Ung thư xương (tế bào ung thư phát sinh tại chỗ hoặc di căn từ cơ quan khác đến xương) là tên gọi rất ám ảnh, tuy nhiên thực tế nó không thường gặp đến mức như mọi người vẫn nghĩ. Trong bài viết này, bác sĩ xin được gửi đến các bạn những thông tin cơ bản nhất về căn bệnh này nhé!
1. Ung thư xương rất hiếm gặp, đặc biệt là nhóm ung thư xương nguyên phát (tế bào ung thư phát sinh tại xương, nhóm này chỉ chiếm khoảng 0,5% trong tổng số các loại ung thư). Ung thư xương thứ phát (tế bào ung thư “chạy” từ cơ quan khác đến xương) hay gặp hơn, nhưng tổn thương này lại thường ở người già do di căn từ ung thư phổi, ung thư đường tiêu hóa, ung thư tuyến tiền liệt, ung thư vú…
2. Với ung thư xương nguyên phát, người ta phân ra các nhóm chính bao gồm: ung thư tế bào tạo xương, ung thư tế bào tạo sụn, ung thư tế bào liên kết xương, u tế bào khổng lồ ác tính, bệnh Sarcome Ewing, u nguyên sống, u men các xương dài. Liệt kê ra cảm giác nhiều như vậy nhưng thực tế tỷ lệ người bị ung thư xương nguyên phát rất thấp (khoảng 0,5% trong tổng số các loại ung thư) và loại ung thư này hầu hết gặp ở trẻ em với tỷ lệ nam nhiều hơn nữ một chút.
3. Với ung thư xương thứ phát, tỷ lệ gặp có nhiều hơn nhóm nguyên phát, tuy nhiên những tổn thương này thường xuất hiện ở người lớn tuổi và không có sự khác biệt về tỷ lệ mắc ở hai giới. Với nhóm tổn thương này, ung thư phổi là ung thư hay di căn đến xương nhất (khoảng 30% ung thư thứ phát tại xương có nguồn gốc từ ung thư phổi), tiếp đến là ung thư vú ở nữ giới (~24%), đa u tủy xương (~13%), ung thư đường tiêu hóa (~9%) và ung thư tiền liệt tuyến ở nam giới (~8%).
4. Về chẩn đoán phát hiện bệnh, triệu chứng nổi bật nhất là đau nhức xương, đau thường khu trú một vị trí nhất định, đau tăng về đêm và cường độ cũng tăng dần theo thời gian. Để giúp chẩn đoán xác định ung thư xương (cả nguyên phát và di căn), bệnh nhân cần được thực hiện một số thăm dò như chụp phim X-quang xương các bình diện, chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ vùng tổn thương, đo xạ hình xương, sinh thiết vùng tổn thương để xét nghiệm tế bào học. Ngoài ra khi nghi ngờ là ung thư xương do di căn từ cơ quan khác đến, chúng ta cần thực hiện thêm một số thăm dò bổ sung để đi tìm khối u nguyên phát như chụp X-quang phổi, siêu âm tuyến vú-tuyến giáp-tuyến tiền liệt, xét nghiệm yếu tố ung thư trong máu, nội soi dạ dày-đại tràng, chụp PET-CT…
5. Về điều trị, với ung thư xương nguyên phát ở người trẻ, sử dụng hóa chất kết hợp phẫu thuật loại bỏ vùng tổn thương u cho kết quả rất khả quan, tỷ lệ sống trên năm năm có thể lên đến 70%. Gần đây, xạ trị chọn lọc vùng tổn thương cũng đã mang đến những kết quả khả quan. Với ung thư xương thứ phát, tiên lượng kém hơn vì nhóm bệnh này thường xuất hiện ở người lớn tuổi, kèm theo có tổn thương ung thư ở một hoặc nhiều cơ quan khác (nguyên phát). Chiến lược điều trị ung thư xương thứ phát phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như thể trạng bệnh nhân, ung thư nguyên phát là ở cơ quan nào, ung thư di căn đến một xương hay nhiều xương, quyết tâm của bệnh nhân và gia đình… Ở đó, mục đích ưu tiên trong điều trị vẫn là chất lượng sống (giảm đau) cho bệnh nhân.
6. Dự phòng ung thư xương bằng cách nào? Với khối u xương nguyên phát ở trẻ em thì gần như chúng ta chưa kịp thực hiện dự phòng gì được cả, cơ bản nhất là lưu ý khi thấy trẻ nhỏ kêu đau cố định một vị trí xương nào đó trên hai tuần thì cần đưa đi khám ngay. Dự phòng với ung thư xương thứ phát, đó chính là “cách sống”: ăn uống hợp vệ sinh, có chọn lọc, cân bằng, vừa đủ, luôn có một quỹ thời gian để thể dục thể thao đều đặn hàng ngày, kiểm tra sức khỏe định kỳ sáu tháng một lần, giữ một tâm hồn thư thái, độ lượng và bao dung, lấy nụ cười làm thang thuốc bổ cho chính mình và gửi tặng đến mọi người… các bạn nhé!
Ung thư di căn xương đốt sống ở bệnh nhân nam 74 tuổi.
Bác sĩ khám ngày 24/3/2021 tại Việt Đức