, nên vẫn xấu hổ không dám dàn mặt mẹ. Anh với chiếc quần lửng phơi ở bức giại nhà sau, vẫy vẫy em, lại ngoắc ngoắc tay và hất đầu ra phía sông. Chàng Ba hiểu ý. Cậu cất bừa rồi vơ vội chiếc khố, vừa chạy ra cổng vừa nói với mẹ:
- Con đi tắm, mẹ nhé!
“Nó nhé nhưng có kịp cho mình ừ đâu. Con cái thế thì thôi”. Bà Nguyệt vừa lẩm bẩm vừa quay vào.
Chàng Hai cùng em chạy một mạch ra sông Hồng nhảy ào ào xuống nước. Họ quẫy lộn như hai con giao long giỡn nhau. Hai anh em đang hì hà hì hụp bỗng chàng Ba nhảy vọt nửa người lên mặt nước.
- Đố anh đuổi kịp em!
Vừa nói vừa chao người lao băng băng.
Chàng Hai bơi giỏi có tiếng, mà từ bờ bên này sang bờ bên kia, anh cố thế nào cũng không đuổi kịp em; đến lượt từ bờ bên kia về bờ bên này thì anh đành phải chịu là em bơi giỏi hơn mình.
- Hèn chi mà mẹ bảo em là con rái cá. Về thôi, kẻo mẹ mong.
Hai anh em hộc tốc chạy về. Bà Nguyệt đứng đợi con ở cổng, tay nơm tay giỏ, chàng Ba biết là công việc của mình, đeo giỏ cầm nơm liền: “Nhà có khách hả mẹ”. Chưa kịp nhìn mẹ gật đầu, cậu đã hớn hở phóng đi.
Chàng Hai theo mẹ đi vòng ra nhà sau, anh ăn vận chỉnh tề rồi lên chào khách.
Trồng gian nhà khách, ông Thụ ngồi đối diện với khách trên hai chiếc chõng tre: giữa là chiếc bàn cũng bằng tre, trên bày đĩa trầu cau, khay chén và ché rượu. Hai ông cùng mặc áo thụng đen, tóc búi, chít khăn đen.
Khách là già Tôn, tuy có tuổi mà trông vẫn quắc thước, cặp mắt sáng lóng lánh... mọi chi tiết ở cụ đều toát lên rằng đây là người có một quá khứ hào hùng. Cụ là vị hào trưởng miền Dạ Trạch, biết nghề thuốc là do kết bạn cùng chí hướng với ông Thụ.
Cụ vẫy tay hỏi:
- Chàng Hai phải không? Ờ - Cụ nói với ông Thụ - Lần cuối cùng tôi đến thăm bác có đến ngoài mười năm rồi nhỉ? - Cụ ngắm chàng Hai nói tiếp - Trông cháu lớn phát khiếp lên. Chà, to lớn quá, hùng tráng quá. Này, lão vẫn nhớ cái đận suýt bị cháu bẻ gẫy tay đấy.
Hồi ấy, cách đây trên mười năm. Ông Tôn đến thăm ông Thụ gặp chàng Hai thả diều trên gò Con trâu. Ông đứng lại xem và có buông lời gì đó không phải xúc phạm tới cậu bé thả diều.
Cậu bé ngoảnh lại, sầm nét mặt bảo:
- Ông bằng tuổi cha cháu, có khi hơn... Cháu kính trọng người già. Nhưng, ông chớ... mà...
Ông Tôn vốn vui tính, hay đùa dai nên chộp lấy chỏm tóc cậu bé hỏi:
- Mà sao?
Cậu bé buông dây mặc cho con diều tấp đi, túm tay ông Tôn vặn ngược lại, quát như sấm dậy.
- Chỉ có ông bà, cha mẹ, anh chị ta mới được nắm đầu ta!
Nếu không phải ông Tôn - một dũng sĩ thời đó thì khó lòng gỡ nổi tay.
Chàng Hai đứng sau cha, chắp tay thưa:
- Cháu có lỗi, xin cụ miễn thứ!
Già Tôn cười ha ha.
- Thỉnh thoảng ôn chuyện cũ cho khuây chứ lỗi lầm chi - Cụ gõ tay xuống chõng cạnh mình nói với ông Thụ: - Ông cho phép cháu ngồi đây với tôi.
Chàng Hai không dám ngồi như vậy, anh lấy chiếc ghế con thấp hơn chõng một chút đặt bên cạnh, xin phép rồi ngồi xuống.
Đôi bạn tiếp tục câu chuyện bỏ dở.
- Ngoài chuyện ấy, cụ có thấy chuyện gì lạ không? - Ông Thụ án cần nhắc nhở.
- Tôi xem tinh tướng thấy sao Vũ khúc chói bà miền trời Cửu Chân. Chuyện lạ có nhiều!
Già Tôn nói vậy ngồi im lặng. Cụ đưa mắt nhìn ra sân, nhìn ra xa, nhìn lên mảnh trời cao, chăm chú dõi theo cánh chim Lạc Việt lướt dưới vầng mây trắng như bông từ từ trôi dưới nền trời xanh Lạc Việt.
Ông Thụ nhắc:
- Xin cụ cho biết vài chuyện!
Già Tôn đưa mắt nhìn về cơi trầu, khay chén đặt trên bàn.
- Đau lòng lắm bạn ơi! - Cụ thở dài nói tiếp - Ở Tống Bình, bọn Ngô chém cổ bêu đầu chưa cho là đủ lại còn bày nhiều cách độc ác để hành hạ, giết hại người Lạc Việt ta, mà toàn những thanh niên giỏi giang, những bậc tuấn kiệt. Không nhanh nhanh thì cơ đồ của ông cha hỏng mất.
Chàng Hai sốt sắng tiếp lời:
- Con mong được nghe cụ nói rõ vài chuyện.
- Chúng đào ao nuôi cá sấu - Già Tôn cau mày nghiến răng khi nói nhũng lời này - Mỗi ngày ném xuống bốn năm người Lạc Việt cho cá sấu ăn. Chúng nuôi một con trâu nghiện rượu, mỗi tháng vài lần cho trâu giết tù, mỗi lần có ít ra cũng dăm người Lạc Việt bị bỏ mạng. Gần đây bọn Ngô xảo trá rao rằng: “Quan thứ sử vâng chiếu chỉ đức vua sang giáo hoá Giao Châu muốn nới hình phạt, lấy đức hiếu sinh làm trọng cho muôn dân vui vẻ, trăm nhà hả hê. Vậy rộng ban cho hạng tử tù được thi tài thi sức với “mãnh Ngưu". Kẻ nào thủ hoà, tha về với mẹ cha. Kẻ nào thắng được ban thêm vàng bạc” Mới rồi, chúng mở rộng cảnh thảm sát này bằng cách nhử những kẻ ham công danh: “Ai thắng cuộc được thưởng hậu và được cử làm quan”.
Ông Thụ tư lự giây lát rồi hỏi:
- Làm thế nào trừ cho dân ta cái hiểm hoạ đó?
Già Tôn ngả người lên thành ghế, cụ nắm hai tay để trên đầu gối, giọng nói nhỏ nhưng rõ ràng:
- Tôi đã tìm được các thứ lá rừng có thể giết bầy cá sấu phàm ăn, một số anh em tù đã nhận lời, khi nào đến lượt nộp mình họ sẽ mang theo thuốc độc. Chỉ có con trâu nghiện rượu là chịu chưa nghĩ ra cách gì. Chúng canh phòng, săn sóc con trâu cẩn mật lắm. Cần có một người khoẻ mạnh, can đảm tinh khôn lẻn vào...
Chàng Hai đứng dậy, thưa:
- Xin cha cho con đi thử một chuyến xem sao.
- Ấy ! - Già Tôn xua xua tay - Con vật ấy có hàng trăm tên lính canh giữ mà dẫu có lọt vào cũng chưa chắc giết nổi nó. Có bận chúng thả con cọp dữ vào thử sức, con trâu bị tát mù một bên mắt mà nó còn húc cho con hổ vỡ ức chết ngay.
Chàng Hai khảng khái:
- Thưa cụ, thưa cha! Nếu con không tìm được cách hạ con vật bẩn thỉu ấy trừ mối hoạ cho muôn dân thì con sống trên dải núi sông Lạc Việt đang khóc than rên xiết này cũng cầm bằng vô ích.
Ông Thụ hỏi con, nhưng thật ra là hỏi mình:
- Có nên làm việc đó lúc này không? Có đáng mang tấm thân chí đũng để mưu toan công việc mạo hiểm nhỏ mọn ấy không?
Chàng Hai trả lời ngay:
- Giết một tên Ngô để cứu một người Lạc Việt đã là hả lòng. Giết một tên Ngô để cứu mười người Lạc Việt, sao chẳng nên làm. Xin cha cứ cho con đi! Con cần ra tay cho bọn Ngô biết Lạc Việt có người.
Ông Thụ không nói gì. Già Tôn cũng không nói. Chẳng một ai nhắc nhở tới chuyện đó. Tối ấy, đôi bạn già bàn soạn công việc với nhau tới quá khuya. Sáng ra, ông Thụ bảo con:
- Con đã muốn đi cha không ngăn cản. Nhưng, con nên giữ gìn lắm lắm. Chớ phí hoài tấm thân hữu dụng!
Chàng Hai mừng rỡ, lui vào nhà trong sửa soạn hành trang để sớm mai lên đường.
Đợi khách lên giường nghỉ trưa, bà Nguyệt vẫy chồng xuống nhà dưới. Bà ứa nước mắt, khẽ khàng hỏi chồng:
- Ông còn nhớ lời ông hứa với người anh tội nghiệp của tôi không?
Ông Thụ quên sao được già Hống, anh ruột vợ mình. Già Hống không có con, ngỏ ý xin chàng Hai làm con. Cả hai vợ chồng ông vui mừng vì đã có một việc làm vui lòng anh. Hồi già Hống dẫn bộ lạc vào Cửu Chân, chàng Hai còn bé không thể mang theo, nên lại đem chàng Hai về đây gửi vợ chồng em rể. Mới rồi, già Hồng cho người về đón chàng Hai, nhung còn nấn ná chưa kịp đi thì gặp chuyện này.
Ông Thụ chưa biết trả lời vợ ra sao cho xuôi tai hợp lý lẽ thì chàng Hai đỡ lời cha:
- Xin cha mẹ cho con đi Luy Lâu, xong việc con theo đường biển vào luôn Cửu Chân.
Hôm sau, ông bà Thụ tiễn con đến cuối làng mới bịn rịn quay về. Chàng Ba lẽo đẽo theo anh lên tận khúc sông mà miền đất bên kia là Thành phố Nam Định ngày nay. Chàng Hai giục em trở về và dặn.
Hai anh đi cả, chỉ còn một mình em ở nhà giúp đỡ cha mẹ, anh tin cậy ở em rất nhiều. Em mắc tính nóng, nóng nảy dễ hỏng việc. Em nhớ nhé!
- Vâng, vâng!
Chàng Ba toan nói tiếp: “Em đợi tin anh đấy”, nhưng lại đứng thừ ra đến lúc tỉnh ngộ thì con đò ngang đã đưa chàng Hai ra giũa dòng sông.
3.
Giao Châu Mỹ Nhân
Chàng Hai theo lối đường mòn trong rừng đi chếch về hướng Đông Bắc. Ngày đi đêm nghỉ, đi tiếp. Một hôm, chàng Hai tới Long Đỗ[2]. Anh dừng lại nửa ngày thăm thú cảnh tấp nập trên bên dưới thuyền, rồi sang đò ngang, luồn rừng ngược lên sông Đuống.
[2] Hà Nội ngày nay.
Bỗng nghe bên rừng có tiếng kêu cứu, chàng Hai rẽ vào xem. Một thằng Ngô to lớn xoắn tóc cô gái bé nhỏ lôi xềnh xệch đến bên gốc cây. Cô gái vừa đấm đá vừa kêu cứu. Anh đoán biết sự tình, liền bước sấn tới túm áo ngực tên Ngô mà dằn.
Thằng Ngô vội buông cô gái, vươn tay ra sau nắm chuôi kiếm. Đối với người Lạc Việt, thằng này không thích đối đáp mà chỉ quen rút kiếm thôi. Nó là trưởng cơ chỉ huy ba trăm quân chặn giữ bến đò sông Đuống, từ Long Đỗ lên thành Cổ Loa. Nó đã vùi dập hàng trăm bông hoa và giết không biết cơ man nào là người Lạc Việt.
Cô gái đang chạy thấy thằng Ngô rút kiếm vội chạy lộn trở lại, hót hải kêu lên:
- Nó có kiếm, chạy thôi, anh ơi!
Chàng Hai hành động nhanh hơn lời cô gái. Biết ý định của thằng Ngô, anh nâng bổng nó lên, xoay người ép lưng nó vào gốc cây.
Thằng Ngô không làm sao rút kiếm khỏi bao đành mở miệng doạ:
- Buông ngay! Muốn bảo toàn mạng chó của mày thì buông tay ngay.
Chàng Hai ấn mạnh tay một chút nữa, thằng Ngô chỉ kịp “Hợ” một tiếng đã vỡ ngực mà chết. Anh túm xác tên Ngô quẳng xuống một khe rậm cách đấy không xa đoạn quay lại hỏi chuyện cô gái.
Cô gái - Nàng Sen là con một tù trưởng cư trú trên bình nguyên hữu ngạn sông Hồng, xung quanh có rừng rậm cách đây vài ngày đường. Cô lên thăm bà cô, nhà bà ở bìa khu rừng thưa này. Cô mới đến, bà cô lại chưa kịp nói, nên không biết là khắp các nẻo đường rừng quanh đây thường có bọn Ngô lang thang đi tìm gái, hoặc chặn cướp hàng hoá của khách qua lại. Cô đang thơ thẩn dạo chơi trong rừng thì bị thằng Ngô nấp sau thân cây bất ngờ nhẩy xổ ra túm tóc lôi đi, chẳng kịp chạy cũng chẳng có thế mà chống cự nữa.
- Chàng là ai? - Sau khi kể sơ qua về mình, cô hỏi. Khi biết người cứu mình là ai, cô mừng rỡ reo lên: - A! Thế thì em biết! Em biết! Bữa nọ thày em đi thăm tù trưởng Nành, bộ lạc Hải Cẩu về, ông rất vui. Mẹ em hỏi. Ông bảo: “Tôi có thêm người bạn mới. Bạn tôi là vị lang thuốc giỏi nhất cõi Lạc Việt, người nhân hậu lắm”. Tù trưởng Nành bảo nhỏ tôi: Con người nhân hậu kia có ba con trai, nghe nói đều cương cường dũng mãnh”. Vừa rồi, tù trưởng Nành sang mời thầy em lên Luy Lâu xem trường đấu. Thày em cáo bận không đi. Nhân tiện đường em xin thày mẹ theo tù trưởng Nành lên đây thăm bà cô. Tù trưởng Nành khởi hành từ sớm.
Nàng Sen ngỏ lời mời chàng Hai tạt vào nhà bà cô mình chơi. Chàng Hai từ chối, vì cần phải đi Luy Lâu ngay.
*
Những lần trước, cuộc hành hình tử tù bằng trâu diễn ra ở pháp trường. Lần này, cuộc thi tài được chuyển về giáo trường ở trung tâm thành Luy Lâu.
Trên khán đài cao bảy thước, Thứ sử ngồi chính giữa, trong chiếc ghế bành bọc da hổ, hiệu uý ngồi bên phải, ghế thấp hơn một chút, Trấn Nam hổ tướng Tôn Thiết Khổng ngồi sau Hiệu Uý, Trấn ba thượng tướng Lâm Thảo ngồi sau Thứ sử. Phía sau nữa là các văn quan, võ tướng. Dãy khán đài phía trái là lũ con nuôi, con đẻ của Thứ sử, nhốn nháo có tới vài ba chục gã, có thằng cao lớn, vạm vỡ như dũng sĩ, có đứa nhỏ nhắn, trắng trẻo tạng thư sinh. Cô Tồn là chánh chủ khảo, Lâm Thảo giữ chức Giám quan.
Trước khán đài là bãi đất rộng, xung quanh cắm cờ đuôi nheo. Lính Ngô từng tốp, từng tốp rầm rập đi tuần quanh bãi. Cách khán đài mươi bước là khu đấu trường cũng khá rộng bao bọc bằng hàng cọc tre rào theo lối chéo cánh sẻ, có thêm chằng chống nên rất chắc chắn. Đấu trường mở cửa thông với hai gian lều ở hai bên, trông xa tựa như chiếc cối xay lúa của nông thôn ta thời bây giờ. Gian lều cắm cờ đen là nơi nghỉ ngơi, ăn uống của “con trâu đấu sĩ”. Con trâu to lớn lạ thường, lông lởm chởm, tua tủa như bàn chải sắt; hai sừng chĩa ra phía trước, lại được quản ngưu gia công thành chiếc đinh đôi nhọn hoắt. Ngót hai mươi cuộc hành hình người Lạc Việt trong năm đều do nó tiến hành để quan quân Đô hộ thưởng ngoạn và dân chúng Lạc Việt lấy đó làm kinh. Nó mắc tật nghiện rượu, uống suốt ngày không say, càng uống càng hung dữ. Con vật đang vục mõm vào chậu rượu uống ừng ực. Viên quản ngưu ngồi trên ghế đẩu kê gần cửa.
Gian lều cắm cờ trắng là lều của các tử tù Lạc Việt. Họ chen chúc trong đó khá đông, người nào cũng cởi trần đóng khố, chân bị xích, chỉ khi ra giao đấu mới được lính canh ngục mở xích. Hai tên Ngô cầm gươm đứng hai bên cửa trước và khoảng vài mươi tên cũng mang kiếm xếp thành hàng rào che kín cửa sau.
Tiếng trống thúc, chiêng khua mỗi lúc một dồn dập. Người đến xem đông dần... Đông đến mức chật cả bãi, tràn ra ngoài phạm vi cắm cờ đuôi nheo.
Viên xướng lệnh gọi loa:
- Quan Thứ sử ra ân: Đối với tử tù: ai thủ hào được xoá tội lỗi, được thả về nhà. Ai thắng cuộc, được đặc cách cử làm trưởng cơ. Đối với các dũng sĩ khác: ai thủ hoà: Được thưởng hai trăm nén bạc, được làm tì tướng Toà hiệu uý.
Từ lầu tử tù, Đô Hàm chậm rãi bước ra. Anh là người Hạc Trì, nổi tiếng khắp vùng vì giỏi vật và tài săn bắn. Cách đây một tháng, anh săn được con hổ. Ngang đường vác hổ về thì gặp tên huyện lệnh Hạc Trì dẫn lĩnh đi tuần thú. Nó đòi lấy xác hổ. Anh không nghe, nó hô lính xông vào “đánh người cướp vật”. Anh chống cự quyết liệt, tay không mà giết được hai tên Ngô có vũ khí. Bọn Ngô vây quanh, giáo gươm chém túi bụi nhưng không sao thắng nổi đôi cương thủ và thán pháp nhanh lẹ của Đô Hàm. Đan Tốc phi hành qua thấy vậy liền rút liễu đao ám trợ. Đô Hàm bất ngờ bị thương, sức chiến đấu kém dần, thế là anh bị bắt. Anh bị bọn Ngô kết án tử hình. Anh vốn sống phóng túng giữa rừng xanh, bỗng chốc bị hãm trong bốn bức tường đá lạnh ngắt, thực không gì khổ bằng. Vì vậy, có thời cơ phá cũi sổ lồng là anh xông pha ngay, bất kể lúc này vết thương nơi anh chưa lành hẳn.
Đợi cho Đô Hàm đúng tại vị, tên Quản ngưu mới vỗ lưng trâu giục nó tiến ra. Theo thói quen, con trâu tế một vòng quanh sân đấu, tới trước khán đài, nó dừng lại quỳ hai chân trước, chĩa chiếc đinh đôi lên trời rồi đủng đỉnh bước về vị trí đã ấn định cho nó.
Con trâu gằm gằm nhìn đối thủ, cặp mắt đỏ ngầu không chớp, cặp đinh đôi hất hất, răng nhe, miệng é ọ ầm ĩ, mùi rượu hôi hám xộc từ cổ họng ra như luồng uế khí.
Đô Hàm vờn vờn mấy cái đã tóm được một sừng con vật, cố ghìm đầu nó xuống, nhưng chưa nắm được cả hai sừng nên sức mạnh dồn xuống đầu con vật không cân lại bị nó văng, nguẩy liên tục một hồi, anh buột tay và thất thế. Nhanh như cắt, con trâu lao tới xốc sừng xuyên qua ngực đối thủ, hất ngược lên. Nó vừa rảo bước quanh đấu trường vừa hếch mõm é ọ một cách đắc thắng. Tới trước khán đài, con trâu dừng lại, nó muốn cho ngài thứ sử nhìn thấy đối thủ của nó đang giãy giụa như con ếch bị người ta xiên dùi qua bụng rồi nâng lên cao, nghĩa tà nó đã thắng một cách đáng hãnh diện.
Tiếng hò reo, bình phẩm ầm ĩ từ khán đài tung ra để khen ngợi sự tinh khôn của con vật. Có tiếng thở dài xen vào, nhung yếu ớt, ngắn ngủi lọt thỏm và mất dạng trong đám quần chúng đang nhao nhao quanh bãi.
Một lúc sau, nghĩa là đủ thời gian cho người xem thưởng ngoạn, con trâu hất nạn nhân xuống đất. Nạn nhân giẫy mấy cái rồi chết.
Quản ngưu bưng chậu rượu cho “con trâu - đấu sĩ” thắng cuộc. Con trâu hớn hở é ọ, vục mõm uống ừng ực, chẳng thèm để ý cái gì ngoài chậu rượu nồng, kể cả xác đối thủ của nó đang được người ta kéo ra ngoài.
Viên xướng lệnh nâng loa lên, khuyên khích:
- Tên này xấu số, kẻ khác hẳn có vận may!
Một người nhỏ nhắn, lểu đểu bước ra. Đó là Trình Quang, một cao thủ sa cơ mà lọt vào tay quân Ngô, anh bị chúng xích chân tay suốt ngày dù anh cố giữ vẻ yếu đuối khờ khạo. Đối với anh chỉ cần tháo xích tay, xích chân là có thể thoát đi một cách dễ dàng, nhưng bọn Ngô không cho anh cơ hội ấy. Bây giờ thì...
Thấy anh chỉ cao hơn con trâu một đầu và quá nhỏ với nó, đoàn quần chúng quanh bãi xuýt xoa thương hại.
Thứ sử bảo hiệu uý:
- Thằng này sợ cảnh phấp phỏng đợi chết nên muốn chết sớm đấy mà.
Trình Quang bắt chước theo lối con trâu, anh chạy vòng quanh đấu trường, tới trước khán đài vái dài một vái rồi vừa vờn múa vừa chạy theo đường rắn lượn đến trước mặt con trâu.
Mặc con trâu é ọ, hục hặc... Trình Quang vẫn múa may tít tang mù, khi sấn lại gần, lúc thoát ra xa, khi nhảy sang phải, lúc quành sang trái, thoăn thoắt, thoăn thoắt. Con trâu muốn húc, muốn vằng, muốn ập cái thân hình khổng lồ lên người đối thủ mà không sao làm nổi. Trình Quang vẫn chỉ vờn múa, không bộc lộ tài nghệ, e bọn Ngô biết mà làm hại; anh quyết định thắng con vật theo cách mục đồng trị trâu dữ.
Bỗng, thoắt một cái, chẳng ai hiểu Trình Quang lợi dụng thời cơ nào mà đã ngồi chỗm chện trên lưng con vật dữ tợn, hai ta nắm chắc hai gốc sừng, hai chân quặp chặt hai bên nách.
Tiếng hò reo tán thưởng ầm lên. Quả là người có tài trị trâu dữ.
Con trâu không phải vừa, biết đối thủ ngự trên lưng mình, nó hất chân sau tế như điên, vằng đầu đánh lại. Lối chống cự theo kiểu trâu của nó không hề làm anh mục đồng bận tâm. Anh giả vờ vỗ đầu trâu đen đét để mua vui rồi bất thần xuất chưởng “Tử thần đoạt mệnh” trúng trưởng ấy là người ắt nát hậu chẩm mà chết. Dù sao sức trâu vẫn là sức trâu, nó chỉ rung động toàn thân, chững lại tí chút rồi như bị trêu tức, nó vùng vằng hung hăng hơn. Trình Quang biết muốn hạ con vật phải xuất chưởng liên hoàn. Nhưng, làm vậy anh e bọn Ngô biết bản lãnh của mình, nên bỏ ý định hạ sát con vật dữ. Anh tiếp tục che mắt bọn Ngô bằng thủ đoạn mục đồng thúc con trâu phải lồng, phải hất hai chân sau, phải văng sừng đánh ngược lại...
Mưu mẹo của đấu sĩ không che được mắt Lâm Thảo. Quan sát tư thế, phương pháp ứng phó của đấu sĩ, Lâm biết ngay đấu sĩ là một cao thủ. Y nảy ý định chiêu dụ Trình Quang.
Viên xướng lệnh gọi loa tuyên bố trận đấu “Hoà”, cấp cho người thủ hoà năm nén bạc làm lộ phí về quê quán. Lâm Thảo dặn tên tuỳ sai mang bạc phát cho Trình Quang, nói thêm: Quang ở lại sẽ cho làm trưởng cơ.
Quang cười, đi luôn. Đi mấy bước, đánh cái vèo mất tích.
Thảo nghe tên tuỳ sai kể lại. vỗ đùi có ý tiếc. Con cá lớn mà thả mồi nhỏ, nó lảng đi là phải. Y đưa mắt quan sát quanh đấu trường, chẳng thấy chàng tráng sĩ mặc áo da hổ đâu. Y ngả người ra sau ghế, cố nén tiếng thở dài.
Viên xướng lệnh lên tiếng khuyến khích các đấu sĩ.
Từ lều tử tù, một thanh niên cao lớn tóc dài chấm vai, ngang đầu buộc dải vải đen, cởi trần, đóng khố bước ra.
Dân chúng xôn xao trầm trồ về thân thể và tư thế cường tráng dũng mãnh của chàng lực sĩ. Một cụ già nhận xét:
- Quả là trai Lạc Việt!
Thứ sử nói gì đó với Lâm Thảo nhưng mắt vẫn nhìn xuống đấu trường, hắn lấy làm thích thú vẻ đẹp cơ thể của đấu sĩ.
Anh thanh niên này là cả Kình, đầu lĩnh quân sự thuộc bộ lạc Plinh, cư trú dọc bờ nam sông Hoàng Long.
Một hôm, bọn Ngô kéo quân đến vây bộ lạc cướp con gái chia cho lũ tù Ngô - mới được phóng thích từ bên Ngô sang Lạc Việt - làm vợ. Lúc ấy, cả Kình cùng các bạn khác đang đi săn, nghe tin dữ, anh cấp tốc dẫn anh em về tập kích, giải thoát cho các nạn nhân và chặn đường giặc cho Tù trưởng dẫn bộ lạc rút vào rừng sâu. Trong rừng sâu, việc cày cấy, săn bắn gặp khó khăn. Lợi dụng tình thế ấy, Lâm Thảo phái Thái Cát vào gặp vài tên Lạc Việt gian manh, khích Tù trưởng và dân chúng quy tội cho cả Kình “Nó chống thiên triều nên dân chúng mới khốn đốn. Nộp nó cho quan trị tội ắt bộ lạc được trở về nơi cư trú cũ, sẵn nhà ở, sẵn rừng săn, lúa đang chín rộ”.
Bộ lạc Plinh nhẹ dạ hùa theo, cả Kình có thể trốn, nhưng không trốn mà nói lớn trước người thân: “Cha mẹ muốn tôi chết, tất nhiên tôi phải vâng lời. Nhưng, cha mẹ nhớ rằng: Bọn Ngô là lũ sói lang”. Quả nhiên cả Kình vừa bị giải đi chưa trọn một ngày, bọn Ngó đã ập đến, tàn sát trai tráng bắt con gái, cướp phá của cải. Bộ lạc thất tán mỗi người một nơi. Thế là, cột chống nhà bị đổ, toà nhà ụp đố theo. Khi biết hối thì chuyện đã rồi.
Trong ngục tù Luy Lâu, cả Kình không biết chuyện đau lòng ấy, anh đinh ninh rằng mình chết cho cả bộ lạc yên ổn, nên coi cái chết nhẹ như lông hồng. Hôm nay, thấy có thời cơ trở về bộ lạc, anh cũng thử xem may rủi ra sao.
Con trâu có mỗi một cách đánh như trước kia từng hạ những tử tù khác và vừa rồi đánh đổ Đô Hám. Nhưng lần này, nó gặp phải đối thủ khoẻ quá. Nó bị cả Kình tóm sừng này, vươn tay tóm sừng kia rồi ghì đầu xuống đất. Nó gồm lưng, hất đầu, vằng sừng, hai chân sau bậm đất dấn đà, đất bửa cả mảng mà vẫn không sao cất được đầu lên.
Thứ sử trầm trồ:
- Thực là dũng sĩ!
Lúc đầu, cả Kình định ghim giữ thế thủ hoà. Sau anh lại nảy ý nghĩ, cần thắng cuộc, nhưng không nhận chức tước của giặc khiến chúng bẽ mặt cho hả giận.
Ý nghĩ thúc đẩy hành động, anh nâng đầu con trâu lên, đẩy nó lùi, định lựa thế vặn ngã ngửa con trâu. Bất ngờ, một chân kia mất điểm tựa - Con trâu lùi mạnh một cái khiến cả Kình buột tay ngã xấp xuống đất. Con vật không chậm trễ, nó chồm sấn lên, giẫm hai chân trước lên lưng đối thủ và đanh tiếp bằng cú vằng sừng. Cả Kình vỡ sườn mà chết.
Cả đám quần chúng cũng nín thở rồi bật ra tiếng thở dài.
- Tiếc thay!
Thứ sử thở dài:
- Ta thực là bạc phận.
Trận thắng này không vinh dự lắm, dẫu sau cũng là thắng nên Quản ngưu bưng chậu rượu ra thưởng cho con vật. Con trâu hình như cũng làm thấy mình thắng là nhờ may, nên nó không hớn hở é ọ như trận đấu với Đô Hâm, mà chỉ vục mặt vào chậu rượu.
Viên xướng lệnh khích lệ:
- Tiếc thay! Tiếc lắm thay! Sức mạnh có thừa chỉ vì sơ ý mà thua oan. Người sau thường gặp may hơn kẻ trước. Ai thủ hoà...
Vật thưởng tăng lên, cả đoàn tử tù đều im lặng.
- Vận đen là phần của kẻ nhát gan và nóng vội. Ai thủ hoà...
Vật thưởng tăng lên nữa, đoàn tử tù vẫn im lặng.
- Can trường là mẹ đẻ ra thắng lợi... Ai thủ hoà...
Vật thưởng nâng gấp bội, vẫn không một tử tù nào màng. Họ không sợ chết, vì đằng nào cũng đến lượt họ chết, chủ yếu là họ không muốn lấy máu mình tưới lên cuộc vui man rợ của kẻ thù.
Viên xướng lệnh lại lên tiếng:
- Quan Thứ sử ra ân. Xin mời các dũng sĩ Lạc Việt...
Đoàn tử tù vừa bị lính Ngô dong đi, lập tức một người bước vào lều. Người này mặc áo da hổ ngắn tay, quần lửng chẽn ống, tóc cum cúm chấm vai, ngang đầu thắt dải khăn làm bằng da rắn cạp nia, cổ tay đeo nhiều vòng đá màu vàng, đỏ, trắng...
Viên xướng lệnh lên tiếng lần thứ hai. Anh thanh niên nghễu nghện bước ra đấu trường, tư thế đĩnh đạc, động tác dứt khoát và vẫn mềm mại. Đó là chàng Hai.
Thứ sử xốn xang cả ruột gan, hắn ngoái nhìn về phía sau. Lâm Thảo khẽ thưa: Chính hắn đấy! Cô Tồn mừng lắm, hắn dặn:
- Phải săn sóc y chu đáo!
Con trâu đã lấy lại sức, rượu đang chạy giần giật khắp mạch máu gân cốt và bốc lên đầu nó. Nó hằn học nhìn đối thủ bằng cặp mắt đỏ ngầu. Chợt như phát hiện ra điều chẳng lành, nó é ọ, ngơ ngác có ý tháo lui.
Thứ sử nói lớn:
- Truyền chàng dũng sĩ cởi áo da hổ!
Không đợi viên xướng lệnh nhắc, chàng Hai cởi áo tung lên hàng rào. Anh vái chào theo đúng lễ, rồi chẳng đôi hồi bước về phía con trâu. Con trâu sầm sầm lao lên, chĩa cặp sừng đinh đôi húc đối thủ.
Ai cũng nghĩ là đấu thủ khôn ngoan thì nên tránh cái thế húc mạnh ấy của con vật...
Chàng dũng sĩ không tránh mà vươn tay tóm lấy cả hai sừng con vật. Anh vặn đầu nó sang phải, lật sang trái rồi đẩy nó lùi về phía sau. Con trâu ghìm mãi mới trụ chân được. Con trâu say rượu bị khiêu khích, nó nghé ọ ầm trời rồi phăm phăm phóng vào đối thủ. Chàng dũng sĩ vươn tay tóm sừng trâu, bẩy dần thân xác nặng nề của con vật, bất chợt anh gầm to một tiếng, nhấc bổng con vật lên cao hất tung nó qua đầu mình ra phía sau.
Lâm Thảo buột miệng:
- Hạng Bá Vương xưa cũng không thể bằng!
Cô Tồn vỗ vỗ tay Lâm Thảo bảo:
- Trời giành cho ta người đó!
Con trâu bị ném xuống đất như trời giáng, nó lồm cồm đứng dậy. Chàng đấu sĩ quay lại vừa lúc con trâu bay chồm tới. Chàng dũng sĩ hét lên. miệng như phun lửa, hai cánh tay thần chụm lại rồi vung ra. Đầu con mãnh ngưu như bị xẻ toác, nó lăn lộn trên bãi, chỉ giãy giãy mấy cái đã chết. Đấu trường lặng đi rồi ồn lên như chợ vỡ.
Thứ sử, Hiệu uý kinh ngạc đến nỗi ngồi ngây người, mãi vẫn không nói được gì. Khi đám đông ồn ào ầm ĩ, Thứ sử mới định thần. Hắn rời khán đài đi xuồng, bước lại gần chàng Hai.
- Dũng sĩ thực sự là người dị thường!
Thứ sử mời đồng liêu và thuộc hạ về dinh, mở tiệc mùng thần lực vô tiền khoáng hậu của chàng dũng sĩ. Chàng Hai đang đi chợt trông thấy Lâm Thảo, trong lòng đã có ý nghi ngại đề phòng. Lâm Thảo biết ý, hắn bước lại gần, cười khích lệ:
- Chúng ta bị tráng sĩ đánh bại mà lòng lấy làm mừng. Ấy là nhờ khí thiêng sông núi mà trời cho Giao Châu ta một người dũng sĩ. Từ khi nghe tệ chức kể lại cuộc hội ngộ Đồng Cồn, đại nhân thứ sử hết lòng ái mộ tráng sĩ. Xin đừng nghi ngại mà phụ lòng ngưỡng vọng bấy nay của đại nhân thứ sử.
Trong bữa tiệc, Thứ sử đặc cách cho Hiệu uý và chàng dũng sĩ cùng ngồi hằng ghế với mình. Hắn trịnh trọng nói:
- Trai tài gái sắc là báu vật của trời đất. Hàng trăm năm, hàng nghìn năm mới có một Đát Kỷ, một Tây Thi. Hàng trăm năm, hàng nghìn năm mới có một Nam Cung Trường Vạn, một Hạng Võ. Ngày nay trời lại cho Giao Châu ta một chàng Hai. Ta đã đi khắp Trung Nguyên, ngó nhìn bốn phương thiên hạ, từ Đông khấu tới Tây nô, từ Bắc dịch tới Nam di, chưa thấy một tuấn kiệt nào thần dũng như tráng sĩ mặc áo da hổ. Chàng dũng sĩ thực xứng với danh hiệu Hổ Bì thần tướng.
Chàng Hai một mình lọt thỏm giữa toà lâu đài nguy nga, xung quanh là các văn quan võ tướng giáp trụ rực rỡ, đi đứng đường bệ, anh cảm thấy ngợp trong bầu không khí cung đình. Nhưng dũng sĩ ở đâu vẫn là dũng sĩ, anh nói năng từ tốn, cử chi đàng hoàng, giữ mình khỏi điều thất thố.
Tư chất phong thái của chàng dũng sĩ khiến Thứ sử Cô Tồn rất mực vừa lòng. Sau đại tiệc, hắn mời chàng Hai đến tư dinh chiêu đãi riêng. Cùng dự còn có Lâm Thảo, nanh vuốt của Thứ sử. Để làm đẹp lòng chàng dũng sĩ, Cô Tồn cho vời nhạc công, mỹ nữ tới tấu nhạc, lượn múa mua vui. Hai bên chủ và khách có hai mỹ nữ ngồi chuốc rượu, tiếp thức ăn. Chàng Hai vốn sống ở miền dân dã, hoàn toàn không biết gì về cuộc sống nhung lụa nơi cung đình, anh không ngờ con người ta có thể nghĩ ra nhiều cách sống khoái lạc như thế này. Dù sao, bậc tuấn kiệt lúc nào cũng sẵn tư chất tuấn kiệt. Trong khung cảnh khoái lạc, chàng Hai cũng tỏ ra một trang dũng sĩ hào hoa phong nhã.
Cô Tồn thực sự mến yêu chàng trai trẻ, hắn nói:
- Ta ái mộ tráng sĩ như lòng người cha đối với đứa con tài giỏi. Ta đã có bốn mươi chín đứa con đều là những kẻ kiệt hiệt. Nay ta muốn nhận tráng sĩ làm dưỡng tử. Ngôi trưởng tử vẫn còn để trống. Ta sẽ định thứ vị ấy trong dịp tỉ thí sắp tới ở võ tướng. Tráng sĩ hãy hiểu lời gan ruột của ta và chớ phụ lòng ta!
Chàng Hai chắp tay xá ba xá rồi đáp:
- Tiểu tử đa tạ biệt ân của đại nhân. Tiểu tử rất băn khoăn khi thưa rằng tiểu tử còn song thân phải ngày đêm ấp lạnh quạt nồng.
Lâm Thảo cũng thêm lời giúp Cô Tồn thu phục chàng Hai, nhưng đều bị chững lại bởi những lời lẽ từ chối đạt lý thấu tình.
Cô Tồn gặng hỏi:
- Vậy dũng sĩ có tham dự buổi tranh hùng ở võ trường không?
- Đại nhân gia ân cho các anh hùng hảo hán có dịp xuất đầu lộ diện với thiên hạ. Tiểu tử không dám phụ ơn ấy.
Chàng Hai nóng ruột muốn thoát khỏi không khí ngột ngạt nên đáp mà không cân nhắc. Anh đã hoàn thành sứ mệnh diệt mãnh ngưu, chẳng nên tham dự cuộc đấu võ làm gì cho thêm luỵ vào thân. Nhưng khi nghĩ lại thì lời nói đã qua miệng rồi.
Cô Tồn không muốn chàng dũng sĩ vuột khỏi tay mình, hắn bảo:
- Hổ Bì tráng sĩ hãy ở trong tư dinh của ta chờ ngày diễu võ. Ta sẽ cho mười mỹ nhân tới hầu hạ tráng sĩ.
Chàng Hai nghe lời nói ấy như bị gáo nước lạnh đổ vào gáy, như vậy khác gì cảnh cá chậu chim lồng, Chàng lựa lời từ chối:
- Đại nhân cho tiểu tử quá nhiều ân sủng, quan quân và dân Luy Lâu không ai không biết. Xin đại nhân cho tiểu tử ra ở ngoài để tránh tị hiềm, nhằm giữ bền cái đức minh trị của đại nhân.
Lâm Thảo là kẻ sành sỏi, y biết lời người quân tử chắc như đinh đóng cột, chàng Hai nói sẽ tham dự tỉ võ tất không sai lời. Vả lại, nếu buổi ban đầu đã khăng khăng làm điều khiên cưỡng, e có thể làm mất lòng bậc dũng sĩ thần thánh này. Nghĩ vậy, y thêm lời đỡ chàng Hai:
- Hổ Bì tráng sĩ phòng xa như vậy thực hợp lẽ, xin minh công châm chước.
Cô Tồn cố giữ chàng Hai ở trong dinh mấy ngày, đãi đằng thù tiếp hậu hĩ để tỏ lòng ái mộ và quyến luyến rồi mới miễn cưỡng cho anh ra ở ngoài thành. Hắn dặn Lâm thảo chu cấp mọi thứ cho chàng Hai, đừng để chàng dũng sĩ thiếu thốn vật gì.
Lâm Thảo thực hiện lệnh chủ tướng không sơ sảy mảy may. Y cấp nhà lớn, ngựa xe đẹp, lính hầu và mỹ nhân cho chàng Hai sử dụng. Ở nơi đất khách quê người, chàng Hai không thể từ chối những thứ đó. Và chính miếng “bả” này làm hại chàng dũng sĩ.
Ấy là, có hai kiếm khách tài danh vẫn ẩn tàng quanh quẩn trong Luy Lâu, Tìm cách kiến diện kết giao với Hổ Bì tráng sĩ. Một người là Phong ba đại hiệp Thái Nam, tay kiếm khách cự phách nhất Giao Châu. Thái Nam lấy việc hành hiệp, giao kết khách anh hùng bốn phương, lo việc tập hợp lực lượng cứu nước làm sự nghiệp. Một người là Phiêu diêu lãng tử Trình Quang, hành tung ảo diệu, thoắt hiện, thoắt biến, quyền kiếm đều tinh thông. Hôm ở đấu trường được thả, Trình Quang làm như vội vã đi ngay. Nhưng đó chỉ là động tác giả đánh lừa đội do thám của Lâm Thảo. Anh lẩn lút ở Luy Lâu để nghe tin tức đấu trường. Sau này, Trình Quang là Đô tướng chỉ huy đội do thám dưới tướng Bà Triệu. Hai nhân vật giang hồ nóng ruột chờ gặp chàng dũng sĩ, nhưng chờ đợi mấy ngày ròng chỉ nhận được những tin tức không vui mà bọn gia thần của thứ sử Cô Tồn truyền ra ngoài. Xưa kia, Quan Vân Trường về với Tào Tháo được Tào Tháo chiêu đãi nồng hậu “tam nhật tiểu yến, thất nhật đại yến”. Ngày nay, Hổ Bì tráng sĩ được đại nhân thứ sử nhận làm con nuôi thậm chí được định ngôi trưởng tử. Tiếp đến, hai hiệp khách tận mắt trông thấy Lâm Thảo thân cầm cương dong xe đưa chàng Hai về nhà riêng. Thứ sử lại sai người mang đến tặng chàng dũng sĩ con bạch mã cực kỳ hùng tráng. Tướng mạnh nhờ sức ngựa! Chàng Hai mùng lắm, suốt ngày quấn quýt săn sóc ngựa. Thấy vậy, hai kiếm khách tức giận bỏ ý định cầu thân. Thái Nam bảo:
- Hắn sẽ tỉ thí võ nghệ, không ai có thể đối địch với hắn. Hắn sẽ xênh xang mũ áo, khom lưng cúi đầu trước bọn Ngô. Thực là vết nhơ cho các trang tuấn kiệt Lạc Việt. Chẳng còn gì đáng bận tâm, chúng ta đi thôi!
Nói rồi, hai kiếm khách dùng thuật kinh công lướt đi. Thái Nam đại hiệp trở về cùng căn cứ bên sông Cầu, Trình Quang lãng tử xuống miền lưu vực sông Hồng.
*
Thấm thoát đã tới ngày mở võ trường tỷ thí. Cô Tồn bàn với Lâm Thảo giao cho chàng Hai giữ võ đài. Như vậy, mặc nhiên buộc anh vào chức tước. Lâm Thảo cho rằng nếu Hổ Bì tráng sĩ giữ võ đài thì lấp lối các anh hùng dũng sĩ khác, dưới gầm trời này khó có người chống nổi cây thần chuỳ của chàng dũng sĩ. Chi bằng phân làm nhiều hạng võ sinh, từ hạng thấp dần lên hạng cao rồi tuỳ hạng mà phong chức tước, hạng cao nhất sẽ được trọng dụng, cứ coi chàng Hai như một võ sinh.
Ngày khai mạc cuộc thi tỉ võ, người đến xem vây quanh võ trường đông như kiến cỏ. Có người từ miền thượng du Tây Bắc, miền biển Đông Bắc, vùng trung du Phong Châu, vùng đồng bằng sông Hồng xa xôi cũng cất công leo đèo lội suối tới Luy Lâu xem cuộc tranh tài hoặc dự cuộc đua tài. Hai ngày đầu, chủ khảo Cô Tồn kén được mười viên kiện tướng, có thể dùng vào chức Đô uý và ngót ba chục tỳ tướng sung vào hạng trưởng cơ hoặc phó Đô uý, chưa võ sinh nào lọt được vào chung khảo đấu với thần sầu quỷ khốc thiết côn Bành Thống - Bành giữ vai trò chủ đài.
Bành Thống thân dáng cao lớn kềnh càng, mắt lồi miệng rộng, mặt đen như quỷ, râu tóc lởm chởm như lông nhím là đệ nhị dưỡng tử của thứ sử Cô Tồn, Bành Thống cử nổi đỉnh ngàn cân, hắn sử dụng cây thiết côn nặng ba trăm cân hết sức tinh diệu, tài thuật và sức mạnh của Bành Thống hơn Lâm Thảo vài bậc. Y vẫn vỗ ngực tự xưng là anh hùng vô định, y thuộc hạng hữu dũng vô mưu nên Cô Tồn yêu mà không trọng dụng.
Ngày thứ ba có hai võ sinh tài nghệ hơn người lần lượt thắng đấu thủ hạng dưới lọt tới vòng trực tiếp giao đấu với Võ đài chủ soái. Một người mới đấu chưa đầy ba hiệp đã bị Bành Thống vụt côn vỡ đầu, vọt óc mà chết; người kia giao chiến chưa được nửa hiệp thì bị thanh thiết côn lợi hại của Bành Thống đánh văng mất vũ khí, Thông toan giơ côn đập chết, nhưng Lâm Thảo đã kịp thời khua chiêng ngừng chiến. Nhiều võ sinh bỏ cuộc không tham gia thi đấu.
Cuối cùng chỉ còn một võ sinh không thay đổi ý định là chàng Hai. Thứ sử Cô Tồn là chánh chủ khảo đặc cách cho phép Hổ Bì tráng sĩ tỉ thí ngay với võ đài chủ soái Bành Thống.
Chàng Hai vốn không có ý định dự cuộc tỉ thí, chỉ vì trót nói lời nên phải giữ lấy lời. Biết Bành Thống là con cưng, là viên tướng dũng sĩ bậc nhất của thứ sử Cô Tồn, chàng Hai thấy mình nên giữ kín nhẽ. Anh hướng về phía quan chủ khảo, chắp tay thưa:
- Đại nhân cho phép tiểu tử được thưa: Người chiến tướng cầm khí giới lên ngựa chỉ có một ý chí là quyết thắng. Trong lúc mải mê tranh tài đua sức biết làm sao tránh khỏi sự thất thố mà đầu gươm lưỡi giáo lại vô tình. Đến trường đấu nhưng lòng tiểu tử lo sợ vô cùng. Mong đại nhân xoi xét!
Bành Thống biết chàng Hai có sức khoẻ gớm ghê nhưng trong đấu chiến sức khoẻ không quan trọng bằng võ nghệ. Y vốn rất tự phụ về tài nghệ côn quyền của mình, chưa ai chống nổi cây thiết côn thần sầu quỷ khốc. Đang nung nấu chí hạ Hổ Bì tráng sĩ nên Bành Thống bộp chộp cướp lời cha nuôi:
- Xin chủ phụ cho lập quân lệnh trạng!
Lâm Thảo đã nếm mùi thất bại bởi Hổ Bì tráng sĩ nên cố ý gàn:
- Hai hổ giao tranh, tất có con bị hại. Vậy hai tráng sĩ thi đấu hãy giữ lấy hoà khí.
Bành Thống khăng khăng:
- Dũng sĩ phải quyết đấu cho ra dũng sĩ! Xin chủ phụ lập quân lệnh trạng!
Cô Tồn miễn cưỡng đồng ý cho lập tờ quân lệnh trạng, một để ở án thư, một giao cho chàng Hai.
Hai đấu sĩ bước xuống diễn trường, cùng cầm vũ khí, cùng lên ngựa.
Bành Thống cưỡi ngựa đen, mình bận áo giáp đồng, đầu đội mũ trụ, chân đi hia Ngư thuỷ, lưng đeo bảo kiếm, tay cầm cây thiết côn nặng ba trăm cân. Chàng Hai cưỡi bạch mã, khoác áo da hổ, đầu chít dải khăn bằng da rắn chân di dép da trâu, lưng giắt kiếm, tay cầm chuỳ đồng nặng ba trăm cân. Chàng Hai hướng về phía đối thủ nói:
- Chúng ta không thù không oán, hiềm nỗi đầu tên mũ giáo vô tình, mong công tử lượng thứ.
Bành Thống tròn xoe mắt quát như sấm dậy:
- Không nhiều lời! Xem đây!
Miệng nói tay giơ côn sắt quất đánh vèo. Chàng Hai giơ chuỳ lên đỡ. Bành Thống cảm thấy thanh sắt nhẹ va phải thanh sắt nặng, hắn vụt tiếp một côn nữa mạnh hơn. Chàng Hai chỉ giữ vững chuỳ để đỡ. Bành Thống trợn tròn mắt, râu tóc dựng ngược. Hắn nghĩ phải dùng đến độc thủ bí truyền để hạ kẻ đối thủ. Ngay lúc đó, chàng Hai giơ chuỳ bảo:
- Tiểu tử nhường công tử ba côn cho phải lẽ. Tiểu tử không quen thi đấu làm trò. Ta đánh bên trái. Ráng mà đỡ!
Chàng Hai đập một chuỳ theo thế Lôi công đả hung thần. Chỉ nghe tiếng keng, chiếc côn sắt đã vuột khỏi tay Bành Thống vụt bay tới mấy chục bước. Chàng Hai hồi chuỳ toan nói lời chữa thẹn cho kẻ chiến bại thì Bành Thống rút phắt thanh bảo kiếm. Sự thảm bại và máu háo thắng khiến gã nổi khung vung gươm đâm chém lia lịa theo thế xuất thủ liên chiêu kiếm.
Chàng Hai nổi giận:
- Mi giở thủ đoạn ác độc, vậy không còn thì giờ cho mi hối.
Chàng dũng sĩ dùng thế cuồng phong tảo điệp chống lại rồi lia ngang một đòn theo thế Tiên ông quá hải. Bành Thống dẫu vũ dũng nhưng đâu phải là đối thủ của chàng Hai, gã cố đỡ mà không xuể, đà quả chuỳ đi mạnh tới mức áo giáp gã mặc tơi ra như lá chuối bị bão táp còn gã nát cả vai lẫn đầu, gã lăn xuống đất chết không kịp giãy và chính thanh gươm của gã đã phạt đứt cổ ngựa. Trên khán đài, Lâm Thảo thất sắc nói với Cô Tồn:
- Đệ nhị công tử bị hắn giết chết rồi!
Cô Tồn không đổi sắc mặt, y bảo:
- Ta được một Hổ Bì tráng sĩ hơn cả trăm Bành Thống!
Chàng Hai ngó thấy Bành Thống chết thẳng cẳng vừa thương vừa trợn vừa hả dạ. Anh xuống ngựa, đặt chuỳ xuống đất bước lên khán đài thưa:
- Tiểu tử không cố tình nhưng đệ nhị công tử cố chấp quyết tử chiến. Mong đại nhân soi xét!
Chủ khảo trịnh trọng tuyên bố:
- Có quân lệnh trạng làm bảo chứng! Ngươi là dũng sĩ vô định. Bản chức vâng mệnh vua Ngô sang đây khai hoá dân Lạc Việt, một lòng chiêu hiền đãi sĩ để cùng lo chăn dắt muôn dân. Thừa lệnh vua Ngô, ta phong ngươi làm Đô uý thượng tướng và thu nạp ngươi thay chân Độ nhị công tử.
Chàng dũng sĩ được sinh ra đâu phải để làm tôi đòi cho bọn Ngô, anh một mực từ chối tất cả.
Cô Tồn trở mặt vin cớ chàng Hai khinh miệt ân huệ của vua Ngô ban cho các quận huyện ngoại biên rồi hô võ sĩ bắt trói.
Chàng dũng sĩ chưa kịp ứng phó thì hàng rào mũi gươm giáo đã vây chặt quanh mình. Anh hoàn toàn thất thế, “hừ” một tiếng và đành thất thủ. Thấy quân Ngô mang dây chão toan trói, anh trừng mắt quát bảo:
- Bắt thì bắt, muốn đi tới đâu ta đi tới đó. Kẻ nào chạm tới thân thể ta, kẻ ấy phải chết.
Quân Ngô đành lấy tù xa chở chàng dũng sĩ vô nhà ngục.
Lâm Thảo nói nhỏ với Thứ sử:
- Làm như vậy, tôi e lòng dân không phục!
Thứ sử cười nhạt:
- Việc mang quân sang chiếm bờ cõi nước người là việc nghịch đạo trời và mất lòng người nhất mà còn dám làm, há e ngại việc cỏn con đó sao. Vả lại ta chí cần Hổ Bi khuất phục là đủ.
Chàng Hai bị giam trong lao, lòng uất giận vô cùng, hết lồng lộn đi lại quanh bốn bức tường lại khoanh tay làm gối nằm chết lặng giữa nền nhà. Anh hối đã lỡ để cây chuỳ vô địch dưới khán đài, có nó trong tay bọn Ngô đâu dám ngông cuồng với anh. Anh biết, lúc ấy anh có thể lấy cái chết của mình để đổi lấy trăm mạng Ngô. Nhưng đất nước sinh ra dũng sĩ không phải để người dũng sĩ chết rẻ mạt như vậy. Nhưng, bây giờ làm thế nào thoát cảnh chim lồng cá chậu đây?
Bọn nhà bếp ngày hai bữa bưng cơm rượu lên rất thịnh soạn.
Chàng Hai ăn uống như thường. Ăn xong quát nhà bếp dọn bát đĩa rồi lại đi, lại nằm. Nhà bếp hỏi. Anh làm như điếc. Nhà bếp hỏi ráo riết, rằng sao nỡ từ chối chức tước để khổ thân khổ đời thế này. Anh quạu mặt bảo:
- Việc ấy không phải của bác, việc của bác là mang cơm rượu lên. Bác có trộn thuốc độc vào. Ta vẫn cứ ăn.
Thứ sử cho mưu sĩ đến mồi chài. Mưu sĩ dùng đủ mọi mánh lới mơn trớn, phỉnh phờ, doạ dẫm... nhưng hắn cảm thấy dùng hai tay lay đổ trái núi còn dễ hơn. Chàng Hai nằm khểnh giữa nhà giam, mặc cho hắn thả cửa khua môi múa mép. Anh không chớp mắt, không máy môi lấy một lần. Cùng dường hắn hỏi:
- Ông không sợ chết sao?
- Con người sông một lần, chết cũng chỉ có một lần - muốn làm sao được, không muốn làm sao được.
Chàng Hai vừa gõ ngón tay lên trán gã mưu sĩ vừa nói tiếp:
- Ta gần cái chết rồi chăng? Vậy thì ngươi hãy lui ra kẻo ta bắt ngươi xuống trước để dọn đường cho ta đi đấy.
Gã mưu sĩ nọ không phải hạng người dễ doạ. Lúc ấy hắn cáo lui, hôm sau hắn lại đến, hắn lại cùng ngồi ăn uống với người tù. Và lại tiếp tục mượn chén đưa câu chuyện lan man sang cảnh sống gia đình, rượu ngon vợ đẹp.
Chàng Hai thở dài. Bất chợt, anh hắt bát rượu vào mặt gã mưu sĩ quát:
- Cút mau, kẻo ta xé xác mi làm hai mảnh.
Không phải gã mưu sĩ chạy mà lăn ra ngoài lao, giục lính đóng cửa. Hắn hết hồn đấy, nhưng lại tìm được cách lung lạc chàng dũng sĩ.
Gã mưu sĩ lên gặp thứ sử Cô Tồn thưa:
- Muốn Hổ Bì tráng sĩ hàng phục phải dùng mỹ nhân kế.
Thứ sử bằng lòng ngay.
Y cho phép thuộc hạ tuỳ ý lựa chọn mỹ nhân. Tên đại thần trấn giữ một vùng rộng lớn đang muốn biến miền trị nhậm thành quốc gia, biến ghế thứ sử thành ngai vàng nên sẵn sàng cung hiến cả em gái, dù chỉ làm một ả đĩ bợm, nhằm thu phục viên mãnh tướng.
- Bẩm minh chủ! - Gã mưu sĩ nói tiếp: - Dũng tướng bậc nhất phải dùng mỹ nhân bậc nhất. Xin minh công xuống lệnh tuyển chọn mỹ nữ ở các quận huyện. Người đẹp nhất Lạc Việt ắt chinh phục được người mạnh nhất Lạc Việt.
Cô Tồn lập tức phái quân sĩ đi các quận huyện rao tìm và lùng bắt mỹ nhân. Bọn quan quân lựa chọn được mười mỹ nữ. Gã mưu sĩ chọn mỹ nhân đẹp nhất, cho ăn mặc trang điểm rực rỡ rồi dẫn đến ra mắt thứ sử.
Cô Tồn đực người ngắm mỹ nhân, một lúc mới thốt nên lời:
- Ta không có diễm phúc chiêm ngưỡng dung nhan Tây Thi, nhưng chắc chắn Tây Thi cũng chỉ đẹp đẽ mỹ miều đến mức này. Thực là Tây Thi tái thế - Y ngẩn ngơ rồi bổng hạ giọng nói: - Ta từ Kiến Nghiệp lặn lội sông ngòi, leo trèo núi non sang Lạc Việt mà không làm chủ mỹ nhân này thì uổng một đời làm quan, phí một thời khó nhọc. Ta muốn giữ nàng Giao Châu mỹ nhân!
Lâm Thảo vội thưa:
- Muôn quân dễ kiếm, một tướng khó tìm. Dũng tướng là phên dậu là nanh vuốt của quốc gia. Dũng tướng như Hổ Bì thì trăm năm, ngàn năm mới có một. Ngai vàng miền Lĩnh Nam này cần có dũng tướng làm bức tường thành. Nếu không, sẽ mất về tay người Lạc Việt hoặc sẽ bị Kiến Nghiệp tảo phạt. Minh chủ lập triều đình Lĩnh Nam là dụng nghiệp muôn đời cho con cháu, tất có cái mất cái được. Cái mất là mất chốc lát, cái được là được muôn đời, cúi xin minh chủ soi xét.
Cô Tồn cho là phải. Gã mưu sĩ dẫn mỹ nhân đi. Mỹ nhân ấy chính là nàng Sen.
Tù trưởng Nành ở đấu trường về, tạt vào nhà bà cô nàng Sen, Ông kể cho mọi người nghe nhũng chuyện xảy ra với chàng dũng sĩ.
Nàng Sen buột miệng:
- Đúng là chàng rồi!
Tù trưởng Nành hỏi. Nàng Sen thuật lại chuyện chàng Hai đi qua vùng này. Tù trưởng vỗ đùi than thở:
- Đau đớn quá! Ở Luy Lâu ta thương tiếc năm, về đây biết tông tích ta thương tiếc mười.
Nàng Sen quyết định đi cứu ân nhân và nhờ tù trưởng Nành cho người sáng báo cho cha mẹ mình biết tin. Cô tới Luy Lâu đúng vào thời kì quân Ngô sang săn lòng mỹ nhân. Cô tự nguyện nộp mình. Cuối cùng, cô đạt được điều mong muốn: -Tiếp cận người cô muốn giải thoát khỏi ngục tù. Cô được gã mưu sĩ giao nhiệm vụ hầu hạ người tù đặc biệt. Mặc dù nàng Sen ăn mặc, trang điểm óng nuột như nàng tiên, chàng Hai vẫn nhận ra ngay. Anh mở to mất bước rảo ra đón. Nàng Sen vừa nháy ra hiệu giữ gìn ý tứ vừa lui dần ra vẻ sợ.
- Tiện nữ bưng cơm dâng lên ông xơi!
Chàng Hai hừ hừ luôn miệng.
Nàng Sen đặt mâm cơm rượu xuống sàn, giọng run rẩy:
- Ông ơi! Ông dũng sĩ ơi! Từ nay tiện nữ có bổn phận hầu hạ cơm rượu. Ông chớ quá tay mà cũng đừng buông lời nhục mạ tiện nữ. Tội quá!
Vài buổi sau, nàng Sen bảo gã mưu sĩ:
- Thằng hộ pháp rắn mặt cứng cổ lắm. Hễ thấy ông thoáng qua là nó hầm hầm, hầm hầm. Ông tạm lánh ít bữa cho tính hung hăng của nó dịu đi.
Gã mưu sĩ bằng lòng:
- Ta hạn cho nàng mười ngày nhé!
Nàng Sen chẳng cần đến thời gian dài như vậy. Cá thấy mồi rồi, con nào cũng ham đớp, chỉ cần biết cách đặt cần câu thôi.
Khuất mắt cái gã mưu sĩ lúc nào cũng quẩn bên nàng Sen như chó quẩn bên chủ, bọn lính gác và nhà bếp đều cảm thấy nhẹ nhõm. Từ giờ chúng thả cửa bỡn cợt với “cô nàng xinh đẹp” mà không còn e sợ cặp mắt gian hiểm đã giấu trong hai hố sâu lại còn che ngoài bằng hai hàng lông mày rậm nữa. Thằng nào gặp nàng Sen cũng: “Cô tiên nữ của tôi”, “Hằng Nga của tôi”. Lúc tụ tập đông, chúng cứ nhao nhao như phiên chợ, mà lời rao hàng vẫn quanh đi quẩn lại có thế.
Nàng Sen giả vờ thờ dài:
- Chao ôi! Có một bông hoa mà hàng trăm bàn tay giơ ra toan hái. Chẳng biết vào tay ai!
Bọn sác ngục giở giọng vòi vĩnh thực sự, Hắn chỉ vào trong lao hất hàm nói giọng mè nheo:
- Cái thằng sắp bị chết chém thì được cô em hầu hạ quá cung phụng chồng. Còn ta đây thì suông chăng?
Nàng Sen chẳng còn mong dịp làm quen nào thuận lợi hơn, cô mỉm cười đáp:
- Hầu hạ kẻ sắp chết chỉ lấy phúc thôi. Ông anh chiếu cố, chiều nay có ngay!
Chiều, cô mang đến đãi nó một gói thịt, một giác rượu. Sáng hôm sau, mang cơm rượu cho chàng Hai, cô lại cung đốn cho nó đồ ăn thức uống hậu hĩ hơn hôm trước.
Thằng tham ăn nở mày nở mặt, mở luôn rượu thịt ra chén tì tì, miệng luôn luôn: “Tốt, tốt, tốt”. Mặc cô em muốn làm trời làm đất trong lao thì cứ việc làm.
Nàng Sen có thời cơ nói cho chàng Hai biết kế hoạch vượt ngục vào tối nay, đoạn rót bát rượu bưng ra cho tên lính gác, cô nhoẻn miệng cười:
- Gã trong kia mời bác đấy!
Tên lính gác hí hửng, cả bọn lính canh ngục, đầu bếp đều hí hửng. Vẻ đẹp, lời nó hồn nhiên cử chỉ nhí nhảnh, nụ cười tươi như hoa của nàng Sen làm loá mắt và mê mẩm đầu óc chúng.
Chập tối, nàng Sen phục rượu cho tên gác say mềm rồi vào lao đưa cho chàng Hai chiếc áo khoác, mũ đội của nhà bếp để chàng Hai cải trang. Sau đó, cô dùng tín bài của nhà bếp đưa anh ra khỏi thành Luy Lâu.
Họ rảo bước về hướng đông, tiến vào khu rừng thưa hoang vắng.
Hai thanh niên Lạc Việt, dắt theo hai con ngựa, đợi sẵn họ ở bìa rừng.
Các bậc cao thủ giang hồ hiểu lầm chàng Hai nên từ buổi diệt mãnh ngưu đã bỏ đi hết. Những người còn lại đều vào hạng trung bình không đủ bản lĩnh đột nhập thành cứu tù.
Một số thanh niên trong và ngoài thành Luy Lâu phải làm việc cứu tù theo cách của người thường. Họ bất bình về hành động bạo ngược của thằng thứ sử đã rủ nhau bàn cách giải thoát chàng dũng sĩ của họ. Họ tổ chức tìm mối và liên lạc được với nàng Sen. Thế là những người có cùng một mục đích gặp nhau. Nàng Sen có nhiệm vụ đưa chàng Hai ra khỏi thành Luy Lâu; anh em thanh niên có bổn phận chặn đánh bọn truy binh nếu chúng sớm phát hiện cuộc vượt ngục vả cử người mang ngựa ra đây đón họ.
Hai thanh niên trao cho chàng Hai và nàng Sen mỗi người một thanh kiếm, bộ cung tên, thân đỡ họ lên ngựa để tỏ lòng quyến luyến và quý trọng rồi giục họ lên đường.
Chàng Hai ngồi lên ngựa, chắp tay vái một vái nói:
- Ân nghĩa này bao giờ dám quên!
Hai thanh niên đáp:
- Nước có việc nước, thuyền có việc thuyền, sao có thể gọi là ân nghĩa.
Chàng Hai, nàng Sen thúc ngựa lên đường, họ muốn vượt qua khu rừng trước khi trời sáng. Họ đi được chừng năm dặm thì mạn Luy Lâu vọng đến tiếng trống chiêng liên hồi. Tiếng chiêng trống loang dần ra các vùng xung quanh thành. Các trại quân đóng ngoài thành nổi chiêng, các huyện sở lân cận cũng nổi chiêng. Luy Lâu báo động liên hoàn. Báo động truy lùng giặc dữ.
Nhưng, một khi đã thoát ra ngoài, những người Lạc Việt chạy trốn há sợ gì? Núi rừng Lạc Việt che chở họ, đường đất Lạc Việt nâng đỡ chân họ và cánh tay khối óc chắp cánh cho họ.
Nàng Sen nhận xét:
- Kẻ thù cuống cuồng, chứng tỏ chúng rất sợ những người Lạc Việt tài ba!
Chàng Hai không công nhận:
- Chẳng phải chỉ có thể thôi đâu. Nếu chúng chỉ sợ những người Lạc Việt tài ba thì có sao chúng bắt mọi người Lạc Việt dóc tóc cạo răng? Cớ sao... Ôi chao, trí óc ta sao thô thiển thế này, lòng ta sao hời hợt nông cạn thế này, cánh tay ta sao yếu đuối thế này? Ta... ờ, đúng rồi! chúng diệt hết nhũng kẻ tuấn kiệt Lạc Việt để bờ sông bến bãi Lạc Việt, người già trẻ nhỏ Lạc Việt không còn cánh tay khoẻ mạnh nâng đỡ.
Đang than thở, anh chợt ngừng lời và suốt chặng đường dài không nói gì thêm. Nàng Sen nói hay hỏi anh chỉ lắc đầu, hoặc gật đầu, hoặc im lặng nhìn sâu vào lối rùng thẳm phía dưới.
Nàng Sen hiểu tâm trạng chàng dũng sĩ, cô cũng cố kìm lòng mình để giữ im lặng.
Họ vượt qua con đường mòn sang khu rừng bên kia thì trời vừa sáng rõ. Nàng Sen chợt hỏi:
- Chàng Hai định đến nơi nào?
- Tôi không vui khi phải chia tay nàng - Chàng Hai đáp - Nhưng đành vậy thôi. Tôi sẽ theo đường biển vào Cửu Chân với cha nuôi tôi, ông là anh ruột mẹ tôi.
Nàng Sen biến sắc hỏi:
- Xa vậy ư? Chẳng lẽ mãi mãi chẳng gặp nhau nữa!
Chàng Hai nhướng lông mày ngắm núi nhìn mây nói:
- Cha con, anh em ta có lời thề không đội chung trời với giặc Ngô. Sông Lạc Việt rộng, đường Lạc Việt dài, nhưng sông gặp sông, đường nối đường, chúng ta có phen gặp gỡ.
Nàng Sen gặng hỏi:
- Bao giờ chia tay?
- Ngay hôm nay!
- Sớm vậy ư?
Chàng Hai có dáng không vui:
- Nàng Sen bảo là xa là sớm còn ta thì thấy gần đây thôi và chậm quá đấy!
- Em biết. Con đường chàng đi còn dài, còn nhiều chông gai nên chàng cần gấp rút. Nếu trên con đường chàng đi, có chông gai hay đám lửa chắn ngang, em ước sao chàng nhìn em mà hỏi: “Vượt qua cách nào hỡi Sen”. Nhanh hơn tên bắn, em ngả ngay mình xuống bắc cầu cho chàng đi qua. Nhưng mà, chúng ta phải chia tay. Gấp gáp chia tay. Chàng ra biển để trở lại đất liền mà lo toan việc nghĩa. Còn em lủi thủi về rừng, sống ru rú còm cõi trong miệt rừng xa xôi hẻo lánh. Rồi mỏi mòn... rồi lũ trẻ láng giềng đến gõ cửa nhà em mà hỏi: “Gặp chàng chưa, hỡi bà già đau khổ”.
Chàng Hai giật mình:
- Nàng Sen ơi! Nàng trộn thứ gì vào lời nói cho tai nghe mà lại khiến lòng ta não ruột thế này? Thỏi, ta xin nàng! Ta xin nàng hết thảy! Trai tài sái đảm Lạc Việt sao không xót thương núi sông Lạc Việt ngả nghiêng mà lại quá ưu sầu trước cảnh xa nhau? Nếu nàng muốn, ta đưa nàng về tận nhà bà cô; nếu nàng bằng lòng, ta xin chia tay nàng khi hết vạt rừng này. Nếu...
Nàng Sen lật đật ngắt lời. Hẳn nàng hiểu cuộc đời các chàng trai hào kiệt và các cô gái thục oanh là một chuỗi những sự hy sinh.
- Chớ nặng lời trách em mà tội nghiệp. Em có dám ngăn trở gì đâu. À, nhưng mà... mà sao... à thôi... tổ tiên sẽ ruồng bỏ em, bộ lạc sẽ khinh bỉ em nếu em làm quẩn vó ngựa của chàng. Vả lại, em xa cha mẹ đã lâu, đi hết khu rừng này, chúng ta chia tay nhau.
Họ ra tới bìa rừng, đang dặn dò nhau trước lúc chia tay thì vang lên tiếng chiêng khua và tiếng kẻ nào đó xướng to:
- Ai giết được tên tù vượt ngục thưởng nghìn vàng và cho làm Đô uý. Ai bắt được Giao Châu mỹ nhân thưởng ngàn vàng!
Nhanh như cắt, nàng Sen rút gươm chỉ hướng đường không thấy bóng phục binh giặc nói:
- Chàng phóng ngựa thoát nhanh! Ta chia tay thôi!
Chàng Hai bặm môi quan sát xung quanh, miệng nói:
- Bây giờ không còn là lúc chia tay nữa. Hãy lùi lại một chút xem tình thế ra sao. Tiếc rằng chúng lấy mất cây chuỳ đồng của ta.
Bọn Ngô dàn quân chặn khắp các ngả đường đi xuôi Long Đỗ và lối ra sông Đuống. Đường ra An Biên bỏ ngỏ - Chúng gọi hàng và doạ dẫm chứ không dám tiến lại sần, vì thằng nào cũng sợ oai chàng dũng sĩ.
- Không thể chần chừ phải cướp đường mà chạy! - Chàng Hai nói - Nàng theo ta bén gót!
Vừa nói anh vừa vung kiếm thúc ngựa xông thẳng vào toán lính chặn đường xuôi Long Đỗ; ngựa phi vun vút, kiếm chém quay vun vút theo thế cuồng phong tảo điệp. Chàng Hai tới đâu bọn Ngô gục ngã như lúa bị bão xô tới đấy. Bọn phục binh thấy chàng dũng sĩ xông xáo chém giết dữ tợn, khiếp quá không dám đương đầu. Chúng mở đường cho chàng Hai chạy rồi khép lại chặn đánh nàng Sen. Nàng Sen dẫu có can đảm và vũ dũng, nhưng cũng không thể chống nổi số đông.
Chàng Hai thoát khỏi vòng vây cũng là lúc ngựa của nàng Sen bị thương, nó hí ầm ĩ rồi hất chủ xuống đất. Bọn Ngô hò nhau xông vào bắt. Nghe tiếng ngựa hí người reo, chàng Hai giật ngựa quay lại.
Nàng Sen bị một tên Ngô tì mũi giáo vào lưng đẩy đi, vẫn ngoái cổ trông theo chàng Hai. Chợt thấy bạn quay lại, cô kêu lớn:
- Chạy đi! Chớ chần chừ mà khốn với chúng!
Chàng dũng sĩ cau mày vung kiếm xông vào trận, phạt đổ bọn Ngô cản đường, lướt tới chém chết thằng Ngô áp giải nàng Sen, kéo bạn lên yên, đoạn quay ngựa về hướng cũ, vừa vung kiếm lia phải phạt trái, vừa phóng ngựa phi ra ngoài trận. Bọn Ngô trố mắt đúng nhìn theo, muốn bắn cũng chẳng kịp.
Bọn kỵ mã tiếp viện từ hướng trên phi ngựa xuống. Chúng rầm rập đuổi theo. Chàng Hai tra kiếm vào bao, rút cung tên. Anh nhằm mặt giặc Ngô mà bắn. Năm thằng Ngô ngã ngựa. Vó ngựa của giặc chậm lại, nhưng cậy đông chúng vân hò hét đuổi theo.
Chàng Hai giật ngựa ngoặt vào rừng. Núi rừng che chở họ. Nhưng, tiếng ngựa hí quân reo vẫn từ sau vẳng tới.
Nàng Sen đặt tay lên vai chàng Hai nói:
- Em muốn theo chàng đến cùng trời cuối đất để sớm hôm giúp đỡ chàng. Nhưng, bây giờ, em đang là gánh nặng cho chàng. Dừng ngựa cho em xuống đây, em muốn về thăm cha mẹ. Sau này, trời có lòng thương, chúng ta lại gặp nhau.
Chàng Hai không nghe:
- Truy binh đang đuổi gấp sau lưng, chia tay sao được! Chàng Hai thúc ngựa phi nước đại một thôi dài thì bị một con sông lớn chắn ngang đường. Chàng cho ngựa chạy dọc bờ sông theo hướng Đông.
Nàng Sen muốn chia tay cho người dũng sĩ được rảnh rang, nhung nói thế nào chàng Hai cũng không dùng ngựa cho xuống. Nhìn dòng sông, chợt nhớ sự tích cũ, cô đặt tay lên vai chàng Hai thủ thỉ:
- Em nghe, xưa kia Hạng Võ vì quyến luyến Ngu Cơ bên bờ sông Ô mà phí hoài tấm thân bách chiến...
- Nàng hay nói nhảm quá!
Nàng Sen đã nghe tiếng vó ngựa khua dồn ở phía sau. Cô lay vai chàng Hai nói:
- Có nợ phải đòi, có thù phải trả. Truy binh đuổi tới gần, một ngựa sao chở nổi hai người, nếu cứ thế này thì chết cả đôi.
- Ta không khi nào bỏ bạn bè khi hoạn nạn, nàng chớ nói nữa!
Nhìn phía trước thấy đoạn bờ bị nước xói lở nàng Sen nảy ra một kế:
- Đằng kia bờ lở, chàng cho ngựa đi chậm kẻo rơi xuống nước.
Chàng Hai ngay thật nghe theo. Đến chỗ thuận tiện, nàng Sen xoa xoa vai chàng Hai rồi bất thình lình nhoai người lao xuống nước. Chàng Hai nhảy vội xuống ngựa, vừa lúc nàng Sen nhô đầu lên bảo: “Chàng chạy đi đừng lo cho em!”. Nói rồi cô nhằm bờ bên kia sải tay lao băng băng.
Chàng Hai lặng nhìn giây lát rồi lên ngựa phóng vào rừng. Chạy tới chập choạng tối thì bỏ xa bọn truy binh. Anh thả lỏng dây cương cho ngựa đi bước một để tâm hồn thảnh thơi bay tới dòng sông. Dòng sông mênh mông, cuộn sóng. Bờ bên kia là rừng thẳm bạt ngàn, hùm beo, rắn rết nhung nhúc trong đó. Và bọn Ngô gian ác lảng vảng rình mò khắp nẻo đường. Nàng Sen, nàng đã cứu tôi. Ai sẽ giúp nàng vượt qua những bước hiểm nghèo ấy?
Chàng Hai xuống ngựa. Lúc này đã già nửa đêm. Anh chọn bãi cỏ không bị tán cây cao che khuất bầu trời cho người và ngựa nghỉ ngơi. Anh khoanh tay làm gối, nằm ngửa ngắm mảnh trời con. Mảnh trời con thăm thẳm cuốn hút ý nghĩ anh. Ý nghĩ đưa lại những ấn tượng đau đớn và sự dằn vặt khó nguôi.
Núi sông Lạc Việt mà bọn Ngô nhởn nhơ làm chủ. Con em Lạc Việt mà bọn Ngô điên cuồng chém giết. Phong tục Lạc Việt mà bọn Ngô tuỳ tiện xoá bỏ. Chúng muốn biến cõi Lạc Việt thành quận huyện của Ngô mãi mãi. Chúng muốn người Lạc Việt quên tổ tiên, bỏ phong tục xưa để trở thành những tên Ngô ngơ ngáo. Cùng sống trong vòng trời đất này, chúng có ưu thế đất rộng người đông, nhưng hơn gì ai? Tâm địa và việc làm cúa chúng chẳng khác gì loài sói lang bẩn thỉu. Nếu cha ông ta không bị lời nói gian trá của chúng lừa phỉnh, không bị mưu kế hèn mạt của chúng bưng mắt đến nỗi khi tỉnh ngộ đã chẳng kịp trớ tay, thì há chúng có thể ngang ngược đến vậy. Ôi, sự xảo trá mới ghé tởm làm sao!
Chàng Hai chồm dậy. Ai thức giục mà lòng ta bồn chồn xao xuyến thế này? Anh đến đúng bên ngựa, tay đặt lên yên. Bình minh vén khoảng màu đen ở hướng anh đi tới. Lên đường, ngựa ơi! Anh vỗ về con ngựa rồi nhảy lên yên. Mặt trời lên cao bằng con sào, anh cũng vừa đi hết khu rừng. Thung lũng mọc đầy cỏ xanh, không nhìn thấu đầu đuôi.
Anh cho ngựa thong thả bước xuống thung lũng. Bất chợt, từ bìa từng bên kia, rất đông người cầm khí giới kéo ồ xuống con đương vắt ngang thung lũng, người nào cũng cởi trần đóng khố, do một ông cụ râu tóc trắng phơ dẫn đầu, có lẽ là tù trưởng. Anh thấy toàn là người Lạc Việt nên vững tâm cho ngựa bước tới gần.
Cụ già nâng ngang giáo bảo:
- Rừng của ta do ông cha để lại, không phải rùng hoang mà ai muốn qua cũng được. Khách xuống ngựa!
Chàng Hai dùng ngựa, ngạc nhiên hỏi:
- Rừng Lạc Việt, người Lạc Việt đi, cớ sao dám cấm. Ta đang bị quân Ngô truy đuổi, hãy cho ta đi qua.
- Vậy thì khách chính là người phải xuống ngựa!
Cụ già gằn giọng, nhưng ngón tay cầm giáo lại mổ mổ về phía sau. Chàng Hai lấy làm lạ, nhìn đám trai tráng và phát hiện ra trong đó có một người cũng cởi trần đóng khố nhưng lại dóc tóc đuôi sam. Lập tức chàng đặt tay lên chuôi kiếm, nhướn mình lên lưng ngựa nói to:
- Bức bách ta quá thì chớ trách lòng ta bất nhẫn!
Cụ già cũng quát to:
- Một trăm con dê yếu có thể húc chết con hổ mạnh, mi chớ ngông cuồng.
Chàng Hai để ý thấy mắt và ngón tay cụ già đều đưa về phía cuối thung lũng, theo hướng Đông Nam. Khi cụ già vẫy trai tráng xô lên, anh liền giật ngựa nhằm hướng Đông Nam phóng như bay. Cụ già hò hét đuổi theo, nhưng chân người sao đuổi kịp chân ngựa.
Ngựa chạy được khoảng vài chục dặm, chàng Hai dừng ngựa nghỉ ngơi ăn uống. Chừng nửa giờ, anh lên ngựa tiếp tục lên đường. Ngựa đang chạy nước kiệu thì gặp toán lính Ngô, khoảng vài chục đứa, do một tên cưỡi ngựa dẫn đầu từ phía trước tiến lại. Thằng cưỡi ngựa vỗ ngựa phi vụt lên, vừa hoa tít hai thanh đoản đao sáng nhoáng vừa quát:
- Thằng mặc áo da hổ đây rồi!
Chàng Hai rút kiếm sấn tới:
- Oan gia gặp oan gia!
Tướng giặc thúc ngựa xông lên, tay chém chéo, tay đâm thẳng. Nó chưa biết thủ đoạn của chàng dũng sĩ. Chàng Hai nghiêng mình tránh miếng đao đâm đồng thời phạt chéo một kiếm, xả tên tướng giặc làm hai đoạn. Anh quát to một tiếng vung kiếm xông vào lũ lính bộ vừa phạt phải, chém trái vừa thúc ngựa chạy. Bọn Ngô sống sót khiếp quá, không dám bắn đuổi theo, sợ “hung thần” nổi giận mà quay lại.
Chàng Hai ung dung dong ruổi trên con đường mòn giữa thung lũng, hai bên rừng rậm. Buổi chiều đó anh gặp ba toán Ngô chặn đường. Bọn nào cũng bị chàng Hai cho biết thủ đoạn. Chúng sợ giáp mặt chàng dũng sĩ đến nỗi toán thứ tư vừa thoáng thấy bóng chàng Hai đã hốt hoảng la to: “Thằng mặc áo da hổ đấy” rồi tháo chạy hết.
Trời trạng vạng tối, chàng Hai phi ngựa ra tới bờ sông, đang tìm đò sang ngang lại gặp toán kỵ binh. Tên tướng giặc giơ cao phương kích thúc ngựa tiến lại gần. Chàng Hai gầm to một tiếng, tay rút kiếm đánh vèo. Chưa kịp chớp mắt đầu tướng giặc đã lìa khỏi cổ. Bọn kỵ binh cả sợ phóng ngựa tháo chạy. Chàng Hai đi tiếp, chưa được nửa dặm, chợt có người từ trong rừng bước ra, dang rộng hai tay chăn đường. Đó là một cụ già mặc áo tứ thân, quần lửng. Cụ nói bằng giọng Lạc Việt hết sức đầm ấm:
- Con ơi, nếu con nhìn ta thấy đáng tin thì hãy xuống ngựa.
Chàng Hai nhảy xuống ngựa, bước lại trước người chặn đường, từ tốn hỏi:
- Lão bá có điều chi muốn dạy bảo?
Cụ già mời chàng Hai vào ngôi nhà ẩn sau hàng cây xanh tốt. Nhà sơ sài, chỉ thấy chài lưới và cung tên. Chàng Hai vừa ngồi yên vị thì một thiếu niên chừng mười bốn mười lăm tuổi từ ngoài bước vào, chắp tay vái chào, tiếp đến một cô gái nữa vụt vào theo, cô cúi dầu chào, rồi nhìn khách chằm chằm.
Cụ già lên tiếng:
- Con lão đấy! Ới Minh Châu, soạn cơm cho cha và khách, hây? - Nói với con rồi, cụ già quay sang nói luôn với khách - Mấy bữa nay vùng này nhốn nháo, bọn Ngô muốn cày xới tất cả lên để tìm bắt một người như thế... như thế. Vùng này mà vậy, vùng khác chắc cũng vậy. Con không thể thoát nổi lóp lớp đăng vây - Cụ chỉ hai con nói - Hai chị em nó rông suốt ngày ngoài đường đón xem có gặp anh đi qua đây không. Chúng nó cũng lo cho anh - Cụ ngừng lời giây lát như để cân nhắc rồi nói tiếp - Đi sao cho thoát để như con ong tìm về tổ, cái kiến tìm về đàn.
Nghĩ ngợi giây lát, chàng Hai đáp:
- Con xin vâng theo lời cụ!
Cụ già vào trong buồng lấy tấm áo tứ thân phảng phất mùi mốc đưa cho chàng Hai, giục anh thay áo ngay. Chàng Hai vừa mặc vừa quan sát chiếc áo. Đó là tấm áo màu nâu may kiểu bình thường nhưng bằng thứ hàng lạ, vải không ra vải, da thú không ra da thú. Ngắm khách mặc vừa vặn chiếc áo, cụ già gật gù.
- Lão mặc thì độn thêm bốn cái giỏ vào trong cũng vẫn rộng thùng thình. Có lẽ ông Trời run rủi nên lão mới nhặt được chiếc áo này trên mô đá trong rừng để chờ con đến trả. Bạn lão gọi đùa nó là “Trấn quái bảo y”. Có lẽ đúng chăng!
Minh Châu bưng cơm lên. Cụ già đỡ mâm cơm đặt lên trên chiếc bàn bằng đất, miệng hối con trai gói ghém tư trang của khách cho vào tay nải.
Ăn xong, cụ giục chàng Hai ra đò. Cả hai cha con cụ cũng vác bơi chèo đi theo. Sang bờ bên kia. Khi biết chàng Hai vào Cửu Chân, cụ dặn dò:
- Hùng khí Cửu Chân vượng lắm. Con vào đó là phải! Một ngày rưỡi đường thong thả là ra tới bờ biển. Dọc đường con phải giữ gìn cẩn thận.
Minh Châu nhân lúc đêm tối, tìm tay Hổ Bì tráng sĩ mà cầm, cô thì thầm:
- Chàng Hai! Hỡi chàng Hai!
Cô chỉ nói thế rồi thôi. Sau này. Minh Châu cũng vào Cửu Chân và là nữ Đô tướng đầu lĩnh dưới trướng Bà Triệu. Chàng Hai cảm ơn cha con cụ già đoạn đi ngay.
Hôm sau, vào lúc trời xế chiều, chàng Hai ra tới bãi biển. Có lẽ đấy là nơi mò ngọc trai, vì trai chết, vỡ từng đống, từng đống bừa bộn khắp nơi và dưới vụng chốc chốc lại có một người nhô đầu lên. Anh vào gian lều dựng giữa hốc đá, trông xê xế ra vụng biển cạn, hỏi thăm thuyền đánh cá dọc bờ biển.
Chủ lều đã già lắm, đầu vụt xuống vai, ngực nhỏ ra, mặt nhăn nhúm như miếng da bị véo, chân tay nghều ngoào như chân nhện. Hỏi ra mới biết, chủ lều mới ngoài bốn mươi tuổi. Bọn Ngô đã mang hai mươi nhăm năm tuổi trẻ của ông ném xuống biển để đổi lấy ngọc trai. Cuộc đời nổi chìm trên mặt biển biến ông ta thành con người tàn tạ. Hai năm nay ông được nghỉ lặn, chuyển sang chân chọn lọc, vì đã đoản hơi và vì đã có anh con trai mười lăm tuổi thế chân ông.
Cái nghề mò ngọc trai khốn khổ không thể làm liên tục cả ngày, mò một giờ phải nghỉ hai giờ mới đủ thời gian lấy lại hơi, và có như thế mới làm việc lâu dài được. Nhưng, bọn Ngô chỉ chú ý săn sóc đến số lượng ngọc trai thu được trong ngày đã đủ chưa. Chưa đủ, mò tiếp bất kể giờ giấc nào. Ai chết vì ở dưới nước quá lâu, bắt người khác đến thay cho đủ số. “Thọ hay chết yểu là do số trời định”. Người nào phàn nàn, chúng không đâm chém hay đánh chửi thì giải thích như thế.
Chuyến này, sắp tới kỳ hạn nộp cống phẩm về Kiến Nghiệp mà số lượng ngọc trai vẫn thiếu nên mấy hôm nay, bọn chủ quan ốp người lặn mò từ sáng sớm đến quá chiều vẫn chưa cho nghỉ. Ai mò được ít thì không được nghỉ ăn cơm nữa kia.
Chàng Hai thở dài, không muốn nghe tiếp chuyện đau lòng ấy nữa, anh hỏi thăm thuyền.
- Ôi chao! - Người mò ngọc trai về già kêu lên - Ông ơi, càng ngày càng khó thở... Trước kia, ngày nào chẳng có thuyền đánh cá vào hướng Nam hoặc ra khơi. Hai tháng nay, chúng cấm tiệt, chỉ người nào chịu dóc tóc, cạo răng ăn ở theo phung tục Ngô mới được dong thuyền đi biển đánh cá. Hừ... - Con người bất hạnh toan buột ra lời gì đó thâm tệ lắm nhưng kìm lại ngay và cố nén giọng mình khi nói tiếp - Buồm cuốn, thuyền mặc cho hà ăn, chài lưới ném xó, dân chài bỏ đi hết.
Chàng Hai thất vọng và buồn hơn người mò trai khốn khổ kia. Anh đưa mắt nhìn ra biển. Biển nuốt chủng tầm mắt anh. Biến gầm gào ở phía xa, đẩy về đây thứ âm thanh ầm ì rất nặng nề. Anh tự nhủ: “Ta nói với mẹ ta rằng: “Con vào Cửu Chân” vậy thì ta phải vào Cửu Chân. Cửu Chân là đất hiểm”.
Chàng Hai ra khỏi lều, lững thững bước về phía bãi lọc trai, ở bên kia trái núi đá thấp.
Trên bãi rất đông người cắm cúi làm việc, đầu người nào cũng trọc lốc, chỉ đeo mỗi một dải khố nhỏ, mình xăm các hình thù quái dị, da dẻ thẫm hơn cả màu hồng hun. Bọn thuỷ quan Ngô ăn mặc giống nhau, lưng thằng nào cũng lắc lư thanh trường kiếm, tay ngoay ngoáy cây roi song. Cứ mỗi tốp hai mươi nhăm người phu lại có một thằng thuỷ quan Ngô trông coi. Bọn thuỷ quan lăng xăng như con lật đật, dồ đến chỗ này quất roi xuống tay người phu này sấn tới chỗ kia dội những lời bẩn thỉu xuống tai người kia. Một tên thuỷ quan, có lẽ là chỉ huy công trường mò trai, vì chỉ có hắn khoác chéo vai một dải thao xanh, hắn ngắm hình dáng cao lớn của chàng Hai, khoát tay một vòng, hỏi:
- Ngày mai mày đến làm việc với bọn ấy chứ? - Thấy chàng Hai trả lời bằng cái lắc đầu, hắn cau mày nhưng cố nén giọng nói tiếp - Mày ngu lắm, làm việc cho chúng tao thì có cơm ăn có rượu uống, chẳng sướng hơn làm thằng man di lưu tán à?
Chàng Hai vẫn không đáp. Anh chỉ làn roi ngang dọc trên lưng người phu vừa bê sọt trai đi qua.
Tên thuỷ quan Ngô quạu mặt, tròn ve mắt toan làm dữ thì chợt có tiếng nhạc ngựa vọng tới.
Đốc bộ thuỷ quan cưỡi ngựa đến kiểm tra cống phẩm, sáu tên lính cưỡi ngựa đeo gươm theo sau hộ vệ. Hắn nhảy xuống ngựa, trao dây cương cho tên lính hầu rồi khệnh khạng đi đi lại lại đợi tên chỉ huy công công trường lon ton chạy đến. Thằng đốc bộ khá cao lớn, lông mày rậm, miệng rộng và khổ trán đã thấp lại gồ ghề khiến hắn có vẻ là tên đao phủ hung tợn hơn là dáng một tên quan trông coi ngạch hải sản.
- Thế nào? - Hắn quát.
Tên chỉ huy công trường cúi rạp xuống chào, chưa kịp ngẩng lên đã bị lời nói ấy vít cổ xuống. Hắn cố tỏ ra cung kính, khúm núm sợ sệt quan trên, nhưng thực tình hắn rất láu cá. Hắn đã biển thủ phần lớn số ngọc trai mò được giao cho vợ tải về Luy Lâu bán cho khách buôn từ Kiến Nghiệp sang cách đây hai tuần rồi. Bây giờ đến hạn nộp sản phẩm thì chu biện chưa đủ. Hắn viện khó khăn để trốn tránh trách nhiệm:
- Bẩm ngài, chiều qua lại thêm hai thằng chết ngạt dưới đáy biển, hôm nay, vẫn chưa thấy xác nổi lên.
Viên đốc bộ nghe vậy biết ngay là số lượng ngọc trai cống phẩm còn thiếu. Hắn không dám làm quá, vì hắn được viên chỉ huy công trường biếu xén khá hậu và bản thân hắn cũng có chấm mút vào số ngọc trai do công trường nộp lên.
Hắn đi đảo quanh bãi lọc trai, mắt quan sát ước lượng, óc tính toán, miệng hầm hừ chẳng ra giận dữ hay lo lắng. Cuối cùng hắn nghiêm mặt bảo viên chỉ huy công trường:
- Chết mặc chết! Chết thì lấy đứa khác thay. Phải làm gấp. Làm ăn thế này thì mất đầu cả lũ. Hôm qua, quan Thứ sử sai thông hiệu xuống bảo tôi: “Đốc bộ định đón đoàn ngựa thồ hay đón toán võ sĩ, cho biết”. Ta không đợi được lâu nữa đâu.
- Vâng, vâng... - Viên chỉ huy công trường xoa xoa tay - Xin ngài gia hạn...
- Gia cái nỗi gì! - Tên đốc bộ quát ầm lên.
Hắn chưa kịp có hành động giận dữ tiếp theo thì phía biển có tiếng ồn ào.
Hai người phu khiêng một người từ dưới bờ biển thấp, trèo quá đoạn dốc đá thoai thoải, đi lên đặt giữa bãi lọc trai. Hình như cảnh này xảy ra thường xuyên như cơm bữa, nên những người phu chỉ nghển cổ trông theo rồi lại cúi xuống làm việc.
Tên đốc bộ bước lại gần người bị nạn. Viên chỉ huy công trường và toán lính hộ vệ lóc cóc đi theo.
Mặt nạn nhân nhợt nhạt, máu rỉ ra khoé mồm, mũi, bụng phình to như bụng cóc. Có lẽ nạn nhân chưa chết vì miệng còn ngáp một cái như cá đớp không khí.
Chàng Hai thấy bọn Ngô thản nhiên nhìn nạn nhân, không có ý cứu chữa ngay, anh giục:
- Có cơ cứu sống!
Tên đốc bộ đá bốp vào bụng nạn nhân khiến nạn nhân lăn mấy vòng, nước và máu ộc ra đằng miệng.
- Đem chôn!
Chàng Hai cố nén giọng:
- Con thú dữ không thèm ăn loại mồi ôi, ông là một vị quan sao nỡ đánh một kẻ hấp hối.
Tên đốc bộ chẳng nói chẳng rằng, giật luôn chiếc roi song trong tay thằng thuỷ quan đứng bên cạnh vụt xuống đầu chàng Hai.
Chàng dũng sĩ gầm lên, cúi xuống tóm hai cổ chân thằng đốc bộ giơ lên cao, giọng nói như sấm dậy:
- Mi dám khinh miệt ta hả?
Miệng nói, tay xé tên đốc bộ làm hai mảnh quật ập vào người tên chỉ huy công trường, khiến gã này rụi xuống, anh rút luôn thanh kiếm ở lưng hắn lùi một bước, trùng mắt nhìn bọn lính và thuỷ quan.
- Đến lượt chúng mày!
Bọn lính chưa kịp định thần đã bị chàng dũng sĩ chém chết hết. Bọn thuỷ quan không dám chống cự, bỏ chạy toán loạn. Chạy cũng không tha. Tới lúc không thấy bóng dáng nhơ bẩn của thằng Ngô nào ở trên bãi, anh mới nhảy lên lung con ngựa của thằng đốc bộ, nói với những người mò trai:
- Anh em bỏ về quê quán mà làm ăn hay vào rừng kiếm củ mài cái ráy mà sống, thà chết đói trong xó từng Lạc Việt còn hơn chịu cảnh tủi nhục thế này.
Nói đoạn, anh giật ngựa đi theo con đường mà tên đốc bộ vừa đi tới, rồi rẽ vào rừng. Mấy ngày liền, gặp rừng thì băng qua, gặp sông thì vượt, gặp truy binh thì đánh, lòng chàng dũng sĩ chẳng bận tâm mảy may về trở ngại dọc đường mà chỉ âu sầu, lo sợ về nỗi chưa thực hiện được điều ước ao của mẹ. Anh tự nhủ: “Con không dám về gặp mẹ đâu. Con chỉ nhờ người đưa tin cho mẹ biết khi con đã vào tới Cửu Chân như lòng mẹ mong muốn”.
4.
An biên nữ hiệp
Một buổi chiều, chàng Hai đi vào khu rừng thuộc vùng Tây Vu, bất chợt trông thấy một người đàn bà đứng dưới gốc cây lan thơm lừng tay cầm bông hoa. Có lẽ bà ta cũng là khách bộ hành, dừng chân bên đường rùng vắng để thưởng thức hương hoa. Anh thản nhiên cho ngựa đi qua.
- Hỡi chàng cưỡi ngựa!
Nghe người đàn bà lên tiếng gọi, anh giật ngựa quay lại, hỏi:
- Bà gọi tôi chăng?
Người đàn bà giắt bông hoa lên mái tóc, chăm chú nhìn chàng kỵ sĩ rồi lúc lắc đầu ra dáng khó hiểu.
- Trai Lạc Việt không khi nào ngồi nghễu nghện trên lưng ngựa để tiếp chuyện một người hơn tuổi mình.
Chàng Hai lấy làm lạ, nhảy xuống đất, dắt ngựa bước lại gần.
Người đàn bà nhìn chăm chú hơn nữa, đột ngột bà ta khoanh tay trước ngực, nói như nói với chính mình:
- Nếu trời còn cho đôi mắt tôi tinh tường như tôi vẫn cảm thấy thì, Hổ Bì tráng sĩ đã xuất hiện trước mắt tôi.
Chàng Hai hơi ngả người về phái sau, hơi nghển cổ nhìn chiếc áo tứ thân màu vỏ già đang mặc và cất tiếng oang oang:
- Người Lạc Việt không nói dối người Lạc Việt, sao bà biết tôi, bà là ai?
Người đàn bà vui mừng ra mặt:
- Khắp vùng này ai mà chẳng biết tiếng chàng dũng sĩ Lạc Việt làm nên sự tích hiển hách ở Luy Lâu và những sự tích tiếp sau đó, nhưng biết mặt có lẽ chỉ có một mình tôi; bởi vì, tôi đi qua Luy Lâu đúng ngày náo động ấy. Còn tôi hồi trẻ, cha mẹ thương yêu nên gọi là nàng Hoa, bây giờ bạn bè hay người quen biết gọi là Hoa Nương... Và, tôi muốn Hổ Bì tráng sĩ gọi mình là chị Hoa.
Chàng Hai ném dây cương lên cổ ngựa, nhướn mày nhìn người đàn bà lạ. Quả là, chỉ có người Lạc việt hồn hậu mới có lối đòi hỏi thân tình và thẳng thắn như vậy.
- Bà đã biết tôi! Tôi muốn biết rõ về bà!
*
Nàng Hoa thuộc dòng dõi Lạc tướng, quê ở gần miền Luy Lâu; càng lớn cô càng trở nên xinh đẹp và có những biểu hiện hơn người.
Cha nàng Hoa tìm thày giỏi rèn luyện con theo chí hướng mà con muốn đi theo.
Sau nhiều năm miệt mài khổ luyện, nàng Hoa trở thành cô gái giỏi đàn ca, tinh thông võ nghệ. Đặc biệt nàng Hoa có một sức khoẻ ít người sánh kịp. Ngay các chàng trai giỏi giang nhất miền Quế Võ cương cường cũng không dám xem thường. Nhưng sống trong ách đô hộ tàn bạo của giặc Ngô, người càng nhiều tài hoa càng lắm tai ách.
Tên thái thú quận Giao Chỉ là một lão già xảo quyệt nó rắp tâm chiếm đoạt nàng Hoa làm tỳ thiếp để thoả mãn nhục dục và để trừ mầm mống mối lo sau này.
Cha con nàng Hoa đều kiên quyết cự tuyệt vì nàng Hoa đã đính hôn cùng với người con trai thuộc dòng dõi Lạc tướng miền quê Quế Võ. Đám cưới nối thành Luy Lâu thuỷ chung với miền Quế Võ cương cường gấp rút tiến hành.
Đúng ngày nàng Hoa mặc yếm thắm, nằm võng đào theo ông già bà cả về nhà chồng thì tên thái thú xảo quyệt cho hai chục quân kỵ đuổi theo chặn bắt.
Chú rể, cô dâu trở thành chiến sĩ, mỗi người một đòn khiêng võng, họ tung hoành trong đám kỵ binh Ngô. Mặc dù, đôi vợ chồng nàng đều là tay dũng mãnh và sử dụng thành thạo cây gậy là thứ vũ khí đáng sợ đối với kỵ binh, nhưng họ khó có thể chống cự lâu dài với số đông quân kỵ có vũ khí sắc nhọn để bảo vệ những người tay không đi phù rể đón dâu. Chú rể bị nhiều vết thương nặng; tình thế rất là nguy nhập. May sao, trai làm đồng, gái đi chợ vốn căm ghét quân Ngô, lại bất bình về cảnh bạo ngược liền cầm cày, cuốc, đòn gánh xúm vào đánh giúp đôi vợ chồng trẻ. Chiến trận loang ra khắp vạt bãi ven sông Hồng, Tiếng ngựa hí, người reo ầm vang. Gần hết quân Ngô ngã ngựa, hai tên còn lại hốt hoảng tháo chạy.
Nàng Hoa địu chồng trên lưng, cưỡi con ngựa hồng lấy được của giặc, lạy chào mọi người, rồi một mình một ngựa đưa chồng về miền Quế Võ xa xôi. Nàng Hoa về tới nhà chồng thì chồng đã chết.
Tin dữ đồn đến, cha nàng Hoa bị giặc sát hại và tốp kỵ binh đang tiến về đây để bắt nàng Hoa. Thái Nam, em chồng nàng Hoa xin cha chuẩn bị đối phó. Nhưng, cha mẹ khuyên không nên manh động. Con chim ra ràng hãy cứ tập chuyền cành đã, chớ vội cất cánh. Thái Nam là bậc tuấn kiệt thức thời nên khuyên chị dâu ra đất lập nghiệp của nữ tướng Lê Chân.
Nàng Hoa lánh ra miền Đông, nơi ngày đêm sóng biển vỗ ầm ào và gió ngàn thổi vi vu. Nợ nước đã nặng, thù nhà lại sâu, nàng Hoa chiêu tụ được ngót một trăm bạn gái, trai; ngày chài lưới, săn bắn kiếm ăn, đêm luyện rèn cung kiếm đợi thời, rắp theo chí hướng của nàng Lê Chân xưa.
Đến năm đã hơn mười năm. Gần đây, nghe huyên truyền nhiều chuyện lạ xuất hiện ở miền Cửu Chân và vùng bán sơn địa Phong Châu. Hoa Nương giao việc cho bạn ở nhà rồi đi thăm thú các nơi, nghe ngóng tình hình.
Bà tới Tây Vu ngày hôm qua, nghe Vu Lang là bậc ẩn sĩ có uy tín ở vùng này, bà ghé vào thăm và đang là khách quý của họ Vu.
*
Chàng Hai hớn hở:
- Em được nghe danh tiếng chị từ lâu! Một vị hào trưởng vùng đó vào thăm cha em đã nắc nỏm khen chị không tiếc lời.
Hoa Nương hừ một tiếng có vẻ không hài lòng.
- Cái thứ danh vọng hão huyền ích gì, có khi còn mang hoạ - Bà đứng dậy nói - Trời tối rồi có đi cũng chẳng được mấy đường, ta cùng vào nhà họ Vu đi!
Vu Lang đón tiếp khách hào kiệt rất niềm nở, mở tiệc chiêu đãi thịnh soạn, tới khuya mới tàn. Sáng hôm sau, Vu Lang lại mở tiệc chiêu đãi thịnh soạn, cung kính gấp mười lần tối qua. Nhân lúc Hoa Nương vắng mặt, Vu Lang tỉ tê hỏi thân thế Chàng Hai.
Chàng Hai hồ hởi đáp:
- Người Lạc Việt cởi mở tấm lòng với người Lạc Việt là điều cha ông chúng ta thường dạy bảo con cháu.
Tiếp đó, anh thực tình nói chuyện mình.
Vu Lang lật đật đứng dậy, chắp tay vái dài năm vái, rất cung kính:
- Tôi đã nghe danh Hổ Bì tráng sĩ như sấm động bên tai, nay được thấy mặt thật thoả lòng mong ước. Thực không ngờ, mái nhà tranh nát mà được khách quý tới thăm.
Hổ Bì tráng sĩ nghiêm mặt đáp:
- Tôi nghe bậc trí giả không dùng lộng ngôn sáo ngữ. Ngu hạ mong được nghe lời chỉ bảo chân tình.
Gã ẩn sĩ giả danh chắp tay vái lời nói phải. Gã nhanh chóng sắp đặt mưu toan.
- Tôi có lời tâm huyết muốn thưa chuyện với tráng sĩ - Vu Lang nói, sau khi đã biết chắc chắn người nói chuyện với mình là chàng “Tráng sĩ mặc áo da hổ” - Cách đây mươi hôm, ông thái thú bạn tôi rỉ tai: Ngài thứ sử đang có ý lập riêng một mảnh sơn hà nên ra sức chiêu dụ các bậc anh hùng hào kiệt. Ngài rất ngưỡng mộ tài lực của tráng sĩ, ngài bảo ông thái thú bạn tôi: “Có người ấy phù tá việc lớn của ta ắt thành”. Ông thái thú bạn tôi thưa: “Hắn giết hại nhiều người Ngô ta quá rồi”. Ngài thứ sử đáp: “Hề gì. Mấy chục năm trước, Quan Vân Trường vượt năm cửa ải, chém sáu viên thượng tướng của Tào thừa tướng, họ Tào không những không giận mà còn kính trọng hơn”. Vậy, chuyện là như thế. Nếu tráng sĩ chê tôi danh hèn sức mọn, tôi xin lấy thêm tính mạng, tài sản của cả miền Tây Vu để bảo cử tráng sĩ.
Chàng dũng sĩ sầm mặt, đáp:
- Con đại bàng đã rời núi, con đại bàng chỉ bay ngược chiều bão táp.
Vu Lang chắp tay xá một xá:
- Tráng sĩ có chí ấy, quả thực là chí cả của dòng Lạc Việt ta. Vậy, tráng sĩ chê lòng tôi quá hẹp không đủ dung tình thì cứ lưu lại vài hôm cho tôi được thoả ước ao rồi đi cũng chẳng muộn.
Chàng Hai ngay thật vui vẻ nhận lời.
Vu Lang ngầm sai người đi báo quan sở tại cho quân đến bắt, đồng thời dẫn khách đi giới thiệu cảnh đẹp của quê hương mình, kiếm cớ kéo dài thời gian cho khách khỏi sinh nghi.
Trên đường trở về nhà Vu Lang, chàng Hai chợt nghe tiếng ngựa hí rền vang, chứng tỏ con ngựa rất khoẻ, anh ngỏ ý muốn vào xem tàu ngựa. Chủ nhà mừng rỡ được làm vui lòng khách quý.
Con ngựa vừa hí quả là con ngựa hay. Nó cao lớn, sắc đen mịn, ngực nở, bụng thót, mông đầy chân thon, bờm xoã xuống như bờm ngựa thần người ta thường vẽ để thờ. Vu Lang mua con ngựa này của khách buôn từ phương Bắc với giá một ngàn nén bạc, định bụng biếu thứ sử để làm quen.
Chàng Hai khen con ngựa không tiếc lời, đến tối ngồi ăn uống với Vu Lang anh vẫn nắc nỏm nhắc đến cái hay của con ngựa. Biết sở thích của chàng dũng sĩ, gã mời anh sang phòng trưng bày các loại vũ khí quý hiếm. Quả là nhiều thần đao, báu kiếm. Chàng Hai chỉ khối đồng hình chày đặt trang trọng trên phiến đá lớn kê giũa phòng hỏi chủ nhân tên và lai lịch của thứ vũ khí đó. Vu Lang đáp:
- Kẻ ngu phu này quả không biết! Nó là vũ khí gia bảo của tiền nhân truyền lại, gọi là Tây Vu bảo khí. Vật nặng này phải mười lực sĩ mới vần khỏi chỗ.
Chàng Hai cầm lên, ướm thử thấy nó nặng hơn cây chuỳ đồng của mình. Anh đặt trả về chỗ. Tây Vu ẩn sĩ chết lặng khi thực mắt chứng kiến sức mạnh dị kỳ của chàng dũng sĩ.
Trở về phòng riêng, nằm trên giường, chàng dũng sĩ bị dáng vóc hùng mạnh của con ngựa ô phi qua đầu mình, và cái chày đồng quay vù vù trước mắt. Âu cũng là cơ duyên.
Đúng lúc ấy, Hoa Nương lách cửa bước vào. Chàng Hai nhổm dậy, Hoa Nương ra hiệu chớ làm kinh động đoạn thì thầm kể cho chàng Hai biết lòng dạ hiểm độc của Vu Lang mà một nữ tỳ trong nhà họ Vu vừa ngầm báo cho bà biết. Chàng Hai bảo:
- Hãy giao cho em xử việc này. Chị ra gốc cây lan ngoài rừng đợi em.
Chờ Hoa Nương đi khuất, chàng Hai sang phòng Vu Lang đạp đổ cửa bước vào, anh tóm tóc nhấc bổng hắn đặt dựng đứng giữa phòng, quát như sấm:
- Bụng mày chứa toàn nọc độc. Ta không thèm giết kẻ tay không - Anh trỏ thanh kiếm treo ở vách bảo - Cầm lấy kiếm!
Vu Lang biết âm mưu bại lộ, mặt cắt không ra nổi hột máu, chân tay run rẩy lập cập, tuy vậy hắn vẫn lẻo lưỡi:
- Ngu phu biết quan thứ sử thực lòng ngưỡng mộ tráng sĩ nén tìm cách lưu tráng sĩ lại để ngài trọng dụng đấy thôi, thực không có ác ý.
- Không nhiều lời! Nếu mày chậm tay cầm kiếm, ta xé làm hai mảnh ngay lập tức.
Vu Lang là người có võ công, nhưng so với Hồ Bì tráng sĩ thì chẳng khác gì trứng chọi với đá tảng, biết vậy hắn phục xuống đất lạy van:
- Ngu phu thực có tội to. Nếu tráng sĩ quyết giết, ngu phu đành cúi đầu xuống dưới chân tráng sĩ chịu chết để chứng tỏ ngu phu thực tình ăn năn hối lỗi chứ không dám chống lại. Nhưng, hiện nay tráng sĩ đang chạy trốn, ngu phu biết kẻ dũng sĩ chạy trốn cần cái gì, vậy ngu phu xin dâng tráng sĩ con Hắc long câu, cây Tây Vu bảo khí và một nghìn đĩnh bạc để chuộc lại cái mạng hèn này. Đánh kẻ ra gan chứ không ai nỡ đánh người đã hối lỗi, xin tráng sĩ dung tha.
Chàng Hai mới bước vào đời nên chưa hiểu một thằng Lạc Việt gian manh nguy hiểm gấp mười lần thằng Ngô xảo quyệt, bởi vậy anh thường nới bàn tay trừng phạt đối với người Lạc Việt phản bội, vả lại, anh đang muốn có Hắc long câu và Tây Vu bảo khí, nên đồng ý cho hắn chuộc tội. Chàng dũng sĩ cầm chày đồng, xoè tay phảy mạnh một cái rồi đi ra ngoài. Họ Vu ôm đầu gục xuống đất, hắn cảm thấy có một áp lực ghê gớm đập vào thiên đỉnh ấn hắn ngã vật. Hắn mừng thầm, may mà không chống lại.
Chàng Hai cưỡi ngựa, đeo gươm cầm chày đồng đi ngay đêm ấy. Anh gặp Hoa Nương đợi dưới gốc cây ngọc lan. Anh nhảy xuống đất, nói:
- Em không ngờ nó là hạng chó má.
Hoa Nương trò chuyện một lúc rồi giục chia tay, bà nói:
- Em đi thì chi cũng đi thôi. Sau này ắt có phen gặp nhau.
*
Hồ Bì tráng sĩ cho ngựa bước thong thả trên con đường rừng giữa đêm khuya. Trời sáng, anh cho ngựa phi nước kiệu. Khi ánh mặt trời le lói xuyên qua tán là xuống ngã ba Thậm Thụt, thì chàng dũng sĩ cũng tới đây. Anh dừng ngựa trước Nghinh Tân Đình. Chẳng khác gì ma đưa lối, quỷ dẫn đường, anh xuống ngựa. Một hầu gái tươi vui bước tới đỡ dây cương, ngoặc vào mấu sắt gắn liền với Kình thiên trụ và duyên dáng mời khách lên lầu.
Vu Lệ Nương quần áo thướt tha, phấn son rực rỡ, yểu điệu lướt ra đón khách. Nhìn thân dáng, phong cách của khách, ả đoán là người khác thường liền nhoẻn miệng cười:
- Đội ơn tráng sĩ chiếu cố!
Hồ Bì tráng sĩ ngồi xuống ghế, dựa cây chày đồng cạnh tường nói:
- Cô nương cho nhiều rượu, nhiều thịt, nhiều cơm! Ta cần ăn gấp để lên đường.
Vũ nữ nhìn cây chày đồng gia bảo của họ Vu, chợt thấy lòng rung động. Đúng là Hổ Bì tráng sĩ rồi. Trên đời này chỉ có hắn mới đủ thần lực cầm nổi Tây Vu bảo khí. Vu huynh ngộ nạn rồi chăng? Ả là tay quỷ quyệt, nghi vấn mà không hỏi, e gã khổng lồ biết tình ý và quan hệ, ả làm bộ xăng xái:
- Nếu quý khách cần lên đường gấp, tiện nữ xuống đôn đốc đầu bếp làm món ăn nhanh.
Nói rồi, ả đi vào nhà trong, vừa bước vừa lớn tiếng gọi hầu phòng chuẩn bị các thứ phục vụ khách, còn ả thì rẽ vào dãy nhà nửa chìm nửa nổi bên sườn núi. Trấn Ba Lâm Thảo, Giang đông nhất kiệt Ân Bá Thiên, Tòng vân kiếm khách Tào Hiển Điện va Xuyên son tiềm khách Đan Tốc đang ngồi trong đó bàn mưu tính kế thu phục Hổ Bì tráng sĩ và hỗ trợ Thái Cát xúc tiến kế hoạch “bạng duật tương tranh, ngư ông đắc lợi”.
- Hổ Bì tráng sĩ ở phòng ăn!
Bốn quý khách xô ghế đứng dậy cùng loạt. Lâm Thảo bảo Đan Tốc ra xem rồi hỏi Vu nữ:
- Sao Vu muội biết?
- Gã cầm cây chày đồng gia bảo của họ Vu và cưỡi con Hắc long câu của Vu huynh. Ớ đời này, chỉ có gã mới đủ sức làm việc đó.
Đan Tốc lướt vào báo:
- Đúng gã! Quả là trời mang đến cho Vu muội một dịp lập công!
Vu Lệ Nương tỏ ý chưa hiểu. Lâm Thảo giải thích:
- Thần lực và võ nghệ của gã có thể chống nổi một đạo quân. Xuất toàn lực năm anh em ta cũng không chắc thắng gã. Nhưng, chỉ cần Vu muội trổ vài tài mọn là gã sẽ biến thành cái thân hình kềnh càng bất lực.
- Gã này thần lực khác thường, tiện muội phải cho chập ba liều làm một. Lâm huynh muốn “tươi” hay “héo”?
Lâm Thảo đáp:
- Chẳng lẽ quan binh và chúng ta tốn bao nhân mạng và công sức chỉ nhận cái xác “héo” để chôn hay sao. Chúng ta cần tươi nguyên để hiến minh công thứ sử. Minh chủ ái mộ kẻ này. Minh chủ có hắn phò tá, việc lớn ắt thành.
Vu nữ quái pha vào rượu một lượng thuốc mê đủ quật đổ cả trăm người rồi tự tay bưng lên tiếp chàng Hai.
Chàng dũng sĩ đang ăn như rồng cuốn, hổ táp, thấy chủ quán bưng rượu đặt ở bàn liền hỏi:
- Rượu gì? Ta nghe cha ta bảo chốn giang hồ mới nảy sinh hắc quán, thường dùng rượu mê thuốc độc hại khách anh hùng. Chẳng lẽ một mỹ nhân như chủ quán mà nỡ dùng độc dược hại kẻ dũng sĩ.
Vu nữ quái lúng liếng mắt và nở nụ cười tươi như hoa, đáp:
- Gái đẹp chuốc rượu mê đáy, tráng sĩ dám uống không?
Hổ Bì tráng sĩ bưng bát rượu đứng dậy, nói lời khảng khái:
- Con người ta sống chết có số. Bậc dũng sĩ không thể chết bởi thủ đoạn tầm thường. Mỹ nhân có lòng ái mộ thì dẫu là rượu thuốc độc ta cũng uống để đáp lại thịnh tình.
Chàng Hai làm một hơi cạn bát rượu, dằn bát trên mặt bàn rồi ngồi xuống ghế, xua tay bảo:
- Mỹ nhân lấy thêm ngỗng hầm, gà quay tiếp ta đi!
Nữ quái cúi đầu nhoẻn cười, đứng dậy thướt tha bước ra nhà sau như để thực hiện lời sai bảo của khách.
Bốn tên ma quái nấp trong nhà hé mắt nhìn qua vách thấy chàng Hai ăn uống như thường, không có biểu hiện ngộ độc. Lâm Thảo kéo tay Vu nữ bảo nhỏ:
- Thằng này thần lực vô biên, nội công hùng hậu, thuốc mê chẳng bõ gì với hắn. Đành phải hạ độc thủ! Vu muội dùng thang thuốc “héo” đi kẻo hắn chuồn mất.
Nữ quái liền pha ngay một liều thuốc độc cực mạnh, khoẻ như trâu mà hít phải hơi cũng lăn quay ra chết tức khắc, ả bưng lên đặt trước mặt chàng Hai, tay quàng cổ, miệng nhoẻn cười:
- Tiện muội đã dâng “mê hồn tửu” để người anh hùng thưởng thức. Nay tiểu muội dâng tiếp “đoạt mệnh thần dược tửu” để thử thần lực của bậc dũng sĩ.
- Khá lắm! - Chàng Hai đứng lên, miệng khen tay bưng bát rượu uống cạn liền.
Lâm Thảo trong nhà thốt một câu:
- Thế là toi đời một trang dũng sĩ!
Bất chợt Hổ Bì tráng sĩ đứng vụt lên, chộp tay ả nữ quái, cười gằn bảo:
- Lần này thì đúng là mi hạ độc thủ! A! Gan ruột ta rộn rạo chuyển vần, ta biết mi cho ta uống rất nhiều độc dược. Nhưng, ta đã bảo mi là bậc dũng sĩ không chết bởi thủ đoạn tầm thường! - Anh bấm huyệt khiến Vu nữ đứng như trời trồng, nói tiếp - Ta có mẹ, có em gái, có ý trung nhân. Chưa người đàn bà nào làm ta mất vui, ta cũng chưa đền đáp được chút ân nghĩa với người đàn bà nào. Bởi vậy, ta thề trước mẹ ta rằng: “ Con không giết người đàn bà đầu tiên phạm tội với con”. Lần này, ta tha cho mi. Lần sau mà vậy, dù mi có nội công ngoại lực thâm hậu ta cũng bóp nát cái chỗ xuất xứ những ý nghĩ hiểm độc của mi.
Chàng Hai xoè bàn tay gườm gườm nhìn nữ quái rồi thình lình võ mạnh xuống đầu cây chày đồng. Một tiếng sét vang lên, chóp lửa chói loà nháng lên theo. Chàng Hai kinh dị không hiểu duyên cớ. Vu nữ càng kinh dị, ngờ rằng gã dũng sĩ đã học được cách sử dụng bửu bối của họ Vu. Ả cứng đơ gườm gườm nhìn chàng dũng sĩ nhưng bụng bảo dạ: “Dẫu mi là thần tướng, ruột mi bằng đá thì đá cũng phải tan, ruột mi bằng sắt thì sắt cũng phải gỉ. Chẳng lâu đâu”. Bọn Lâm Thảo cũng ghê gớm cho thần lực của trang dũng sĩ, bọn chúng cũng cùng một ý nghĩ: “Chờ đợi kẻ kia ngấm thuốc” như ả nữ quái.
Lũ chúng không ngờ Hổ Bì tráng sĩ có một cơ thể khác phàm. Hồi ít tuổi, chàng Hai bị con rắn cạp nia hai đầu dài tới hai sải tay đuổi cắn. Anh tức mình giết chết nó làm giải khăn buộc tóc, tự nhủ “dù sao mày cũng không thể hại tới người thứ hai” và anh điềm nhiên chờ chết. Chiều đó, anh lên cơn sốt, mình mẩy nóng như bốc lửa. Anh gọi cha mẹ lên lạy chào vĩnh biệt. Ông Thụ cha anh là bậc danh y cũng đành thúc thủ. Bị quái xà cắn, người thường chết ngay tức khắc. Cơ thể chàng Hai cường mãnh lắm mới trụ được lâu dài thế. Dù sao vẫn không còn hy vọng gì nữa. cả nhà đều khóc. Chàng Cả vác dao ra bụi rậm lùng sục rắn độc mà giết; anh đặt giá mỗi đĩnh bạc một con rắn độc cho ai có rắn độc, bất kỳ sống hay chết bán cho anh. Ông Thụ sai người đi chặt gỗ đẽo áo quan theo hình độc mộc và đặt làm các đồ minh khí tuỳ táng. Chàng Hai không chết, hôm sau đã khoẻ mạnh như thường và có phần nhanh nhẹn, tinh nhạy hơn trước. Ông Thụ lấy làm lạ, ông dùng kỳ hoa dị thảo chế thuốc độc cho chàng Hai uống thử, từ liều thấp đến liều cao, tiếp đến ông hoàn tán nhiều loại độc dược khác nhau để thử thách cơ thể đứa con dị thường. Lục phủ ngũ tạng chàng dũng sĩ tương lai chiến thắng mọi thứ độc hại do thiên nhiên tạo ra hoặc con người sáng chế. Ông Thụ mừng lắm bảo con: “Ngày nay mê cùng hắc điếm có nhiều, hại không ít khách giang hồ. Sau này vào đời, con không phải sợ mấy thứ đó nữa”.
Bọn ma khách yêu nữ hoài công chờ tới thời điểm cáo chung của chàng dũng sĩ. Anh cầm chày đồng sầm sập bước khỏi Nghinh Tân Đình, tháo cương ngựa, nhảy lên yên. Anh hầm hầm nhìn ngôi nhà ma quái, bất giác quật chày đồng xuống đầu khối Kình thiên thiết trụ. Một tiếng sét vang lên, chớp lửa chói lọi nhoáng nhoàng, khối trụ sắt tụt xuống sát đất. Chàng dũng sĩ lấy làm kinh dị, anh giục con Hắc long câu thả bước di vào con đường rừng.
Bọn ma khách yêu nữ càng kinh dị. Lâm Thảo tự nhủ rồi tự giải đáp:
- Thần nhân chăng? Chỉ có thần nhân mới có uy lực đến mức vậy.
Giang Đông nhất kiệt Ân Bá Thiên khích lệ:
- Dù sao hắn cũng không phải mình đồng da sắt. Hãy cho hắn biết ám khí của Lục kiệt lợi hại tới mức nào.
Lời nói giúp cả bọn lấy lại khí thế; Lâm Thảo kéo dây cung lớn, Tào Hiển Điện trương nỏ cứng, Ân Bá Thiên nắm lao sắt, Đan Tốc móc phi đao, Vu Lệ Nương cầm thạch đạn, cả bọn vận dụng hết nội lực thâm hậu nhằm lưng chàng dũng sĩ mà công kích. Cả loạt ám khí xé gió vun vút lao đi; nhưng chạm vào tấm áo tứ thân màu nâu của chàng dũng sĩ thì lả tả rơi xuống đất. Chàng Hai thấy động sau lưng và tiếng rơi lộp bộp, biết ngay có nhiều kẻ giấu mặt dùng ám khí tấn công mình. Chàng Hai lại kinh dị lần nữa. Vừa rồi anh thả chùng mọi cơ bắp để nghỉ ngơi dưỡng sức, nội công hoàn toàn không vận dụng, cường lực phòng ngự của cơ thể có thể coi như không đáng kể, mà căn cứ vào tác động của ám khí thì chủ chúng là những tên nội lực thâm hậu. Vậy thì tại sao ám khí không phạm tới thân thể anh? Có gì huyền bí? Hẳn là do chiếc áo nâu kỳ diệu! Phải, chính nó là chiếc áo giáp đặc biệt mà ông lão chài ở bến đò Đợi đã tặng chàng dũng sĩ. Hổ Bì tráng sĩ hết sức vui mừng, thuốc độc và ám khí không thể phạm tới anh. Anh yên lòng thúc ngựa chạy nước kiệu. Bọn Lâm Thảo thấy vậy cho rằng Hổ Bì tráng sĩ không phải là thần nhân thì cũng có thần nhân bảo mệnh. Chúng bỏ ý định lén lút đuổi theo, rình cơ may dùng ám khí hại chàng dũng sĩ.
5.
Tên Lạc Việt lạc loài
Chàng Hai thúc ngựa phi suốt đêm, muốn tránh xa cái nơi có thể gây phiền nhiễu cho mình.
Trời sáng, anh giục ngựa đi tiếp một thôi dài rồi dừng chân dưới sườn núi, cho ngựa nghỉ ngơi, ăn uống. Anh ngồi trên tàng đá lớn cạnh đường mòn, lấy lương khô ta ăn. Một toán thợ săn từ phía trong rừng đi ra. Người nào cũng phờ phạc, xơ xác. Một người vác chiếc ngà voi khá lớn, hai người khiêng một người bị thương trên cáng, bên cạnh cáng đặt cây cung lớn và một ống tên đầu đồng. Đi sau toán thợ săn chừng dăm chục thước là sáu kỵ binh Ngô hộ tống một tên quan.
Chàng Hai mời toán thợ săn nghỉ chân và hỏi chuyện.
Những người thợ săn này thuộc bộ lạc cư trú gần khu vực Tây Vu, họ có nhiệm vụ vào rừng tìm ngà voi để bộ lạc nộp cống phẩm cho lâm quan. Tìm ngà voi là công việc khó khăn, cực nhọc và rất nguy hiểm. Chuyến trước thiệt mạng một người mà chẳng kiếm được gì. Chuyến này tìm được một ngà voi thì một người thiệt mạng và thủ lĩnh của họ bị gẫy xương sườn. Vì có sự cần thiết thế nào đó mà hạn kỳ nộp cống phẩm tới gần, nên bọn Ngô kia đi theo ốp họ. Người thiệt mạng hôm nay không phải do tai nạn khi hành nghề xảy ra mà bị bọn kỵ binh chém. Anh ta vào chiếc hang ngờ có ngà voi, nhưng vào được một đoạn đã hổn hển chạy ra vì tức thở quá, thế là bọn Ngô chém chết ngay.
Chàng Hai ném gói lương khô ăn chưa hết xuống đất.Tới đâu anh cũng thấy cảnh chướng mắt và nghe đủ chuyện ngang tai. Anh đứng dậy nói:
- Nếu anh em muốn, ta sẽ diệt cả bày chó Ngô kia, để anh em thả sức bay nhảy trong rừng núi quê hương của mình!
Người đầu lĩnh cố nghển cổ lên nói:
- Xin cảm tạ tấm lòng vàng. Làm như thế, chắc chắn chúng tôi không phải sống uất hận. Nhưng, cha mẹ, vợ con chúng tôi ở nhà sẽ bị bọn Ngô giết hại hết.
Anh ta bảo bạn đưa tặng khách quý cây cung lớn của mình.
Chàng Hai từ chối.
Anh ta bảo:
- Tôi trở thành tàn phế không đủ sức giương nổi cây cung này. Tráng sĩ chê không dùng thì cây cung không có chủ rồi sẽ biến thành mảnh củi khô vô ích.
Bọn lính Ngô đến, sừng sộ hỏi:
- Chúng mày nói chuyện gì?
Chàng Hai nổi máu nóng, nhưng đã có lời của anh em thợ săn nên không muốn làm quá, anh cầm cung tên, đứng sừng sững trên tảng đá nói:
- À, anh em cho cây cung, ta bắn thử mấy mũi để các người xem nhé!
Anh giương cung đặt tên bắn một phát rồi bắn liền ba phát.
Mũi thứ nhất xuyên suốt cây thông lớn, ba phát sau châu đầu ghim chặt con chim gõ kiến vào cây đa.
Bắn xong, chàng Hai đeo tên, khoác cung nhảy lên ngựa, lên tiếng “chào anh em” rồi thúc ngựa phóng thẳng.
Bọn kỵ binh Ngô muốn hành hung, nhưng lượng sức khó đương nổi đối phương, đành hậm hực bỏ qua.
Chàng Hai vẫn cho ngựa rong ruổi trên con đường dài, ngày đi đêm ngủ.
Qua sông Đuống, đến khu rừng vùi xác thằng trưởng cơ Ngô, anh tạt vào nhà bà cô nàng Sen để hỏi thăm tin tức nàng Sen. Nhưng, đi đi lại lại mấy lượt, anh chỉ gặp những nền nhà hoang đầy tro than, những mảnh thạp, nồi, bát vỡ nằm chỏng trơ khắp chỗ. Tìm người cũng chẳng thấy tăm hơi. Mãi tới xế chiều, anh mới thấy một người đàn ông, từ trong khu rừng phía trước lò dò đi ra, nhớn nhác ngó quanh rồi chạy ù sang khu rừng này. Ông ta đang lật đà lật đật bới móc đám tro than, chắc là tìm vật gì thì chàng Hai sực đến. Ông ta sợ quá ngã ngửa ra đằng sau, líu lưỡi không kêu nổi.
Chàng Hai nhảy xuống ngựa đỡ con người khốn khó ngồi dậy, ân cần hỏi:
- Người Lạc Việt gặp người Lạc Việt là chắc bụng, việc gì mà hốt hoảng đến thế?
Người đàn ông hoàn hồn, kể luôn vì sao mình sợ và đó cũng là tin tức mà chàng Hai muốn biết.
Mấy ngày sau khi tên trưởng cơ bị giết trong khu rừng này, bọn Ngô tìm thấy xác nó - chúng không nghi dân chúng ở đây, vì những người khoẻ mạnh bị bắt sang Ngô hoặc đi phu hết chỉ còn lại toàn những người già lão, yếu đuối nhút nhát. Khi làn sóng truy nã “chàng dũng sĩ mặc áo da hổ” tràn về đây, có kẻ manh tâm mật báo nên bọn Ngô sở tại biết hôm tên trưởng cơ bị giết cũng là hôm “người mặc áo da hổ” đi qua vùng này. Thế là, trước hết cả nhà bà cô nàng Sen bị chém, sau đó tất cả mọi nhà bị đốt, người thì chúng xua như xua chó hoang vào rừng, muốn đi đâu thì đi, muốn chết đâu thì chết. Không bị chết chém cả là phúc đức lắm tồi. Hôm qua, có người về moi đống than xem còn cái nồi, cái bát nào không liền bị chúng đâm chết. Chúng đổi giọng:
- Giết sạch trai này.
Vậy thì ai mà chẳng sợ. Chàng dũng sĩ đấm ngực mà kêu:
-Vậy ta là kẻ gây ra tai hoạ sao? Há thằng kia chẳng là tên độc ác đáng chết sao?
Chàng Hai than thở đôi hồi rồi lên ngựa, nhưng không vượt sông Hồng, mà đi xuôi, vẫn ngày đi đêm nghỉ. Anh đi qua khu rừng Cồn Đại thì gặp một toán đông toàn người Lạc Việt, chắn ngang đường. Dẫn đầu là gã trung niên mặc quần lửng, áo tứ thân không tay, tai đeo vòng đá đỏ, cổ đeo chuỗi răng thú, gã lực lưỡng, trán bạnh, cằm thót, mày rậm, mắt sáng, tóc loăn xoăn, da đỏ như gấc, hai hàm răng trắng ởn lúc nào cũng phô ra làm cho nét mặt gã trông hết sức dữ tợn. Gã là Tô Đầu Đại đầu lĩnh quân sự của hộ lạc Hải Cẩu.
Tô Đầu Đại chống cây bán nguyệt đao, đứng xoạc chân giữa đường, lớn tiếng:
- Gò nào quan lang ấy. Người muốn đi qua, ngựa phải ở lại.
Chàng Hai cứ ngỡ người Lạc Việt đón người Lạc Việt có chuyện gì, hoá ra bọn cướp đường. Anh nói như anh em nói chuyện với nhau:
- Này các bạn, ta còn phải đi qua một đỗi đường quá dài. Con chim bay được xa là nhờ có đôi cánh khoẻ. Ta đi xa được là nhờ có vó ngựa dẻo. Ta không muốn mất ngựa, cũng không muốn làm mất lòng anh em. Thôi, người Lạc Việt thể tình người Lạc Việt, hãy làm ơn mở đường cho ta đi nhờ.
Tô Đầu Đại lắc đầu:
- Chúng ta đây không ưa thứ nghĩa lý ấy. Nhiều lời làm gì, chọn đi: một là để ngựa lại, hai là cả người lẫn ngựa đều phải ở lại.
- Vậy thì, ta đành thử một tiểu xảo, nếu anh em thấy có thể lượng tình thì nên để cho ta đi qua.
Nói rồi, anh ngoái người giương cung đặt tên bắn một phát xuyên lút qua cây vả to nửa ôm.
Tô Đầu Đại cười nhạt:
- Thôi mà, một cây làm chẳng nên non đâu. Chớ làm cái trò “rung cây nhát khỉ, bẻ nạng chống trời”.
Chàng Hai rút phắt cây chày đồng, gầm lên như sấm:
- Lũ chó lạc kia dám sủa ngang đường ta đi chăng!
May sao, một người vừa phi ngựa tới gần vừa hét:
- Khoan, khoan! Chớ có đánh nhau!
Đó là tù trưởng Nành, một cụ già hết sức nhân hậu. Bản chất cụ vốn chỉ có tình yêu thương, cụ lấy tình yêu thương dắt dẫn, bảo ban cả bộ lạc. Nhưng, trong lòng cụ cũng có một khối căm giận ẩn náu ấy là do giặc Ngô gieo rắc. Khối căm giận này như một khối u, bao bọc bên ngoài là tình yêu thương, cụ lo sợ làm quá khiến khối u vỡ tung thì lớp yêu thương bên ngoài sẽ bị thương tổn. Bởi vậy, cụ rắp lòng tạo một lớp yêu thương vưng bền để dồn nén khối u. Nhưng xem ra, chẳng ích gì mấy.
Tù trưởng Nành đến nơi, nhảy xuống đất quăng dây cương lên cổ ngựa, gạt đám trai tráng lấy lối bước sấn lên trên, đứng trước người khách lạ. Cụ chớp chớp mắt: “Chàng dũng sĩ mặc áo da hổ” làm náo động trường đấu Luy Lâu hôm nào đang nghễu nghện trên lưng ngựa, trước mặt cụ như thần tướng hiện hình. Nhưng, linh tính nhanh nhảu của người già báo cho cụ biết: “Chớ làm lộ tung tích chàng trai quí giá này”. Cụ chắp tay xá một xá khiến khách lạ phải hạ ngay cây chày đồng ghê gớm xuống.
- Tráng sĩ ở đằng Nam lên hay đường Bắc xuống thì vẫn là bốn bể một nhà. Con em ta làm điều quá đáng, mong tráng sĩ bỏ qua.
Chàng Hai nhảy xuống ngựa, chắp tay đáp lễ:
- Tiểu tử là khách đi nhờ đường, giận nỗi anh em kia cản lối.
Cụ tù trưởng xin lỗi lần nữa rồi nói tiếp:
- Nếu không chê mái nhà làng của bộ lạc chúng tôi thấp, chén rượu trong vò của bộ lạc chứng tôi kém nồng thì xin mời tráng sĩ dừng chân nghỉ ngơi qua đêm.
Chàng Hai vui vẻ nhận lời:
- Vâng, người Lạc Việt gặp người Lạc Việt chỉ nên cư xử thân tình. Gà cùng một mẹ mà hăm hăm đá nhau, há chẳng làm bọn Ngô chó má vui mừng sao.
Tù trưởng Nành cầm tay chàng Hai dẫn về nhà riêng khoản đãi. Cơm nước xong, nhân lúc vắng vẻ, cụ bộc lộ tâm trạng:
- Hôm nay tráng sĩ mới trông thấy lão, nhung lão được ngắm tráng sĩ thoả thích từ lâu, từ buổi đấu đẫm máu ở Luy Lâu kia.
Chàng Hai cảm tạ.
Tù trưởng Nành thuật lại cho chàng Hai nghe về tình bạn giữa cụ, ông Thụ và một số hào trưởng khác. Ông Thụ đã đến bộ lạc này nhiều lần, vài lần cùng cụ đi thăm các bạn ở ngoài biên vực Hải Cẩu vài ngày đường; riêng cụ lấy làm tiếc đã lâu lắm rồi chưa có dịp trở lại làng Cao để xem cậu bé lún cũn mê thả diều - chỉ chàng Hai lớn đến chừng nào.
Chàng Hai chắp tay xin lỗi và hân hoan nhận người thân - bạn của cha, tức là bậc cha chú của mình. Anh kể lại cuộc hành trình vừa qua, cả chuyện nghỉ ở nhà Vu Lang và cuộc hành trình sắp tới. Tù trưởng Nành ngồi nghe mà hết nhướn mày lại thở dài, đôi khi rung đùi mỉm cười, đến cuối câu chuyện cụ lại lắc đầu bảo:
- Cháu chưa đi được, chưa thể đi được. Đường vào Cửu Chân khó đi dễ lạc lắm. Dạo này bọn Ngô lại đưa thêm quân vây bịt gắt gao các nẻo đường thông Nam Bắc. Dáng vóc cháu thì, chỉ cần đọc qua cáo thị truy nã thôi, thằng Ngô gà mờ nhất hạng cũng nhận ra được. Cháu nên lưu ở đây ít ngày, cho lão có thời giờ phái người đi dò la các luồng đường.
Chàng Hai thành thực bày tỏ mối băn khoăn:
- Con hoẵng bị săn đuổi chạy đến nương bóng con min. Con min nhân từ cũng sẽ trở thành mối săn.
- Chớ ngại cho lão - Tù trưởng Nành khảng khái đáp - Chỉ mong cháu yên ổn đi đến nơi về đến chốn.
Chàng Hai hỏi tin tức nàng Sen.
Tù trưởng Nành buông tiếng thở dài não nuột, đáp:
- Mới rồi, bên đó lại sai người sang hỏi thăm tin tức nàng Sen.
Chàng Hai nín lặng, nhưng có lẽ anh nín tiếng thở dài còn não nuột hơn. Chứng cớ là khi tù trướng Nành đúng dậy để tránh nhắc lại câu chuyện buồn, thì chàng Hai đứng lên theo với dáng uể oải chưa bao giờ thấy ở chàng dũng sĩ ấy. Quả là anh hùng luỵ thuyền quên.
Hai người ra đến cửa thì vừa lúc Tô Đầu Đại bước vào. Thấy chủ nhà có khách, chàng Hai từ biệt về nhà riêng ở mé sau đồi.
Tù trưởng Nành ngó nét mặt Đại không có vẻ bình thường cụ nhíu mày hỏi:
- Có chuyện gì mà nhớn nhác?
- Thưa cha! - Đại cau có - Con giận quá. Vì tuân theo lời cha, lại bị anh Đô Sơn ngăn cản, nên con càng giận.
Tù trưởng Nành vẫy tay ra hiệu vào trong nhà. Ngồi yên vị, cụ hỏi:
- Chuyện gì chẳng nói ngay, cứ lấp la lấp lửng khiến bụng ta xôn xao?
Tô Đầu Đại hừ một tiếng vỗ tay lên đùi tỏ ý cơn giận vẫn đang sôi sùng sục trong lòng.
- Lại xảy ra chuyện “thằng còng làm, thằng ngay ăn”. Bọn Câu Lậu vừa lấn sang rừng ta cướp mồi săn của chúng con!
Tù trưởng chậc chậc lưỡi mấy lần:
- Cầu trời chúng giám cho lời nói của anh là lời nói thực. Nhưng ta cũng cần có lời nói của bà con Câu Lậu mới có thể phân giải việc xảy ra đúng về ai, sai về ai.
Tô Đầu Đại vui vẻ phục tùng vị tù trưởng.
- Chúng con xin vâng theo lời cha. Ngày mai, chúng con lại đi săn hay ra làm mảnh nương phía sau rùng Cọ?
Tù trưởng Nành nhướng mày, xua xua tay đáp:
- Mảnh nương ấy là vùng đất tổ tiên đã chia cho Bộ lạc Câu Lậu cai quản lại đang có ngô, bắp sắp trẩy được. Ta chết đói cũng không khi nào cướp bát cơm của người già trẻ nhỏ Câu Lậu.
- Có phải chúng ta tham lam đâu - Đại vẫn cố nói - Điền quan[3] cắm cho ta đất đó. Ta không nhận, ấy là phụ lòng họ. Vả lại, sao cha không xét tới chỗ Câu Lậu hay xâm phạm rừng núi quê ta.
[3] Điền quan: Chức quan quản lý ruộng đất thời thuộc Ngô
Tù trưởng Nành cố nén tiếng thở dài, cụ giữ im lặng một lát để lấy lại hơi:
- “Năng ăn chóng đói, năng nói hay lầm”, anh vẫn giữ mãi cái giọng nói ấy sao. Ta đã bảo: Đũa cả bó thì không sức nào bẻ nổi, đũa rời từng chiếc thì một đứa trẻ lên ba cũng lần lượt bẻ gẫy cả bó. Người Ngô còn đôi chút kiêng nể chúng ta, cũng bởi chúng ta với bà con Câu Lậu biết nương tựa vào nhau mà cày cấy, săn bắn. Nếu ta hấp tấp hay tin lầm mưu gian, ấy là tự giết lẫn nhau.
Đại vươn người lên, lại khom lưng xuống rồi ôm tay khoanh đầu gối, gã rỉ rả:
- Con e rằng bên Câu Lậu không nghĩ tốt về ta như cha nghĩ tốt về họ. Hiển nhiên là họ luôn luôn cướp đoạt mồi săn của chúng con. "Ăn cây nào rào cây ấy" nên con không dám phụ lòng tin của cha và của bộ lạc.
Tù trưởng Nành đứng dậy, cụ muốn chứng tỏ cho Đại biết, đây là lời nói cuối cùng:
- Vậy thì, ta cũng cần nói cho anh rõ. Nếu anh vẫn cứ giữ thói “rào cây” theo lối ích kỷ hại nhân ấy, thì ắt có ngày bộ lạc phạt vạ, đuổi khỏi bộ lạc. Thôi, chớ nhiều lời.
Đại về đã lâu mà tù trưởng Nành vẫn đứng trơ trơ giữa nhà. Cụ lo lắng vì lòng dạ con em trong bộ lạc, họ nông nổi hay vì nguyên nhân gì? Một cụ già bước vào, dìu già Nành ngồi xuống ghế.
- Tôi nghe hết chuyện, tôi cảm thấy ý nghĩ của thằng Đại có lẫn nhựa lá ngón rồi đó!
Tù trưởng Nành thở dài, tiếng thở dài thật não ruột vì nó có cả giận lẫn thương.
- Tôi cũng lo con cháu chúng ta ăn phải bùa lú của kẻ khác. Giặc xảo quyệt mà con em ta thì nhẹ dạ. Đáng lo quá!
Tù trưởng Nành nhận xét đúng, nhưng quá muộn.
Chậm trễ, chần chừ hay nhân hậu đối với kẻ thù là tự giết mình, nhất là thời buổi loạn ly.
*
Bọn Ngô không từ một thủ đoạn đê tiện nào nhằm làm dân Lạc Việt yếu đi, để ngồi trên đất Lạc Việt mà không phải lo dân Lạc Việt nổi dậy chống lại. Chúng gài lũ Ngô hạt giống vào bộ lạc, cũng xăm mình nhuộm răng để thực hiện âm mưu trước mắt hoặc lấy vợ sinh con, lập cơ nghiệp làm mầm mống đồng hoá lâu dài - Tất nhiên, như sự thực lịch sử đã chứng minh, thân phận lũ Ngô hạt giống chịu số phận hẩm hiu của kẻ lạc loài. Vợ chúng - dĩ nhiên, do tên môi quan[4] ép buộc người đàn bà Lạc Việt phải lấy - đày đoạ chúng như đày đoạ tên nô lệ: Con lợn hộc đòi ăn? - Kìa chú đuôi ngựa! Và mắng chúng cả ngày như mắng con chó hư. Nói tiếng Ngô, mắng; nói ngọng, xỉ vả; cười nhe hàm răng trắng ởn, nhiếc móc...
[4] Môi quan: Chức quan môi giới việc hôn nhân do bọn Ngô đặt ra. Thực rạ, môi quan có quyển định đoạt việc hôn nhân giữa gái Việt với trai Ngô: đó là một chủ trương nằm trong chính sách đồng hoá của chúng.
Những người khác trong bộ lạc thì tẩy chay chúng ra mặt, không ai thèm chơi bời, chuyện trò... Hỏi làm quen, họ không trả lời; chào cầu thân, họ nghênh mặt hứ một tiếng và vẫn nghênh nghênh mặt đi thẳng... Lũ trẻ con, bọn gái trai thau tháu thì chửi bóng gió, nói cạnh khoé bằng đủ lời độc địa thông qua các trò đùa nghịch... chúng tức muốn nổ ruột mà chẳng thể bắt bẻ; bởi vì họ có làm gì chúng đâu và họ có thừa lời nói khôn khéo để bào chữa và để chửi khéo lần nữa nếu chúng dại dột muốn chất vấn. Rút cục, thằng Ngô bầy nhầy, lì lợm nhất hạng cũng chỉ đậu nổi sáu tháng là khăn gói quả mướp chuồn thẳng.
Thái Cát đột nhập vùng này chưa tìm được cớ thâm nhập sâu thì vớ được dịp tù trưởng Nành bị bệnh hiểm, nhiều thầy lang bó tay, gã đến xin chạy chữa làm phúc.
Cát chữa khỏi bệnh của tù trưởng Nành, ân cần thuốc thang cho cả những người khác, nhà nào có người ốm thì dù trời còn sớm hay khuya, hắn vẫn sốt sắng đến xem bệnh và cho thuốc ngay. Hắn lân la sang bộ lạc Câu Lậu và đi lại ra chiều chân tình với hai bộ lạc.
Trong khi đó, hắn bí mật mộ Đô Chột - tên thợ săn gian giảo và một số kẻ du thủ du thực làm tay sai đóng lán trại trong rừng Câu Lậu, săn lấn sang rừng Hải cẩu, nhiều phen cướp mồi sần, ăn trộm ngô thóc giữa ban ngày khiến bộ lạc Hải cẩu nghi ngờ rồi thù ghét bộ lạc Câu Lậu. Đồng thời, Cát tiến hành những thủ đoạn kích động khác nữa. Tô Đầu Đại sa vào âm mưu của hắn rồi bị hắn dắt mũi: Khi biết Đại có ý không bằng lòng tù trưởng Nành, hắn nhử mồi: “Quan thái thú hứa cho anh làm huyện lệnh, nếu anh làm xong việc ấy”.
Mấy hôm nay, Đại cố tình kích động, thúc đẩy tù trướng Nành gây xung đột với bộ lạc Câu Lậu là nhằm thực hiện âm mun thâm độc của Thái Cát.
Lần nào lời nói của Đại cũng bị tù trưởng Nành gạt đi. Đại đành phải gặp Cát thú thực mình bất lực. Mộng làm huyện lệnh thế là đi đời.
Cát vỗ vai Đại khuyến khích:
- Chớ nản lòng. Tôi giúp ông Tô một tay, khi nào ngồi ghế huyện lệnh thì nhớ đến công tôi nhé.
Tối hôm sau, Đại đến chỗ hẹn. Cát chìa cho xem mũi tên, rồi bảo:
- Ta giao mũi tên này cho thằng chột như thế... như thế. Ta chỉ ngại bên Câu Lậu có nhiều thằng dũng mãnh lắm, nhất là chàng Đông, Đô Ham, Đô Liệp.
Đại hí hửng đáp:
- Ông cứ yên lòng về điều đó: Hải Cẩu mới có một tay dũng sĩ nhập bọn. Tôi đã mớm gã mấy bận về chuyện Cẩu Lậu cậy mạnh, ức hiếp Hải Cẩu mà cứ như nước đổ đầu vịt ấy. Gã bảo: “Ta không tin bộ lạc ăn ở với bộ lạc mà tàn tệ đến thế”. Nếu ông Chột làm xong việc ấy thì chẳng cần mồi chài nhiều lời, gã xách kiếm xông lên đầu tiên.
Cát hỏi bằng giọng hấp tấp:
- Nó là thằng nào?
Đại thuật lại câu chuyện hắn nghe trộm hôm chàng Hai kể tung tích mình với tù trưởng Nành.
- Ấy a! - Cát sửng sốt lùi một chút rồi đặt tay lên vai Đại - Tin này quan trọng lắm, ta sẽ mật báo về cho Đô uý Du Nghiệp biết. Nhưng, trước mắt hãy dùng nó vào việc của ta đã.
*
Tối đó, chàng Hai thao thức đến khuya vẫn không sao ngủ được, chẳng hiểu vì cớ gì nữa. Chợt nghe tiếng huyên náo. Anh chớp chớp mắt ngồi dậy. Tiếng huyên náo mỗi lúc một to đằng mạn nhà tù trưởng Nành. Anh cầm chày đồng chạy tới.
Nhà tù trưởng Nành đèn đuốc sáng choang, gái trai vào ra nườm nượp, người sụt sùi, kẻ bưng mặt vừa đi vừa khóc hu hu.
Tù trưởng Nành bị kẻ gian hãm hại!
Đại ôm xác tù trưởng Nành gào thét thảm thiết, đau xót hơn cả cha mẹ đẻ nó chết. Đô Sơn chắp tay sau lưng, đầu cúi gằm, như con gấu đen hùng hục lượn quanh.
Chàng Hai xộc vào, chân quỳ chân chống đỡ mặt tù trưởng Nành lên để ngắm nghía:
- Chết rồi! Chết rồi còn đâu - Anh đứng phắt dậy, lướt mắt nhìn một lượt hỏi to - Kẻ nào dám giết người già nhân đức này?
- Đây đây! - Đại mếu máo chỉ mũi tên dẫm máu đặt bên cạnh tù trưởng Nành - Tôi đã thưa với cha nhiều lẩn rằng lũ khốn Câu Lậu gian ác lắm, nhưng cha chẳng chịu nghe để đến nối đau đớn thế này.
Nó lại gào lo hơn, thống thiết hơn. Nó giằng mũi tên trong tay chàng Hai đặt lên bàn tay mình vỗ đen đét như đánh kẻ thù:
- Tù trưởng Lương đây! Thằng già Lương đây! Bạn nối khố của cha ta đây! Chao ôi.
Nó chống tay đứng lên chợt gạt nhanh nước mát, quắc mát nói lớn:
- Hỡi những người con côi của bộ lạc Hải cẩu! Thù này phải trả! Nợ máu này phải đòi! Không lấy máu kẻ kia rửa mối thù này thì chúng ta còn mặt mũi nào sống trên trần gian.
Lời Đại nói là dầu rót vào đám lửa đang cháy. Một người trong bộ lạc bị xâm phạm thì mọi người khác đều thấy như chính mình bị thiệt hại. Một người giết thì thủ lĩnh dẫn anh em đi trả thù, tù trưởng bị giết thì thì cả bộ lạc kéo đi báo thù. Đang đêm mà già trẻ gái trai kéo đến chật cả bãi rộng trước nhà tù trưởng Nành.
Họ gào thét, họ đòi hỏi phải đi rửa thù.
Chàng Hai gặng hỏi:
- Ai biết đích xác thằng nào phóng mũi tên này xuống ngực tù trưởng Nành?
Nàng Tâm lên tiếng:
- Anh ơi! Thằng chột sẹo má đã giương cung bắn chết cha ta khi ông còn đang thiêm thiếp ngủ.
Đô Sơn vỗ đùi kêu lên:
- Tôi biết thằng này, nó ở bên rừng Câu Lậu. Tôi chạy tới thì bọn chúng đã phóng ngựa chạy vào rừng mất rồi.
Chàng Hai lớn tiếng:
- Có thù phải báo, có nợ phải đòi. Nhưng hành động hấp tấp không bao giờ là điều hay. Chúng ta nén lòng chờ tới sau ngày đưa linh cữu cha ta về với tổ tiên.
Sáng hôm sau, Đại cắt đặt, đốc thúc việc lo liệu mai táng cụ Nành, đến trưa đã xong xuôi mọi việc, chưa có đám ma vị tù trưởng đáng kính nào mà tiến hành vội vàng đến vậy. Ai hỏi, Đại gạt nước mắt trả lời:
- Tôi muốn mọc cánh để bay đi trả thù!
Lễ mai táng vừa xong thì có tin báo: Bộ lạc Câu Lậu cho người khiêng lễ vật sang chuộc tội.
Thái Cát quả là một thằng quỷ quyệt, dùng chiếc tên riêng của tù trưởng Lương bắn tù trưởng Nành rồi, Hắn vẫn ngại Hải Cẩu không tin nên tác động thêm một đòn nữa, theo đúng bài bản phong tục cạnh tranh của người Lạc Việt. Hắn sai người giả làm người Câu Lậu mang lễ vật sang chuộc tội[5] nghĩa là thú nhận: Câu Lậu đã giết tù trưởng Nành.
[5] Thời xưa, khi bộ lạc nào có người phạm tội với bộ lạc láng giềng thì bộ lạc ấy mang lề vật sang để chuộc tội. Có trường hợp phải dẫn phạm nhân sang tận nơi để nhận sự phán cử của bộ lạc bị làm hại.
Trông thấy toán Câu Lậu kẻ đội, người gánh lễ mễ bước tới, chàng Hai gần như nghẹn thở. Anh cau mày tự nhủ: “Thực không ngờ người Lạc Việt nỡ tâm đến thế với người Lạc Việt. Câu Lậu dám làm việc ác này! Chúng còn càn rỡ đến đâu”.
Đại không bỏ sót từng phản ứng nhỏ của chàng Hai, hắn giả vờ tuốt kiếm toan chém giết gã đầu lĩnh mang lễ tới.
Chàng Hai gàn:
- Giết hạng ấy thì giết lúc nào mà chẳng được. Ta muốn nghe mồm nó nói.
Gã kia cúi đầu nhận lỗi, rằng trong bộ lạc có con em hung hãn vì thù riêng mà lẻn sang ám hại tù trưởng Nành. Nay mang lễ vật đến chuộc tội.
Chàng Hai nghiến răng, cất tiếng oang oang:
- Thế là rõ! Kẻ khốn kia! Nợ này không thể trả bằng trâu, ché, vòng, chuỗi... mà phải trả bằng máu. Ta tha mày về bảo cho kẻ già bọn trẻ bên đó hãy rửa cổ sạch sẽ đợi chúng ta sang đòi nợ.
*
Chàng Hai cưỡi Hắc long câu dẫn đầu trai tráng Hải cẩu kéo sang bộ lạc Câu Lậu. Cơn giận nơi chàng dũng sĩ bốc lên ngùn ngụt, cây chày đồng nhả hết uy phong, chỉ một nó cựa mình mà cây đổ, người chết như bão quét bãi lau sậy. Đường vào nơi cư trú của bộ lạc Câu Lậu mở quang.
Trông thấy bên gốc cây có hai người lẩn trốn, chàng Hai vung cây chày đồng quất một nhát, cây gẫy răng rắc đổ ập lên một người còn một người thì vừa lúng túng trong đám cành là vừa cuống quýt gọi: “Mẹ ơi! Mẹ ơi!”.
Người bị cây đè quằn quại đau đớn, vẫn cố nói:
- Chạy đi, nhanh lên con!
Suốt từ nãy đến giờ, chàng dũng sĩ nghe nhiều tiếng Lạc Việt kêu rú dưới cây chày đồng khủng khiếp của mình, nhưng chưa có lời kêu nào khiến anh động tâm bằng cảnh này. “Rừng có hùm beo lang sói, có cả hươu, hoẵng chim muông, sao ta nỡ coi như ác thú cả”. Anh nhảy xuống ngựa, nhấc bổng thân cây lên bảo:
- Ta tha cho mẹ con nhà bà, chạy đi!
Trong khi đó, Đại vẫn đốc thúc trai tráng tiến lên chợt gặp một toán đồng sừng sực kéo đến, đi đầu là tù trưởng Lương, liền bên cụ là chàng Đông, Đô Hàm và Đô Liệp.
Tù trưởng Lương chống giáo, lớn tiếng hỏi:
- Anh em muốn trâu, muốn ché hay vì chúng ta phạm lỗi gì mà kéo vào đây giết hại anh em ta?
Đại sợ lộ mưu gian, quát át đi:
- Anh em ơi! Hãy lay mũi giáo cho nó tìm kẻ thù của cha ta!
Hai bên xô vào đánh nhau. Đô Sơn cùng Đại lăn xả vào đâm chém mà không sao đương nổi chàng Đông. Đô Hàm, Đô Liệp lẫn trai tráng Câu Lậu tràn lên, khí thế cực kỳ dũng mãnh. Hàng ngũ của Hải Cẩu rối loạn, vừa đánh vừa lùi dần.
Chàng Hai ruổi ngựa tới, anh giơ cao chày đồng thúc ngựa xông vào quát:
- Bọn mày phạm tội chẳng cúi đầu chịu tội lại dám làm dữ, ta phải ra tay.
Ngay phút đầu, tù trưởng Lương đã bị thương vào đùi, do cụ mải nhìn người vừa tới nên bị Đại đâm lén. Chàng Đông chém gãy giáo của Đại, che cho Đô Hàm cõng tù trưởng chạy về, rồi hô anh em xúm vào đâm chém chàng Hai.
Chàng dũng sĩ gầm lên, cây chày đồng giáng một đòn bên trái lại giáng một đòn bên phải cả một khối người ngã rụi.
Cây chày đồng sấm sét của chàng dũng sĩ đã làm con người dũng mãnh nhất, đáng yêu nhất của bộ lạc Câu Lậu ngã xuống. Chàng Hai chùn tay khi thấy vóc dáng cao lớn của người dũng sĩ Lạc Việt từ từ buông rời thanh đạo đao, nhưng mãi mới ngã vật xuống đất.
Chàng dũng sĩ nói to:
- Ta chỉ cần giết thằng già gian ác và thằng, súc sinh chột mắt. Còn thì, kẻ nào chạy ta tha, kẻ nào đứng là ta giết!
Chàng Đông gượng chống tay đứng lên:
- Chạy thôi. Anh em về bảo cha bảo mẹ bỏ cửa nhà, bỏ ruộng nương mà chạy thôi.
Nói đoạn chàng Đông ngã xuống và mãi mãi không dậy nữa.
Bộ lạc Câu Lậu được tin toán quân của Chàng Đông bị đánh tan, vội theo đường hậu rút vào rừng. Con gái tù trưởng Lương dìu mẹ theo Đô Hàm đang cõng cha dấn lên trước dẫn đường.
Chàng Hai phi ngựa vào làng. Làng trống không. Trời đổ tối. Anh xuống ngựa, ngồi trước nhà làng, Đại dẫn anh em tới. Không ai biết đường rút của bộ lạc Câu Lậu đành nghỉ để ăn uống. Đô Sơn dẫn hai thanh niên đi dò la, một lúc về báo tin đã tìm thấy đường rút của bộ lạc Câu Lậu. Chàng Hai lên ngựa, bảo Đô Sơn lên ngồi sau lưng rồi phi ngựa đuổi theo. Ngựa chạy một thôi thì trông thấy đội hậu vệ của bộ lạc Câu Lậu thấp thoáng phía trước. Anh bảo Đô Sơn xuống ngựa đoạn phi vọt lên, phi như cơn lốc đen qua hàng hậu vệ, phi tiếp lên đầu hàng người chạy trốn.
Anh quay ngựa lại, chắn ngang đường. Con ngựa giận dữ, luôn luôn nâng bổng hai cẳng trước, hí rền vang.
- Thằng già độc ác kia chạy đi đâu? Có nợ phải trả, mi cố chạy làm lòng ra thêm uất hận.
Con gái tù trưởng Lương đẩy mẹ trở lùi, rút kiếm bước sấn lên:
- Tao quyết cùng mày một sống một chết!
Chàng Hai gạt lưỡi kiếm chém tới của cô gái.
- Nàng là ai mà táo tợn? Ta không thù ghét nàng, không chống lại ta, ta không giết!
Cô gái vẫn sấn vào chém tới tấp.
- Không nhu nhơ với nàng được - Chàng Hai vừa nói vừa lựa thế hất thanh kiếm của cô gái bay vào rừng.
Cô gái không sợ vẫn sấn lên, hầu như bám lấy chân chàng dũng sĩ.
- Mi giết ta đi, mi chém ta đi rồi tha cho những người vô tội khác!
Tù trưởng Lương khập khiễng bước lên, Đô Hàm đi theo bén gót. Cụ gạt con ra bên, đứng đúng tầm cây chày đồng ghê gớm của chàng dũng sĩ khiến chàng phải co ngựa lùi một bước.
Tù trưởng Lương điềm tĩnh đứng trước một cái chết đã trông thấy, cụ trầm giọng nói:
- Nghe tiếng nói và trông dáng tráng sĩ, lão không thấy ẩn náu nọc rắn bụng lang, sao bàn tay tráng sĩ độc ác như vậy. Lão già rồi, có chết cũng đáng đời, nhưng hãy cho lão biết, lão phạm tội gì với anh em bên đó.
Chàng Hai trừng mắt:
- Kẻ anh hùng nói không đổi lời, làm không chối việc, ngươi đốn mạt đến thế sao? Quanh vùng này ai chẳng biết tù trưởng Nành bị ngươi giết hại.
- Tù trưởng Nành bị giết! - Tù trưởng Lương tròn mắt, chân dường như không đứng vững nổi, cụ dang hai tay quờ quạng bám lấy Đô Ham và con gái nói tiếp - Kẻ nào dám giết người bạn hiền lành của ta?
Cô gái dũng cảm nhích bước sát bên cha:
- Tráng sĩ kia, ta nghe tiếng nói sao quen?
Trong đám đông có tiếng nói lớn:
- Kẻ kia có cha mẹ hay không mà đang tâm giết hại cha mẹ người khác?
Chàng Hai quát to:
- Chúng mày đừng có hùa nhau giả trò vờ vịt! - Anh phóng mũi tên cắm xuống trước mặt tù trưởng Lương - Hãy xem đấy rồi bảo hai tên kia tránh ra, đừng để cái chết của ngươi dây sang kẻ khác.
Tù trưởng Lương rút mũi tên lên coi. Ông nói như tự nhủ mình:
- Đây là mũi tên làm tin ta nhờ thày thuốc Thái Cát đi mời bạn ta đến dự màng ngày con gái thoát nạn trở về.
Cô gái chặn tay lên ngang ngực, giọng hồi hộp:
- Phải chăng là chàng Hai đó?
Chàng Hai nghiêng người nhìn cô gái:
- Ta trông như nàng Sen! A! Nhưng, hãy khoan. Ân tình nàng ta chẳng thể quên. Bây giờ, ta đang có thù cần phải đòi ngay. Kẻ kia đi tim khí giới, đừng để ta xuống ngựa xé ngươi làm hai mảnh!
Cô gái - chính là nàng Sen. Cô đã trải qua muôn ngàn nguy hiểm trốn thoát về với cha mẹ. Cô nói với tù trưởng Lương:
- Thưa cha! Đây chính là người con đã thưa chuyện với cha mẹ.
Tù trưởng Lương gạt con gái và Đô Hàm, trở lại bước tới đứng bên con ngựa mà chủ nó lăm le giết mình. Cụ đặt tay lên cổ ngựa nói:
- Lão đã nghe danh tráng sĩ! Cha tráng sĩ là bạn lão. Vậy tráng sĩ hãy thư tâm nghe lời lão nói. Bộ lạc Câu Lâu bị giặc Ngô sát hại đã nhiều, anh em Hải Cẩu cũng chịu số phận ấy thôi. Bọn Ngô có nhẹ tay với người Lạc Việt nào đâu. Lão nghe nàng Sen kể, tráng sĩ cũng vì giặc Ngô bạo ngược mà chịu cảnh long đong, có cha mẹ không được gần gũi, có nhà không được ở, đi đâu cũng bị truy đuổi, đất nước của tổ tiên mà chẳng có chỗ nào yên ổn dung thân. Ờ, ta biết loài cú diều săn bắt gà con đã đành, có sao gà cùng một mẹ cứ nhằm nhau mà đá. Nếu tráng sĩ tin cái chết của tù trưởng Nành là tội của lão thì cứ việc giết cho hả giận. Nếu tráng sĩ thấy động lòng trắc ẩn thì hãy thư thư cùng ta tìm cho ra ngọn ngành.
Chàng Hai nhíu mày do dự:
- Lòng ta sao thấy bồn chồn? Nhưng, ta vẫn chưa thể tin ông!
Nàng Sen tiến đến áp người vào mình ngựa nói:
- Nếu lòng chàng không u ám vì cơn giận dữ và vẫn chưa nỡ quên em, xin hãy bình tâm cùng cha em phanh phui chỗ mờ ám của chuyện này.
- Thôi được! - Chàng Hai nhảy xuống đất - Hãy quay về nhà làng! - Thấy dân chúng chần chừ, anh nói lớn - Kẻ nào dám gia hại người Câu Lậu khi ta đang mải phân biệt rõ trắng đen, kẻ ấy phải chết.
Anh vượt lên đầu dẫn đường, Đô Hàm cõng tù trưởng Lương cùng Sen đi theo sau. Đô Sơn chưa hiểu chàng Hai xử sự ra sao, cũng đành nhập bọn.
Ngang đường gặp Đại dẫn đầu quân hùng hổ kéo tới. Chàng Hai ra hiệu cho anh em Hải Cẩu dừng bước, anh tiến lên bảo:
- Tô tráng sĩ hãy dẫn anh em trở về. Ta sẽ cùng anh Đô Sơn ở lại nói chuyện với già Lương. Nếu già Lương đúng là kẻ thù của chúng ta, chúng tôi sẽ san kỳ phẳng núi thù.
Đại chỉ muốn xô quân lên chém giết cho tả tơi bộ lạc Câu Lậu để đoạt lấy chiếc ghế huyện lệnh, nhưng không dám làm càn trước mặt Hổ Bì tráng sĩ, hắn đành hậm hực dân anh em trở về Hải Cẩu.
Chàng Hai theo tù trưởng Lương vào Nhà Làng, anh yêu cầu cụ gọi mọi trai tráng cùng vào nói chuyện. Trai tráng Câu Lậu vào hết, ngồi chật nhà, nhưng chàng Hai vẫn chẳng nói gì mà chỉ đưa mắt nhìn suốt lượt.
Tù trưởng Lương lấy làm lạ hỏi:
- Tráng sĩ tìm ai?
Chàng Hai đáp:
- Cụ hãy gọi tên chột mắt sẹo má đến đây đối chúng, chính nó đã bắn chết tù trưởng Nành bằng mũi tên tôi trao cho cụ.
- Thôi chết tôi rồi! - Tù trưởng Lương vỗ đùi than thở - Tôi có ngờ đâu nông nỗi “nuôi ong tay áo”.
Cụ kể cho chàng Hai biết, có một toán thợ săn do thằng chột sẹo má làm thủ lĩnh, chúng nhờ Thái Cát làm môi giới xin dựng lều trong khu rừng của Cầu Lậu để săn bắn, mồi săn được chia đồi.
- Đô Hàm - Kể dứt chuyện, cụ lên tiếng gọi - Con dẫn anh em bắt thằng chột sẹo má về đây!
Đô Sơn đứng dậy:
- Tôi biết thằng chó má ấy, tôi xin đi theo.
Một lúc sau, Đô Sơn giải tên chột về.
Tên chột một mực kêu oan. Đô Hàm gọi anh em mang dụng cụ tra khảo ra. Chàng Hai bảo “không cần” đoạn bước tới tóm cổ tên chột giơ lên cao.
- Xương mày có rắn bằng xương đầu con trâu đao phủ của thằng thứ sử không? Phải nói thật, đừng để ta bóp nát từng cái xương của mày.
Tên chột cuống quít xin buông tay để khai. Nó khai hết sự thật, rút cục kẻ hại dân ta vẫn là bọn Ngô chó má.
- Thái Cát đâu? - chàng Hai quát hỏi.
- Nó bỏ đi từ chập tối, chắc nó trốn về quận rồi.
Chàng Hai bảo Đô Sơn:
- Con cọp hung dữ bỏ chạy, chỉ còn con chim hỏi hám này thôi. Anh mang về cho anh em làm lễ tế tù trưởng Nành.
Nghe nói vậy, tên chột sợ quá, xin được đền tội ở đây. Già Lương đỡ lời chàng Hai:
- Mang nó ra bìa rừng!
Chàng Hai đứng dậy. Chắp tay xá tứ phía xin lỗi bộ lạc về hành động hung dữ vừa qua.
Tù trưởng Lương cũng đứng dậy, xin lỗi bà con về sự nhẹ dạ của mình khiến kẻ thù lợi dụng gây nên cảnh nồi da nấu thịt.
Tù trưởng Lương thân đứng lên làm lễ hợp táng cho những người thiệt mạng. Chàng Hai khấn lạy trước mộ:
- Còn đau đớn nào hơn cẳng đậu luộc hạt đậu. Kẻ ngu muội này còn nặng nợ nên không thể lấy cái chết của mình tạ tội với vong linh các oan hồn. Xin thề rằng sẽ dùng nó lấy máu giặc Ngô rửa sạch oán thù và lỗi lầm.
Lời khấn chưa dứt, tiếng khóc đã ào ào bật ra. Nghĩ tới chàng Đông và các dũng sĩ chết bởi tay mình, tiếng khóc càng to hơn, anh đấm ngực vò đầu mình mà khóc.
Tù trưởng Lương âu sầu nói với con gái:
- Cha nghe nàng Hậu Nga khóc chồng mà sạt đổ cả một đoạn Trường thành, cha tin sự tích ấy là có thật.
Thân nhân nhưng người bị hại thấy chàng dũng sĩ khóc lóc thảm thiết quá, rủ nhau xúm vào khuyên giải.
Dẫu bà con Câu Lậu không ngỏ một lời trách móc, chàng Hai vẫn bứt dứt không yên. Những vành khăn trắng thấp thoáng bên cửa từng, bờ suối..., những tiếng sụt sùi, nức nở vãng vẳng bên tai là những lời buộc tội không thể bào chữa nổi về hành động tội lỗi của anh. Càng xót xa về việc làm tội lỗi, anh càng căm giận bọn Ngô độc ác. Trên cõi Lạc Việt này còn bao kẻ mắc mưu gian của lũ Ngô hiểm độc, cứ nhè quê hương mình mà tàn phá, cứ nhằm bà con mình mà chém giết?
Chàng dũng sĩ xin tù trưởng Lương được lên đường ngay. Tù trưởng Lương giữ lại. Tối ấy, già Lương sai mổ trâu bò làm cỗ lớn cúng cáo tổ tiên. Khắp nhà làng, khắp nơi khói hương nghi ngút. Cụ sai bốn tráng đinh đào dưới gầm ban thờ lấy lên một hộp lớn đặt trên bàn kê giữa sân. Cụ khấn vái xin âm dương rồi tự tay mở nắp hộp. Một vừng hào quan nháng lên. Đó là thanh kiếm báu, vỏ kiếm đề Lĩnh Nam trấn quốc thần kiếm. Tù trưởng Lương quỳ dưới đất, hai tay nâng kiếm báu, hướng về phía chàng Hai nói:
- Lĩnh Nam có bốn báu vật. Đó là: Tây Vu quán thiên bảo vật, Lĩnh Nam Trấn quốc thần kiếm, Bảo quốc thiên khôi và Trấn quái bảo y. Trời đã trao cho tráng sĩ hai thứ, già này hiến vật thứ ba. Vật thứ tư kia, ắt có ngày “Châu về Hợp Phố”. Tráng sĩ hãy vì non sông đất nước của ông bà mà ra tay. Bảo vật còn người còn, bảo vật mất người mất. Tráng sĩ lưu tâm.
Chàng dũng sĩ lạy tạ, nhận kiếm. Hôm sau, chàng Hai chào bà con Câu Lậu để trở về Hải Cẩu. Mọi người cố giữ không được đành chia tay. Nàng Sen đi tiễn ra tới cửa rừng. Giao Châu mỹ nhân nhìn trời, nhìn mây rồi ngắm Hổ Bì tráng sĩ, bâng khuâng hỏi:
- Bước chân chàng sẽ tới đâu?
Chàng Hai im lặng. Anh đưa mắt nhìn nẻo đường xuyên qua rừng thẳm, anh nói với bạn mà thực ra nhắc lại lời cha nói với mình lúc lên đường.
- Cha tôi bảo: Khi trời nổi cơn giông bão, ấy là lúc con đại bàng cất cánh, nó cứ ngược hướng gió mà bay. Trời đất ầm ầm náo động, gió rít vù vù, mây dâng cuồn cuộn mỗi lúc một dữ dội hơn, đến nỗi đá phải bỏ núi mà bay, cây phải bỏ rừng mà chạy. Con chim nhỏ nhoi lọt thỏm giữa bầu trời mù mịt kia rất có thể bất ngờ gẫy cánh rơi xuống biển sâu hoặc bị mây gió hung bạo cuốn đi. Nó bất chấp tất cả, không sợ và không hề mảy may nghĩ tới điều đó, cứ hướng ngược gió mà lao tới.
Nàng Sen hồi hộp hỏi:
- Và rồi sao?
Chàng Hai thở dài đáp:
- Gánh thù trên vai quá nặng, chí trai chưa thoả, tôi không thấy có thứ nào khác lẫn trong đó.
Nàng Sen rầu rầu như than thở như hỏi:
- Lòng chàng chứa căm thù chật cả, chẳng còn chỗ nào nữa chăng?
Chàng dũng sĩ cúi xuống, như thể để nhìn sâu vào lòng mình:
- Có một thứ tôi cảm thấy mà không nhìn thấy, nó không ở trong lòng mà ở chỗ nào đó tôi chưa hiểu, hình như nó chan hoà khắp người tôi. Biết nói thế nào với nàng Sen nhỉ? Nàng Sen có lòng, hãy tìm đến nơi dông bao hoặc chờ khi gió tạnh mây tan...
Nàng Sen nắm chặt tay con người cao lớn, nhìn sâu vào cặp mắt anh, như muốn gắn chặt, như muốn gửi gắm thứ gì vào trong đó.
- Vậy thì chàng dũng sĩ cứ lên đường!
Chàng Hai trở về Hải cẩu, gặp Tô Đầu Đại bảo:
- Chúng ta phạm tội lớn là lầm bạn thành thù, gây ra bao tang tóc cho Câu Lậu. Hải Cẩu nên cho người sang đó giúp đỡ để chuộc lỗi.
Đại cười nhạt đáp:
- Chuyện đó có phải do chúng ta tự ý gây nên đâu.
Chàng Hai không bằng lòng với vẻ nhơn nhơn của Đại đối với sự kiện nghiêm trọng đến thế. Vì có người bảo có toán khách buôn thường đi lại giữa hai miền cửu Chân và Giao Chỉ, anh muốn đến gặp toán khách buôn đó hỏi thăm đường nên không thể dùi dắng ở đây. Anh bảo Đại:
- Không tự ý nên chỉ đáng trách, nhưng phải làm mọi điều để chuộc lỗi lầm của mình; nếu cố ý thì cái chết cũng không đủ chuộc tội. Anh là một kẻ không tốt, ta bận phải đi, nhưng ta không bỏ qua việc này đâu.
Nói rồi, anh nhảy lên ngựa phóng thẳng vào rừng.
Chàng Hai đi một ngày đường mới tới nơi, nhưng toán khách buôn đã đi rồi. Anh phi ngựa đuổi theo một ngày nữa không gặp, đành phải quay trở về Hải Cẩu để xem Tô Đầu Đại làm ăn ra sao.
Đến một khu rừng nọ, anh trông thấy một đám đông đúng ngồi ngay bên lề đường rùng. Anh phóng ngựa lại gần, ngỡ ai hoá ra Đô Sơn và khoảng ba chục trai tráng bộ lạc Hải Cẩu, người nào cũng bơ phờ mệt mỏi. Anh nhảy vội xuống đất.
- Có chuyện gì xảy ra?
Đô Sơn kéo chàng Hai cùng ngồi lên trên thân cây gỗ đổ với mình. Các trai tráng ngồi quây quần xung quanh.
Chàng Hai đi một ngày thì Thái Cát dẫn quân Ngô đến. Chúng chia quân làm hai. Một toán do Đại dẫn đường sang đánh phá bộ lạc Câu Lậu, nghe nói bên đó tan nát hết rồi, sau đó bọn Ngô giao cho Đại làm tù trưởng bộ lạc Hải Cẩu.
Tù trưởng là vị thủ lĩnh được bộ lạc tin cậy, tôn kính yêu mến hơn cả cha mẹ, do hội đồng toàn thể bộ lạc nhất trí bầu ra, từ cổ xưa đến nay, không sức mạnh càn rỡ nào dám xâm phạm tới quyền đó. Thế mà bọn Ngô dám làm. Đại ra sức chiêu dụ những người Câu Lậu thất tán, nhưng chẳng ai theo. Anh em Đô Sơn công phẫn trước hành động bạo ngược của giặc Ngô và sự a tòng đê tiện của Đại nên rủ nhau bỏ bộ lạc, trốn vào rừng. Hiện nay chưa có hướng đi tiếp.
Chàng Hai đứng phắt dậy bảo:
- Trở về bộ lạc! Không thể dung tha bọn chó má làm càn.
- Em e chúng nó đông!
Đó là tiếng nói của nàng Tám. Đến bây giờ chàng Hai mới biết có một cô gái nai nịt cung kiếm chẳng khác gì trai tráng. Anh nhìn một lượt nói:
- Chúng ta có hơn ba chục người, há sợ đống dòi bọ đó sao. Chúng ra chia làm hai cánh, từ hai phía đánh ập vào, chúng dẫu đông cũng phải tan.
Chàng Hai đem theo mười người. Đô Sơn chỉ huy hai mươi người, anh lại chia làm hai toán, giao cho nàng Tâm chỉ huy một toán, nhằm chỗ sơ hở trong bố phòng của Đại mà lặng lẽ thọc vào tận nơi mới bất thần hò reo tiến đánh.
Đại thấy động, dẫn trai tráng ra cản, gặp ngay mũi tấn công của chàng Hai. Hắn trợn, nhưng cậy có nhiều người lại có thêm một trăm quân Ngô đóng ở nhà làng như hùm beo chực mồi, nên hăng hái quát tháo, thúc đẩy đồng bọn tiến lên.
Chỉ trừ dăm thằng manh tâm như Đại, còn thì chẳng người Hải Cẩu nào chịu đánh người Hải Cẩu. Chàng Hai trông thấy Đại trong đám đông, thúc ngựa phi thẳng vào, đập chết cả năm tên tay chân quẩn quanh Đại rồi túm cổ nó quăng về phía mình hô: “Trói lại”. Quân của Đại trở giáo, chạy theo ngựa chàng Hai xông lên tấn công quân Ngô.
Quân Ngô bị ba mật giáp công, chẳng hiểu quân nào tiến đánh nữa. Tướng giục quân, quân mải tìm vũ khí, lục đục trong nhà làng.Viên tướng nhặt nhạnh được hai chục quân có khí giới dẫn ra sân thì trai Lạc Việt đã tràn vào tứ phía, hắn chưa kịp chọn hướng đột phá, Đô Sơn đã nhảy tới như hổ vồ mồi. Chỉ một nhát kiếm chém chéo đầu hắn đã lìa khỏi cổ. Quân không tướng tự loạn.
Trai Lạc Việt vừa hò reo vừa tả xung hữu đột. Chàng Hai xông vào giữa loạn quân Ngô tìm Thái Cát, nhưng nó đã lủi mất rồi. Quân Ngô hoàn toàn tan rã. Chàng Hai dặn dò Đô Sơn mấy việc nên làm rồi phóng ngựa sang bộ lạc Câu Lậu.
*
Sau mấy này náo động, không khí bộ lạc Hải Cẩu trở nên yên tĩnh. Dưới ánh nắng ban mai rực rỡ, trong khu rừng thưa kề sán nhà Làng, toàn thể bộ lạc Hải cẩu tề tựu trong sân nhà làng nhất trí mời Đô Sơn giữ cây tù và - biểu tượng quyền tù trưởng. Tiếp đó, nhũng người thắng trận phát lạc lũ giặc hung ác.
Một cụ già lên tiếng đề nghị cách xử lũ tù binh Ngô:
- Bộ lạc ta bị tử trận bao nhiêu người thì giết bấy nhiêu tên Ngô, còn thì sinh phúc cho chúng.
- Không tính năm tên gian manh vào số người tử trận của chúng ta.
- Tất nhiên rồi! - Đô Sơn đáp - Không ai có thể làm ô danh những con người dũng cảm của bộ lạc ta bằng cách ấy được. Nhưng cha mẹ ơi, anh chị em ơi, giết nhiều mạng làm gì. Ta chỉ hành hình kẻ có nhiều tội ác với bộ lạc ta, lấy máu của nó rửa hờn cho những người thiệt mạng, còn thì tha hết.
- Không tha! - Một bà thét lớn - Bắt chúng ở lại cày ruộng cuốc đất cho ta.
- Thôi! - Tiếng cụ già nói ban đầu cất lên - Giết thì giết, không giết thì tha, chớ nuôi ong tay áo.
Đô Sơn đứng lên:
- Bọn Ngô thế là xong. Bây giờ, cha mẹ phân xử thế nào với bọn chó lạc loài kia - Anh chỉ lũ trai Lạc Việt gian manh, tay chân của Đại.
Nàng Tâm lên tiếng:
- Quân Ngô ta chẳng nỡ giết, thì ta cũng chẳng nên xuống tay với lũ ấy. Nhưng, để chúng ở bộ lạc thì bẩn mắt chúng ta, mà đuổi đi thì chúng lại lân la mà làm hại bộ lạc khác. Nhân có khách buôn Gia - Va đang ở ngoài bến sông, ta bán cho họ.
Vừa lúc ấy, chàng Hai phóng ngựa hộc tốc trở về, anh nhảy xuống đất, chẳng đoái hoài đến ngựa, bước sấn tới chỗ lũ Lạc Việt gian manh. Anh xoè tay về phía mặt Tô Đầu Đại. Đại không trúng đòn mà máu mũi máu mồm phun ra, nó ôm chặt đầu la hoảng như bị ma làm. Chàng dũng sĩ phát giác ra uy lực của bàn tay mình, anh tóm lưng áo Tô Đầu Đại quẳng vào giữa bãi trước đám đông. Anh nói lớn:
- Xin bộ lạc giao cho tôi xử thằng này!
Tội của tên Đại là làm tay sai cho giặc Ngô, dựa thế giặc Ngô chém giết cướp phá bộ lạc Câu Lậu dã man chẳng kém giặc Ngô. Tù trưởng Lương ốm nằm trên giường cũng bị giặc Ngô chém chết, gái trai già trẻ Câu Lậu bị giết hại quá nửa. Đô Hàm, nàng Sen mất tích.
Đại chắp tay lạy như tế sao:
- Tôi dâng trăm lạy nghìn lạy lên tráng sĩ, xin tráng sĩ tha cho cái mạng dê chó này.
Chàng Hai giậm chân lên lưng tên gian manh gầm lên:
- Câm ngay! Tao sẽ bóp nát từng cái xương, rồi xé xác mày ra để rửa nỗi hờn oan cho sinh linh Câu Lậu. Ta đưa mày vào rừng cho khỏi bẩn mắt già trẻ gái trai Hải Cẩu - những người từng cưu mang, đùm bọc mày.
Nói rồi, chàng dũng sĩ tóm lưng thằng giặc nhấc bổng lên như cầm con ếch, xoay mình vừa bước đi vừa dằn dằn kẻ đại ác với nguồn căm giận trào dâng ào ạt.
Bỗng một bà già chạy bổ ra ôm lấy chân chàng Hai và cất tiếng khóc vang, tiếng khóc của người mẹ mới thảm thiết làm sao.
Lòng chàng dũng sĩ xao xuyến. Anh ngừng chân cúi xuống hỏi:
- Bà mẹ muốn dạy điều chi?
Bà cụ vẫn khóc và chắp tay lạy lia lịa.
- Không nên thế! - Chàng dũng sĩ ngăn bà cụ - Trước mặt bất cứ hạng người nào, người mẹ có cũng quyền đúng thẳng.
Thấy bà cụ vẫn khóc, vẫn lạy, anh quẳng Đại xuống đất, hai tay nâng bà cụ đứng lên.
- Con ơi! - Bà mẹ đặt hai tay lên ngực chàng dũng sĩ, gục mặt vào ngực anh mà khóc hậm hức rồi ngẩng mặt nhìn thẳng vào mắt anh nói - Con ơi! Con người hùng mạnh bụng dạ sáng như sao băng ơi! Sao mẹ chẳng sinh ra một đứa con như con mà lại sinh ra thằng khốn nạn kia. Nó đáng tội chết lắm. Nếu cả lũ bạn bè nhơ bẩn của nó cùng bị giết, mẹ chẳng dám hé răng nói một lời. Nhưng, các bạn bè nó được sống, còn nó thì bị giết. Khi xuống dưới ấy, nó sẽ oán mẹ. Người mẹ đẻ ra nó, cho nó bú khi bé, may khố, vá áo cho nó khi lớn... ấy thế mà khi nó bị giết chẳng hề động tâm. Nó sống ở mãi xứ Gia-Va xa cách ngàn trùng nào đó, thì đối với mẹ cũng cầm bằng như nó đã chết.
Chàng dũng sĩ nghĩ tới mẹ, nghĩ tới nàng Sen, nghĩ tới... Bất giác, anh đẩy bà mẹ đứng ra xa, anh nói mà như nỗi lòng sầu thảm gào lên:
- Cớ sao một kẻ khốn nạn nhường ấy mà cũng có người mẹ!
Nói rồi, anh chắp tay vái khắp phía chào vĩnh biệt mọi người, đoạn sầm sầm bước về phía con ngựa đang thản nhiên gặm cỏ, nhảy lên lung nó, thúc nó chồm lên phi như cơn lốc đen ào vào rừng.
Anh muốn rời xa miền Giao Chỉ tràn ngập cảnh căm giận và thương tâm này thật nhanh, đi tới nơi anh mơ ước kia thật nhanh. Cha anh bảo: “Đó là vùng có nhiều mầm gây bão”. Bão, ừ bão phải nổi lên! Cơn giận dữ hãy sôi lên.
6.
Những người khác thường
Chàng Hai rong ruổi ngựa suốt ngày sang đêm; đêm tối mặc, còn biết đường, còn trông thấy đường là còn thúc ngựa đi tiếp. Anh vượt qua bình nguyên bờ Nam sông Hồng, trèo qua dãy núi Chanh Chè, tiến tới bờ Bắc sông Đáy. Anh dắt ngựa len lỏi dọc bờ sông tìm đò, mãi mới gặp chiếc lều dựng ghé lưng bên mô đất ven sông.
Một cụ già từ trong lều bước ra, giơ tay che cập mắt nhấp nháy nhìn khách lạ. Cụ hỏi:
- Khách muốn quá giang chăng? - Không đợi khách trả lời, cụ cầm tay khách vồn vã - Đi đâu cũng vào đây uống chén rượu mừng với lão đã. Bà nó ơi! Dưới bờ sông vọng lên tiếng đáp - Bà mang nhanh về nướng cho ông con tôi mấy chú cá to nhất! Nào, vào đây con!
Chàng Hai thấy ông cụ niềm nở mời chào liền nhận lời. Anh cúi rạp người xuống mới đưa được cái thân hình to lớn của mình vào lều. Anh ngồi xuống tấm phên trải hết nền lều, nhìn lên nghĩ bụng: Mình đứng thẳng lên thì cả nửa người thò trên mái lều.
Túp lều nhỏ, nhưng tấm lòng chủ rộng không chừng.
Vừa nhìn chủ nhà rót nước, chàng Hai vừa hỏi:
- Dòng sông lớn thế này mà con đi nửa ngày trời không gặp một bến đò ngang là cớ sao, thưa cụ?
Cụ già đẩy bát nước về phía khách, nhìn ra bến sông, cặp lông mày bạc trắng nhíu lại.
- Trước kia có rất nhiều, cách một thôi đường lại có một bến. Nhưng, vài tháng gần đây, thuỷ quan Ngô cấm hẳn đò ngang - Cụ thì thào - Họ sợ người Lạc Việt vào cửu Chân. Nghe phong phanh... - Cụ ngừng giây lát, nói tiếp: khách từ xa tới, sao dám bảo là sông này không có đò ngang? Đây là bến đò đấy! Bến đò Nghênh Phong - Cụ lại bất ngờ chuyển sang chuyện khác - Ờ, trông dáng con lão mến, ngắm mặt con lão tin. Lão nói thật với con chuyện kín này. Ấy, ấy! Anh ngồi lùi lại đây. Con trai lão là Phong bị bắt sang Kiến Nghiệp đã mười năm chẳng có tin tức về, Phong nó chưa về được, chỉ gửi bạn nó cho lão chiếc thuyền, chiếc thuyền mới tốt chi tốt lạ. Lão chẳng bao giờ nằm mơ được chiếc thuyền vững chắc đến thế. Nhờ con thuyền mà đời vợ chồng lão khấm khá, chẳng đến nỗi ăn bữa sáng lo bữa chiều. Ấy là chưa kể ngày nào bọn thuỷ quan Ngô cũng lảng đến cuỗm đi xách lớn, xách bé, mà toàn loại cá to nhất. Trông thấy thuyền càng nhớ tới em. Anh bạn em nó bảo: “Sẽ có ngày Phong trở về tìm cụ”. Thế là lão cắm sào lập bến ở đây chờ em. Lúc đầu, lão đặt là bến “Chờ con”, nhưng tên như vậy người ta dễ đoán ra, lão liền đổi thành bến “Nghênh Phong”. Bến này là bến dành riêng để chờ Phong và bạn nó chứ quyết không chở người khác quá giang. Bởi lão là dân chài chứ có phải là lái đò ngang đâu. Ấy thế.. nào anh cạn bát mùng cho lão!
Chàng Hai nắm tay ông lão chài đáp:
- Một ngàn người bị bắt sang Ngô chỉ có vài người sống sót, người ấy lại chính là Phong và bạn của anh ấy, con xin có lời mừng cụ - Anh buông tay, nén tiếng thở dài, nói tiếp - Nhưng mà... con vô duyên quá!
- Ừ, con không phải là bạn của Phong thì lão cũng tiếc thay cho con! Dẫu sao, cũng cứ uống rượu nhắm cá nướng với lão rồi đi tìm đò khác hãy đi. Ờ, lão áy náy cho con quá đấy! Biết làm sao được, lão thề rồi, thề độc quá kia chứ!
Chàng Hai trải biết bao trở ngại dọc đường còn chẳng bận tâm, há ngại một khúc sông. Song lúc này, lòng anh bồn chồn muốn đi nhanh, thật nhanh tới nơi anh định đến, nên ngồi nghe những lời bộc trực của cụ già mà lòng chết lặng.
Bà cụ bung cá nướng vào, ông cụ lấy hũ rượu, bát đũa ra bày tất cả ở giữa tấm phên.
Ông cụ xé cá, rót rượu đoạn giơ tay:
- Nào con! Người Lạc Việt nào qua đây lão cũng mời chứ chẳng riêng con đâu, thực tình nhé.
Mặc chồng và khách ăn uống, bà cụ ngồi sán bên khách lạ. Cụ ngắm khách, miệng lầm bầm ước lượng: “Phong nó có dễ nhỏ người hơn, đen hơn”. Một lát sau cụ lại rì rầm: “Phong nó cũng thích ăn đầu cá nướng như anh, nhai rôm rốp”. Cụ rụt rè đưa tay lần lên lưng, lên vai khách: “Dễ chừng to lớn hơn cả anh bạn của Phong đến hồi ấy”. Bàn tay cụ như bấu chặt lấy vai khách, cụ thì thầm: “Chừng nào con về với cha mẹ, hở Phong?”. Bất chợt, như dứt cơn bàng hoàng, cụ lấy ngón tay chấm khoé mắt, nói to:
- Áo con chưa có dây buộc, lát nữa mẹ khâu cho.
Ăn uống xong, chàng Hai cởi Trấn quái bảo y nhờ bà cụ khâu dải rồi sách tay nải xuống bến tắm. Cụ bà lấy đồ khâu vá ra khâu. Điều quái dị là bao nhiêu đồ ám khí của bọn Lục Kiệt phóng vào mà không sao xuyên thủng tấm Trấn quái bảo y, nhưng, bà cụ đưa mũi kim mỏng mảnh qua lại cứ như khâu là lụa. Khâu xong, cụ bà đặt tấm áo trên lòng, thủ thỉ với cụ ông về chàng trai trẻ. Vợ chồng cụ lái đò đang bàn tán về người khách lạ thì một người lạ từ dưới bến đi lên.
Một chàng trai cao lớn, mặc áo da hổ không tay, quần xanh chẽn ống, cổ tay đeo vòng đá, tóc chấm vai, ngang đầu thắt dải khăn đỏ, chân mang dép cỏ. Chàng ta nghễu nghện bước tới.
Cụ lái đò trợn ngược mắt, hai tay run run giơ lên hạ xuống:
- Ôi! Hổ Bì tráng sĩ! Chàng... Lạy Trời lạy Phật! Số phận nào đưa con đến nhà lão ở khúc sông hẻo lánh này? Cớ sao con không nói cho lão biết khi mới đến? Cớ sao... Thôi, thôi! Vào đây! Vào đây đã! Con là bạn của em nó, con biết không? Cũng cao lớn lắm. Vương Thiện ấy mà! Ờ, lẩn thẩn quá đi mất, Thiện ở bên Ngô về kia mà, người Câu Lậu đấy. Bây giờ cũng ở Cửu Chân. Chao ôi, bọn Ngô lùng con riết lắm, tưởng như chúng muốn lấy lưới lọc cả sông, lấy cuốc xới tung cả đất tìm con. ở trên kia kìa, chỗ tên huyện lệnh ấy - Cụ giơ tay chỉ hướng và vẫn nói tiếp - Chúng treo một cái cáo thị rõ to, viết những gì, những gì... gọn lại là tả hình dáng con. Ấy thế mà... "Chàng dũng sĩ mặc áo da hổ" đang sừng sững ở đây. Lúc này thì chẳng có lo gì cả, bọn Ngô không đi vào giờ này. Cứ vào nhà ăn uống rồi lão chở con sang bên kia. Vào đây! Vào đi! Vào ăn tiếp, uống tiếp rồi kể chuyện cho vợ chồng lão nghe cho sướng tai. Ôi chao, dân ở đây nghe sự tích của con họ sướng quá; mấy ngày liền họ bỏ ăn bỏ làm, chỉ tìm nhau hỏi chuyện, kháo chuyện ấy thôi. Đánh thằng Ngô, đánh vỗ mặt thằng Ngô thì người Lạc Việt nào chẳng sướng. Sướng lắm! Nào uống đi! Ăn uống sao cho xứng danh dũng sĩ Lạc Việt.
*
Chàng Hai sang bên kia sông, đi một đỗi đường vẫn chưa sao quên nổi tấm lòng quý hoá của vợ chồng cụ lái đò. Anh mong chàng Phong hiếu thảo mau mau trở về với mẹ cha và ước ao gặp chàng Vương Thiện nào đó mà cụ lái đò hết sức ca ngợi.
Đường đi mỗi lúc một khó. chàng Hai dắt ngựa dưới chân núi đã gập ghềnh. Anh phải vượt qua rặng đá vôi trước lúc chiều xuống nếu không thì bị nghẽn ở bên này tới sáng mai. Và, như cụ lái đò bảo, bọn Ngô đi tuần buổi sáng dễ dàng phát hiện ra anh. Toán tuần tiễu ấy chẳng đáng ngại, điều đáng ngại là chúng có thể báo động liên hoàn và tất nhiên trên con đường anh sắp đi tới sẽ nhan nhản các ổ phục kích náu mình sau bụi rậm, các tốp thám mã vùn vụt xuôi ngược, các đội tuần tiễu nườm nượp đi lại.
Anh dắt ngựa trèo lên dốc núi thoai thoải. Đứng trên đỉnh dốc nhìn xuống chỉ thấy rừng, xa nữa vẫn là rừng, rừng thấp nối rừng cao trập trùng vô tận.
Anh dắt ngựa xuống dốc. Dốc quá, đá tai mèo lởm chởm. Con ngựa bước đi bước trượt. Gần xuống hết dốc thì con ngựa trượt chân, chụm cả bốn vó lại. Anh phải choãi chân đỡ cho nó khỏi ngã. Nhưng rồi chính anh cũng trượt chân không có thể giúp đỡ ngựa. Con ngựa lăn xuống đất như một cái thùng và không đứng dậy được.
Anh xem xét các vết thương của ngựa. Hỏng rồi, hai chân trước đều bị gãy, xương sườn cũng gãy. Anh ôm cổ ngựa như ôm người bạn thân tình của mình. Không, nó không phải là con vật mà là người bạn thuỷ chung của anh suốt chặng đường gian truân dài dằng dặc, khi đói, khi no, lúc mưa nắng, khi đêm tối trong khu rừng vắng vẻ, lúc ào ào xông pha chiến trận, anh và nó chẳng bao giờ rời nhau, luôn tìm cách lại gần nhau, săn sóc giúp đỡ nhau.
Anh xoa cổ, xoa mặt ngựa than thở:
- Ngựa ơi, ta đành bất nhẫn mà bỏ mày lại đây.
Con ngựa chừng như hiểu, nó đau đáu nhìn chủ và cất tiếng hí rầu rĩ.
Chàng Hai cứ đi mấy bước lại ngoái cổ nhìn ngựa khi không còn phân biệt nổi hình thù của nó anh mới cắm cúi đi vào rừng. Tìm thấy đường mòn, anh theo đường mòn mà đi. Tối đó, anh nghỉ trong rừng, ngay giữa đường đi. Trời chưa sáng hẳn, anh đã trở dậy đi tiếp. Có cuốc bộ mới thấy công lao to lớn của con ngựa đối với người vượt đường dài và do đó anh càng nhớ ngựa. Gần trưa, trông thấy tảng đá như chiếc ghế đặt bên đường, anh tạt vào ngồi nghỉ, móc lấy gói cá nướng của ông bà lái đò cho, mở ra ăn. Ăn xong, anh với tay tìm ống nước, thì ống nước đã rơi từ lúc nào không biết. Anh lau tay xuống cỏ và “chà chà, chậc chậc” luôn miệng.
Chợt, một toán người từ phía trong đi ra. Người đi đầu cưỡi ngựa, vài chục người đi bộ đằng sau, người nào cũng gồng gánh. Đến gần... thì ra Lâm quan dẫn phu đi lấy quế.
Chàng dũng sĩ vẫy tay bảo tên Ngô:
- Xuống ngựa, bảo cái này!
Tên Lâm quan đặt tay lên chuôi kiếm, trợn tròn mắt nhìn kẻ dám nói lời ngạo mạn với mình. Hắn quát:
- Thằng mọi, mày muốn chết phải không?
Chàng Hai đứng phắt dậy, quát to:
- Xuống ngựa!
Tên Lâm quan đờ người nhìn chàng “dũng sĩ mặc áo da hổ” kiếm lớn bên hông, cung cứng trên vai, tay cầm cây chày đồng khổng lồ đứng lù lù trước mặt, hắn co cương toan quay đầu tháo chạy.
Chàng dũng sĩ vẫy tay bảo:
- Chớ dại dột! Chân ta phóng nhanh hơn chân ngựa, mũi tên đeo sau lung ta lại bay nhanh hơn chân ta. Xuống ngựa ngay lập tức đừng để ta ghim ngươi xuống lưng ngựa.
Tên Lâm quan không dám trái lời, hắn lúng túng mãi mới rút chân ra khỏi bàn đạp, hắn tuột xuống đất, chân tay run lẩy bẩy, mặt cắt không còn hạt máu.
Chàng Hai mặc tên Ngô đứng trơ mắt như trời trồng giữa đường, lên tiếng hỏi toán phu bóc vỏ quế:
- Anh em có nước, cho xin một ít!
Tên Lâm quan vẫn chưa hết run, nhung nó phản ứng nhanh hơn cả những người phu nhanh nhẹn nhất, nó hất hất đầu về phía một người phu ăn mặc tử tế hơn cả toán phu. Anh này mang cơm rượu của tên Lâm quan. Anh ta chạy đến và theo hiệu tay của chủ, hạ ngay gánh và soạn rượu thịt ra.
Tên Lâm quan mời chàng dũng sĩ dùng rượu thịt và xin tha mạng. Chàng Hai không khách sáo. Vừa ăn một gói tướng cá nướng mà anh vẫn ăn như chim sẻ được ngày mùa; chỉ một loáng, đồ ăn thức uống dự bị cho hai ngày của tên lâm quan hết sạch. Ăn xong, anh đứng dậy, gõ ngón tay xuống trán tên Lâm quan bảo:
- Ta chưa tha tên giặc Ngô nào dám buông lời hỗn láo với ta. Nhưng thôi, con ngựa sẽ thế mạng cho mày.
Mặc tên Ngô vâng dạ luôn miệng Hổ Bì tráng sĩ nhảy lên ngựa phóng đi. Anh thúc ngựa chạy liên tiếp ngày sang đêm, đêm mà biết đường và còn trông thấy rõ đường vẫn đi. Qua sông Mã, hỏi đường đi, đi tiếp. Ngựa chạy mệt sùi bọt, anh mới dừng lại nghỉ. Chính vì vậy mà anh đi lạc vào vùng Ngàn Nưa. Nhờ người thợ săn chỉ dẫn, anh giật ngựa rẽ ngang theo đường tắt, đi chéo lên ra sông Mã. Người ngựa đi lên đoạn đèo hẹp, hai bên là đồi trọc um tùm cỏ lau, phía trước núi đồi nhấp nhô lan mãi ra xa.
Một cô gái cao lớn đứng giữa lưng đèo, lặng ngắm cảnh vật bao la, vó ngựa gõ phía sau vẫn dửng dưng như không.
Chàng Hai lên tiếng:
- Tránh ra, nhờ một tí?
Cô gái không quay lại, mắt không rời cảnh vật cô đang quan sát.
Chàng dũng sĩ buộc phải dừng ngựa, quát to:
- Cô gái bướng bỉnh, hãy tránh ra! Ngựa của ta không thể đi đường vòng.
Cô gái quay lại, toan tránh, nghĩ sao lại chớp chớp mắt nhìn chàng Hai, cao giọng bảo:
- Tôi chỉ nhường đường khi biết tráng sĩ là ai!
- Nàng hãy tránh ra! Ta không xưng tên tuổi mà cũng không nhiều lời.
Cô gái không đáp, khoanh tay trước ngực, ngắm chàng kỵ sĩ chằm chằm.
Chàng Hai cau mày nói:
- Đường ta đi còn dài, còn lắm chông gai đèo dốc. Ta không có lòng nhịn nhục, đừng làm ta nổi giận!
Cô gái đặt tay lên chuôi kiếm, hất đầu bảo:
- Vậy thì, rút kiếm ra!
Chàng Hai nhảy luôn xuống ngựa. Anh cắm cây chày đồng xuống đất, bước tới đứng đối diện với cô gái lạ.
Hai người rút kiếm, mỗi người chém một nhát, chàng Hai chém trước.
Chàng dũng sĩ bảo:
- Khá lắm, ngươi là người đầu tiên đỡ nổi nhát kiếm của ta.
Lúc đầu hai người còn đánh nương nhau, sau hăng hái lên, đâm chém nhau thực sự. Họ đưa nhau lên đồi mà quần thảo. Quần thảo từ sáng tới trưa, từ trưa tới chiều, cỏ lau rạp đổ như có chạc con voi giày xéo.
Trời xẩm tối. Cô gái dừng kiếm bảo:
- Chàng ngủ mé đồi Bắc, ta ngủ mé đồi Nam, sáng mai quyết phân thua được.
Hôm sau, chim chóc vừa cất tiếng chào bình minh họ đã vùng dậy, gọi nhau cầm kiếm lên đỉnh đồi. Họ quần thảo kịch liệt hơn ngày hôm trước. Tới trưa, chàng trai chợt gạt kiếm nhảy lùi bảo:
- Nghỉ tay ăn đã!
Cô gái ngồi phía đồi Nam, chàng trai ngồi mé đồi Bắc. Họ xoay lưng về phía nhau. Họ quần thảo tới tối. Ngọn đồi như có trăm voi giày xéo.
Ngày thứ ba, họ lại quần nhau, quyết liệt hơn ngày thứ hai, mới trưa mà ngọn đồi như có ngàn voi giày xéo. Chàng Hai bỗng lùi lại giắt kiếm vào bao cầm chày đồng nhảy lên ngựa.
- Ta có việc cần đi không thể ở đây cùng nàng so tài hết ngày, hết tháng, hết năm - Anh giơ cao cây chày đồng sấm sét nói tiếp - Mà dùng thứ này áp đảo nàng thì ta không nỡ.
Nói rồi, anh thúc ngựa phi xuống đường đèo.
Cô gái bàng hoàng như đánh mất thứ quý giá nhất đời, cô gái gọi với, tiếng cô ầm vang, khe núi ngọn cây cùng nhắc lại:
- Hãy khoan! Tráng sĩ ơi, hãy khoan!
Cô gái ấy chính là Triệu nương - Người con gái kiệt hiệt nhất Lạc Việt thời đó. Chàng Hai không biết điều ấy nên cứ thúc ngựa phóng thẳng, anh ngoái cổ đáp:
- Nếu có duyên tình với đất nước, ắt có phen hội ngộ.
Anh thúc ngựa phi nước đại không nghỉ, cố bù lại mấy ngày lấn bấn vì cô gái ở lưng đèo. Con ngựa không chịu nổi sức nặng của chàng dũng sĩ và cây chày thần, chưa tới bờ sông Mã nó đã quỵ xuống, đứt ruột mà chết. Chàng dũng sĩ đứng tần ngần nhìn xác ngựa, thở dài một tiếng rồi xoay người rảo bước. Tối ấy, ở giữa vùng rừng núi trùng điệp, chàng Hai sực nhớ tới sự kỳ dị của bàn tay và muốn thử xem sự thể ra sao. Anh xoè tay đẩy về phía trước. Không có hiện tượng gì xảy ra sao. Anh xoè tay đẩy về phía trước. Không có hiện tượng gì xảy ra! Anh đẩy bần tay mở rộng lần nữa. Vẫn vậy, chỉ vẳng nghe tiếng cỏ xào xạc. Anh chợt nghĩ hiện tượng dị kỳ xảy ra từ khi anh có Tây Vu bảo khí. Anh cầm chày và tiếp tục làm thử. Thật kinh dị, đám cỏ lau rạp xuống như bị làn gió mạnh lướt qua. Anh nhứ như bàn tay về phía cây thông, cây thông nghiêng ngả như bị lay gốc. Chàng dũng sĩ đứng thẳng người, tay cầm chắc Tây Vu bảo khí, xoè bàn tay, vận nội lực, gườm gườm nhìn cây thông rồi đẩy mạnh bàn tay. Chàng dũng sĩ bàng hoàng bởi sức mạnh của bàn tay. Chàng dũng sĩ bàng hoàng bởi sức mạnh của chính mình! Cây thông bị gãy ngang, rào rào đổ cuống như bị bẻ. Chàng Hai cảm tạ trời đất, tổ tiên đã ban cho mình phép lạ. Sau này, khi đã lên thượng nguồn sông Mã, hàng ngày anh bí mật luyện công phu.
Trời rạng sáng, chàng Hai hăm hở lên đường, trong lòng náo nức: “Lạy mẹ, con sắp tới nơi mẹ muốn con đến. Chắc chắn có phen con trở về làng Cao gặp mẹ, chắc chắn con tìm thấy nàng Sen, chắc chắn...”. Bỗng tiếng vó ngựa từ con đường hẻm sườn đồi vẳng đến. Chàng Hai nghĩ đến quãng đường dài phải đi, liền bước ra sau bụi rậm ven đường ngồi chờ.
Năm kỵ sĩ thản nhiên cho ngựa chạy nước kiệu, mỗi lúc một gần. Kỵ sĩ dẫn đầu to lớn, cầm thiết côn; kỵ sĩ đoạn hậu bé nhỏ, đeo bảo kiếm. Chàng Hai đoán là khách lục lâm nên yên lòng thực hiện ý định. Đợi bốn kỵ sĩ đi đầu phóng ngựa qua, chàng Hai từ bụi rậm bấm chân nhảy vút lên lưng con ngựa đi cuối cùng, gạt kỵ sĩ xuống đất, cướp ngựa phóng thẳng.
Kỵ sĩ bị cướp ngựa toan móc ám khí, nhưng biết người cướp ngựa của mình là Hổ Bì tráng sĩ, lại thôi.
Chàng dũng sĩ hành động mau lẹ đến nỗi khi anh phi ngựa vụt qua cả bốn kỵ mã, viên tướng lục lâm chuyên cướp ngựa mới biết là chính mình cũng bị cướp ngựa.
Viên tướng cầm thiết côn giục ngựa đuổi theo, ngựa của gã chạy nhanh chẳng mấy chốc đã đuổi kịp chàng Hai. Gã quát bảo:
- Muốn sống trả lại ngựa! Chậm trễ ta cho ăn một gậy!
Chàng Hai co cương. Con ngựa đang phi bỗng bấm hai chân trước tung hai chân sau rồi bấm hai chân sau dựng hai chân trước, quay ngoắt lại, suýt chồm lên đầu ngựa của tên cướp. Chàng dũng sĩ điều khiển ngựa tài tình đến mức tên tướng cướp xuất thân từ nghề giám mã cũng phải thán phục, gã vội cho ngựa lùi lại.
Hổ Bì giơ cây chày đồng nói:
- Kẻ này muốn dùng gậy xua chó doạ ta chăng? Ta đánh bên trái đấy, cố đỡ nhé!
Tên tướng cướp vốn có sức địch muôn người, cuộc đời gã chưa từng gặp đối thủ. Gã định đỡ cú đánh đoạn hành côn thúc cho kẻ hợm hĩnh một đốc côn thật lực, đỡ nổi cũng đủ lao đao khốn khổ. Không ngờ, chính cây gậy sắt chưa hề thua ai bị cong như lưỡi câu và toàn thân tướng cướp rung động mạnh, cố gượng mới khỏi ngã ngựa.
- Khá lắm - Chàng dũng sĩ ra đòn xong, ngoắt đầu ngựa phóng liền chỉ ngoái lại nói - Thôi, ta đi đây! Đã cướp ngựa lại còn ăn hiếp chủ thì không đáng là dũng sĩ Lạc Việt.
- Tráng sĩ, tráng sĩ! - Viên tướng cướp hốt hoảng kêu lên - Dùng lại, tôi tình nguyện hiến ngựa. Tôi muốn tặng tráng sĩ con ngựa tôi đang cưỡi. Tướng mạnh nhờ sức ngựa, ngựa của tôi mới là tuấn mã.
Chàng Hai vẫn khom mình trên lưng ngựa, thúc nó sải nước đại:
- Ta bận lắm! Nếu có duyên ắt có phen gặp nhau.
Viên tướng cướp gò cương trông theo tới khi bóng người ngựa chàng dũng sĩ khuất vào rừng rậm bạt ngàn, mới rầu rầu quay đầu ngựa, thả nước một đi vào lối cũ. Gã phóng tầm mắt hướng nẻo đường hun hút, tự hỏi: Ai vậy? Nghe tiếng quen, trông dáng cũng quen, ta gặp người này ở đâu? Gã nhìn cây thiết côn. Cây thiết côn ghê gớm này từng đập chết cọp lớn, quất chết nhiều tướng mạnh... Chưa định thủ nào khiến gã phải sử dụng đến hai đường côn thế mà giờ đây cây thiết côn bách thắng trở thành cái câu liêm thảm hại. Con người hùng tráng ấy là ai vậy?
Vừa lúc đó, gã bé nhỏ bị cướp ngựa dùng thuật khinh công lướt tới. Viên tướng cướp thổ lộ tâm can:
- Hồi còn ở ngoài Giao Chỉ, ta gặp chàng Ba bên bờ sông Hồng là đối thủ ta không thể nào thắng nổi. Chàng Ba bảo ta: Hai chàng Ba bằng Thiện, năm chàng Ba bằng chàng Cả, mười chàng Cả cũng không thể bằng chàng Hai. Người lạ mặt ấy là ai?
Gã bị cướp ngựa đáp:
- Kẻ cướp ngựa ấy chính là chàng Hai!
Viên tướng cướp ngựa ngửa mặt nhìn trời than:
- Trời, ta vô duyên quá!
Gã bị cướp ngựa nhớn chân, hỏi:
- Huynh trưởng cho tiểu đệ dùng thuật phi hành đuổi theo mời lại?
Viên tướng cướp lắc đầu bảo:
- Chẳng nên làm cái chuyện tìm chim bắt bóng. Nếu khí thiêng Lạc Việt anh minh, hẳn có phen anh hùng hội ngộ.
Gã bị cướp ngựa là phiêu diêu lãng tử Trình Quang. Viên tướng cướp là Vương Thiện.