Xét về mặt di truyền, ADN của nam và nữ giống nhau đến 98,5%. Tuy vậy chỉ cần một vài gen khác nhau mang tính quyết định, Thế giới đã xuất hiện “Một nửa thế giới” vô cùng ngọt ngào và đáng yêu. Những sự khác biệt về mặt y sinh học đó bao gồm:
1. Có sự khác biệt trong cách cấu tạo bộ não của nam giới và nữ giới, cách chúng xử lý thông tin và tương tác với các tín hiệu hóa học. Đàn ông có nhiều chất xám chứa thông tin hơn nhưng phụ nữ có nhiều chất trắng để kết nối các phần khác nhau của não bộ hơn, dẫn đến phụ nữ sử dụng cả hai bán cầu não nhiều hơn nam giới nhờ hệ thống chất trắng nhiều hơn giúp kết nối hai bán cầu và tương tác giữa các trung khu thần kinh. Năm 2014, các nhà nghiên cứu tại Đại học Pennsylvania đã chụp ảnh não của 428 thanh niên nam và 521 thanh niên nữ phát hiện ra rằng não của nữ giới thường xuyên cho thấy hoạt động phối hợp mạnh mẽ hơn giữa các bán cầu, trong khi hoạt động não của nam giới thường diễn ra mạnh mẽ ở những vùng não cục bộ.
2. Bé gái phát triển não phải nhanh hơn bé trai dẫn đến biết nói, từ vựng, phát âm, đọc sớm hơn bé trai trong khi những kỹ năng thị giác, không gian, logic, kỹ năng cảm nhận, giải quyết vấn đề, xây dựng và tìm ra các câu đố… bé trai có phần trội hơn. Các bé gái quan tâm đến đồ chơi có khuôn mặt hơn các bé trai, điều đó giải thích vì sao bé gái yêu thích thú nhồi bông, búp bê. Tỷ lệ mắc chứng khó đọc của trẻ em trai cao gấp 10 lần so với trẻ em gái và các bé trai cũng có khả năng được chẩn đoán mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ (ASD-Autism Apectrum Disorder) cao gấp 4 hoặc 5 lần so với bé gái.
3. Phụ nữ có khả năng lưu giữ những ký ức sống động và mạnh mẽ về các sự kiện tình cảm hơn nam giới. Họ nhớ lại nhanh hơn và những ký ức mà họ nhớ lại cũng phong phú, mãnh liệt hơn. Xin đừng làm người phụ nữ buồn, các bạn nhé! Vì ký ức sẽ khó phai mờ.
4. Đàn ông thường có lớp da dày hơn (khoảng 25%) với mật độ protein collagen ở da nhiều hơn. Nam giới cũng có hệ xương, gân và dây chằng dày đặc, chắc khỏe hơn. Chính điều này làm người đàn ông thiếu đi sự… uyển chuyển và mượt mà. Tuy hệ cơ xương khớp nam giới nhanh và mạnh mẽ hơn nhưng cơ bắp của phụ nữ dễ dàng chống lại sự mệt mỏi cũng như phục hồi nhanh hơn.
5. Cả hai giới đều đạt khối lượng xương cao nhất vào khoảng tuổi 30. Ở tuổi 40, đàn ông và phụ nữ bắt đầu mất xương. Thời kỳ mãn kinh làm tăng tốc độ mất xương ở phụ nữ dẫn đến việc phụ nữ từ 51 đến 70 tuổi cần nhiều hơn nam giới cùng độ tuổi khoảng 200 miligam (mg) canxi mỗi ngày. Trung bình cần cung cấp 1.200 mg canxi mỗi ngày đối với phụ nữ và 1.000 mg mỗi ngày đối với nam giới. Nhu cầu Vitamin D cũng vậy, cả hai giới đều cần nhưng ở phụ nữ mãn kinh thì nhu cầu này càng quan trọng để giúp cơ thể hấp thụ canxi.
6. Nhu cầu kẽm nói chung là tương tự nhau ở cả hai giới nhưng phụ nữ mang thai và sau mãn kinh cần nhiều kẽm hơn. Cả hai giới đều dự trữ kẽm trong xương tuy nhiên nam giới còn dự trữ kẽm ở tuyến tiền liệt. Và kẽm là một trong những kim loại vô cùng quan trọng đối với sức khỏe sinh lý đàn ông vì chúng giúp phục hồi những tế bào tiền liệt tuyến, tăng khả năng di chuyển của tinh trùng, tăng cường chức năng sinh lý cũng như ngăn ngừa nguy cơ bị ung thư tuyến tiền liệt.
7. Từ khoảng 14 đến 51 tuổi, phụ nữ thường cần nhiều sắt hơn nam giới vì giới nữ bị mất máu trong chu kỳ kinh nguyệt. Folate là một loại vitamin thiết yếu mà nam và nữ đều cần nhưng nó đặc biệt quan trọng đối với phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Khi mang thai, phụ nữ cần đủ folate để hỗ trợ cho sự phát triển thần kinh của thai nhi.
8. Trên bàn tay, ngón tay dài thứ hai đối với hầu hết phụ nữ là bên cạnh ngón tay cái (ngón trỏ). Nhưng đàn ông thường không phải vậy, nam giới thường có ngón đeo nhẫn (ngón bên cạnh ngón út) dài thứ hai.
9. Đàn ông và phụ nữ có lượng mỡ trong cơ thể khác nhau với khoảng 10% nhiều hơn ở nữ giới và chủ yếu để hỗ trợ sinh lý sinh sản. Khi chất béo cơ thể của một phụ nữ xuống quá thấp, cô ấy sẽ ngừng kinh nguyệt. Phụ nữ thường tích trữ mỡ ở hông và đùi còn nam giới thường trữ mỡ ở quanh dạ dày. Trong quá trình tập thể dục, nhiên liệu (năng lượng) đốt cháy chính của phụ nữ là chất béo còn đối với nam giới, đó là carbohydrate.
10. Nam giới bình thường có nhiều tế bào hồng cầu hơn nữ giới (khoảng 4,7–6,1 triệu tế bào trên mỗi microlit so với 4,2–5,4 triệu tế bào ở nữ giới). Nam giới cũng thường có huyết áp cao hơn nữ giới, bất kể chủng tộc hay sắc tộc.
11. Nữ giới nhạy cảm với nhiệt độ, mùi vị và nhận biết màu sắc tốt hơn nam giới.
12. Phụ nữ có nguy cơ bị trầm cảm trong đời sống cao gấp đôi nam giới. Ngược lại, nam giới có nguy cơ nghiện rượu hoặc phụ thuộc vào ma túy cao gấp đôi nữ giới. Nam giới ít đi khám sức khỏe định kỳ và khi đi khám, họ có nhiều khả năng che giấu hoặc nói dối về các triệu chứng, bệnh tật của mình hơn phái nữ.
13. Với nữ giới, những vấn đề sức khỏe nổi bật “chỉ riêng mình ta” bao gồm ung thư vú, ung thư buồng trứng và cổ tử cung, thiếu máu mạn tính do kinh nguyệt, thiếu canxi và loãng xương sớm do mãn kinh. Trong khi với nam giới đó chính là ung thư tuyến tiền liệt, ung thư thực quản và ung thư tinh hoàn.