Mưa rào cuối mùa như trút từng trận nước xuống. Dòng thác gần nhà đục ngầu, ầm ầm cuốn cây cối, gỗ, nứa lao xuống vực sâu. Nước ứ lại, rừng bỗng thành ra lụt.
-Tình hình này có lẽ không đi được mất! - Tôi lo ngại nói với đồng chí Định, đội trưởng cảnh vệ, chỉ huy chúng tôi.
-Cứ chuẩn bị đi. Bác đã quyết thì khó khăn mấy cũng không thể hoãn được - Đồng chí Định trả lời.
Đêm ấy, chúng tôi cùng nhau chuẩn bị súng đạn, quân trang và sáu ngày gạo, thực phẩm để sớm mai lên đường. Riêng tôi được phân công mang thêm quần áo, chăn màn của Bác. Đồng chí Tô thì mang thêm dụng cụ cấp dưỡng gồm có một cái nồi đủ nấu cho bảy người ăn, một cái bát và đôi đũa của Bác. Thức ăn khô chuẩn bị dọc đường có một hộp muối, một ống nứa vừng, một ống "thịt hộp Việt Minh". Ba thứ này phân chia mỗi đồng chí mang một thứ. Ngoài ra mỗi người còn có một cuộn giây nữa. Đồng chí Nhất và đồng chí Tháng được giao ra cửa rừng chuẩn bị ngựa cho Bác.
Khoảng tám giờ tối, Bác tới họp với chúng tôi. Tôi còn nhớ những điều Bác dặn:
-Chuyến đi này rất quan trọng. Thời gian không thể định trước được, nhưng ước khoảng trên một tháng. Đường đi khá vất vả, vì vậy các chú đều phải cố gắng để làm tròn nhiệm vụ của mình. Phải tuyệt đối giữ bí mật, vì nếu lộ ra sẽ hại tới việc lớn. Muốn vậy, từ việc chọn đường đi, tới nơi ăn, nơi ở, giao thiệp với dân, đều phải biết cách giữ gìn.
Bác còn dặn tỉ mỉ từ chuyện lấp "hố mèo" đến chuyện xoá dấu vết trước khi đi v.v...
Họp xong, Bác bảo đi ngủ sớm để mai lên đường.
Sáng hôm sau, may quá, cả đêm trước không mưa, đường đỡ lầy lội nhưng trời vẫn mòng mọng những nước. Lúc Bác cháu chúng tôi lên đường. Anh em được phân công ở lại trông nhà theo tiễn quyến luyến mãi. Bác bảo:
-Các chú về trông nhà cho tốt. Lần sau Bác sẽ cho đi.
Đây là lần đầu tiên Bác cho chúng tôi đi theo tới sáu người, thường ra chỉ một hai người.
*
Đi được non một giờ thì gặp đồng chí Thắng dắt ngựa chờ sẵn (chúng tôi sợ, mới bắt đầu đi đã mang theo ngựa, Bác sẽ không bằng lòng, nên để đồng chí Thắng dắt ngựa đi trước). Chúng tôi mời Bác lên ngựa.
Quả đúng như dự kiến của chúng tôi, Bác không ưng, Người bảo:
-Chúng ta có bảy người, ngựa chỉ có một con, Bác cưỡi sao tiện.
Đồng chí Định cố nài:
-Thưa Bác, chúng cháu còn trẻ, Bác đã nhiều tuổi, đường lại xa, công việc nhiều, xin Bác lên ngựa cho.
Bác nói:
-Ừ, các chú đều còn trẻ cả, để đi đường xem các chú có theo kịp Bác không.
Cuối cùng, Bác giải quyết:
-Thôi được, các chú mang theo ngựa để nó đỡ hộ ba-lô, gạo. Trên đường đi ai mệt thì cưỡi, Bác mệt, Bác cũng sẽ cưỡi.
Chúng tôi đành vâng lời, dắt- ngựa theo.
Nhờ đêm qua không mưa, nên việc vượt qua những con suối nhỏ ở chặng đầu không đến nỗi khó khăn lắm. Nhưng ra khỏi Thành Cóc thì gặp con suối lớn chảy về chợ Chu. Dòng suối này vẫn còn đang cơn nước lũ. Những gốc cây, những khúc gỗ mục đang lao băng băng tưởng chừng không có cách nào qua được. Chúng tôi men theo bờ suối tìm mảng, hoặc kiếm một cái cây cao nào để có thể ngả tạm làm cầu, nhưng quanh đấy đều không có một thứ gì cả.
Có đồng chí đề nghị Bác tạm nghỉ lại bên bờ suối, chờ nước rút sẽ đi. Bác không đồng ý, Người nói:
-Trời còn có thể mưa, ta sẽ chờ đến bao giờ? Phải tìm mọi cách mà qua mới được.
Nghe lời Bác, tôi đi một quãng xa nữa xuống phía dưới thì thấy bên kia bờ có một chiếc mảng khá tốt được buộc chắc vào một gốc cây. Tôi báo cho đồng chí Định biết, rồi toan bơi sang lấy. Bác cản lại và bảo:
-Phải buộc dây vào thắt lưng để nếu nước cuốn có thể giữ lại được. Khi sang, chú sẽ buộc dây vào bè nứa rồi ở lại bên ấy giữ một đầu dây, để hai đầu cùng kéo cho chiếc bè qua lại mới bảo đảm việc qua suối lũ chứ.
Chúng tôi làm theo lời Bác. Việc qua suối thành công một cách dễ dàng. Nhờ quyết tâm và sự cẩn thận của Bác nên mờ tối hôm ấy, Bác cùng chúng tôi tới được chợ Chu. Chặng đường ngày đầu này khó đi nên chỉ đi được chừng ngót ba mươi cây số. Để bảo đảm bí mật, chúng tôi đề nghị Bác cho nghỉ tại một ngôi đình ở giữa đồng và thổi cơm ăn.
Cơm xong, Bác xem bản đồ, định lại chặng đường ngày mai rồi cho đi ngủ sớm. Chúng tôi kê cánh cửa đình, cạnh đống lửa để Bác ngủ, còn chúng tôi nằm quây xung quanh Bác.
Ba giờ sáng, chúng tôi đã dậy nấu cơm nước. Bốn giờ tiếp tục lên đường. Tới trước cửa nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ thì trời đã sáng và lại phải vượt qua con suối Chợ Chu lần nữa. Khúc suối này còn rộng hơn khúc suối hôm qua. Chúng tôi đã có kinh nghiệm nên sau một lát tìm kiếm đã thấy bên kia suối có một chiếc mảng của một gia đình công nhân làm giấy dùng làm cầu tắm rửa. Tôi bơi qua hỏi mượn và lại áp dụng phương pháp trưa hôm qua để chở Bác cùng anh em qua suối.
Qua được suối, Bác bảo:
-Nhờ có quyết tâm, chịu khó mà chúng mình đã qua được hai chặng suối lũ lớn. Nếu không, giờ chúng ta vẫn còn ngồi lại bờ suối hôm qua. Từ nay, trên đường đi, bất kỳ việc lớn hoặc nhỏ chúng mình đều phải có quyết tâm mới được.
Nói xong, Bác thưởng cho mỗi người chúng tôi một điếu thuốc lá. Thắng lợi tuy nhỏ nhưng bài học Bác dạy thì lớn biết mấy!
Chặng đường rừng ngày thứ hai tương đối dễ đi. Bác nhắc chúng tôi phải đi nhanh để bù vào ngày hôm qua.
Bữa trưa nay bắt đầu dùng tới món "thịt hộp Việt Minh". Đồng chí Định lại kiếm thêm được mấy nõn chuối rừng đem cuộn với vừng nên ăn cũng tươi lắm! Tiếc là nước lam hôm nay hơi oi khói (chỉ có một cái nồi nấu cơm, còn nước uống nấu bằng ống nứa gọi là nước lam).
Có đồng chí phê bình đồng chí Tố, Bác bảo ngay:
-Việc làm phải có ưu và khuyết, để chiều chú khác nấu xem sao?
Buổi hành quân chiều, để cho vui đường, Bác dạy chúng tôi "Chinh phụ ngâm". Những lời thơ mà ngày nào tôi được nghe mẹ ru em, bây giờ được Bác đọc lại nó mới thiết tha, ý nghĩa làm sao! Tôi nhớ và thích nhất những câu này:
Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây
Chín lần gươm báu trao tay
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.
Lời thơ cũ, tình hình mới, tự nhiên chúng tôi thầm đoán chuyến đi này của Bác. Chúng tôi cho là: có thể có chiến dịch lớn, biết đâu nó không phải là cuộc phản công mở đầu mà bấy lâu nay quân dân ta chờ đợi.
Có lúc Bác dạy tới đoạn thơ tả cảnh, chúng tôi nhìn cảnh vật dọc đường sao nó lại ăn ý với lời thơ làm vậy.
Trông bến nam bãi che mặt nước
Cỏ biếc um, dâu mướt màu xanh
Nhà thôn mấy xóm chông chênh
Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm.
Ngày hôm nay, đúng là ngày được đường. Bác cháu tính ra đã đi được hơn năm mươi cây số! Tối hôm ấy Bác và chúng tôi nghỉ tại một gian nhà bỏ trống - gần chợ Mới. Bữa cơm tối, ngoài món lương khô chỉ có thêm ít rau tàu bay luộc để cải thiện thêm. Khi ăn, Bác nói đùa:
-Rau tàu bay có khác, ăn vào nó nhẹ cả người, lại có mùi dầu xăng.
Chúng tôi không ai có thể nhịn được cười.
Sang ngày thứ ba, để tranh thủ đi được nhiều, tránh nấu cơm, chúng tôi dùng bánh mỳ để ăn dọc đường. Chặng đường dài, phải đi gấp nên Bác rất chú trọng động viên chúng tôi. Người bắt đầu kể chuyện kinh nghiệm hoạt động cũ của Người cho chúng tôi nghe. Câu chuyện có sức lôi cuốn lạ thường. Bác, cháu đi đường không biết mỏi. Gần tối, đồng chí Thắng sợ Bác mệt nên đã mang ngựa tới gần Bác rồi cùng đồng chí Định cố mời Bác lên ngựa. Bác kiên quyết từ chối, Người nói:
-Bác có mệt thì các chú cũng mệt, ta cùng đi cho vui.
Đồng chí Thắng đành dắt ngựa đi bên Bác với hy vọng lúc nào đó Bác sẽ lên ngựa cho.
Chín giờ đêm hôm ấy chúng tôi tới phà gần thị xã Bắc Cạn. Đò không có, Bác ra lệnh ngủ lại, vì lội qua sông trong lúc mệt nhọc dễ bị cảm đột ngột.
Trên bến sông chỉ có chiếc quán bán hàng, mái lợp sơ qua bằng mấy tấm gianh thưa. Trong quán có một tấm liếp thay cho chiếc bàn bán hàng quá mỏng manh không thể dùng vào việc gì khác được. Bác cho đốt lửa đuổi muỗi. Và kiểm tra việc đặt gác xong, Người lấy chiếc túi dết làm gối, ngả mình trên cây gỗ vốn dùng làm ghế ngồi bán hàng, hai chân Bác bỏ thõng xuống đất để giữ thăng bằng cho khỏi ngã. Chúng tôi cũng nằm ngay xuống đất quanh Bác mà ngủ. Giấc ngủ thiếp đi tưởng không còn biết trời đất gì nữa. Ngày đi đường thứ ba quả là ngày gian khổ nhất trong một cuộc đi dài.
Lúc tôi thay gác là hai giờ sáng. Tôi đứng bên chiếc quán, nhìn về phía Bác. Người vẫn nằm theo tư thế lúc bắt đầu ngủ. Anh em chúng tôi vẫn mỗi người một cách riêng, quây quanh Bác. Tiếng thở đều đều của mọi người hoà với tiếng suối chảy, tiếng rì rầm của núi rừng, tạo nên một âm thanh trầm hùng, vắng lặng.
Ba giờ sáng, con ngựa của Bác bỗng hý lên một tiếng. Tiếng hý làm cho đồng chí Thắng giật mình, rồi đồng chí bỗng nói trong giấc mơ: "Mời Bác lên ngựa cho, mời Bác lên ngựa cho...". Tiếng nói mê của đồng chí Thắng làm tôi càng xúc động. Đồng chí Thắng là người Mán, rất ít nói nhưng tình cảm đối với Bác lại rất nồng hậu, chân thành. Câu nói ban chiều của đồng chí đã được đồng chí nhắc lại trong giấc ngủ.
Bốn giờ sáng, tôi vừa toan gọi người thay gác thì Bác dậy. Bác làm mấy động tác cho giãn gân cốt rồi Người khen:
-Thật là một giấc ngủ ngon ít thấy.
Sau đó Bác gọi anh em chúng tôi dậy. Trước lúc đi, Bác cháu làm một chầu tắm thoải mái trong lúc bơi qua sông. Đi khỏi thị xã chừng ba cây số thì nghỉ lại trong một trường học. Đồng chí Châu Đốc phụ trách bảo vệ căn cứ địa đã chờ sằn ở đó và mời Bác lên ô tô. Bác đồng ý. Chúng tôi mừng rỡ vô cùng, vội gửi ngựa lại. Chiếc ô tổ đã già nua hết sức, lại chạy bằng than. Tuy vậy với tình hình lúc ấy có được nó cũng là tuyệt lắm rồi!
Khi sắp lên xe, Bác nhắc:
-Hôm nay đi ô tô, có thuận lợi mới là có máy thay chân, nhưng cũng có khó khăn mới là máy bay giặc nó lùng. Vì vậy chú lái và các chú phải cẩn thận. Cần phân công nhau gác máy bay. Khi có việc xảy ra, các chú phải theo sự chỉ huy của chú Định.
Chờ cho đồng chí Định tổ chức đội ngũ xong, Bác ra lệnh cho xe nổ máy.
Sướng, sướng thật! Núi rừng cứ chạy về đằng sau ù ù. Tôi thật tình từ nhỏ đến giờ, chưa được ngồi trên ô tô, xe hoả bao giờ. Quê tôi ở Hưng Yên, hàng ngày cũng thấy ô tô, tàu hoả chạy, nhưng biết bao giờ mình có tiền mà đi? Bây giờ tôi bỗng được ngồi ô tô với Bác, sau ba ngày trời đi bộ trong rừng, hỏi còn có gì sung sướng cho bằng?
Bác ngồi trên ghế, ngang với đồng chí lái. Còn phía sau, cả ô-tô chỉ có hai chiếc ghế dọc, chúng tôi ngồi sáu người thật là rộng.
Trong số chúng tôi có một nửa là quê ở Cao Bằng. Vì vậy chuyến đi này các đồng chí đó mừng lắm! Người nào cũng đặt hy vọng quê hương sẽ được giải phóng, sẽ được gặp người nhà, nếu không, cứ được thấy con sông Bằng cũng đủ sướng rồi.
Khi đã nghĩ tới quê hương thì quê hương bao giờ cũng đẹp! Câu chuyện quê hương trở nên rôm rả.
Đồng chí này khoe:
-Phong cảnh Quảng Uyên, Trùng Khánh đẹp, gạo ngon, giá cả hạ, người khoẻ, phụ nữ ở đây da trắng như trứng gà bóc. Con sông Me quanh năm dòng nước chảy êm đềm, thịt cá trên sông Me ăn thơm phức...
Đồng chí khác cắt ngang:
-Cánh đồng Nước Hai rộng, lúa tốt. Sông Bằng nhiều cá, nhãn Lam Sơn rất ngon, có thứ nhãn ăn có mùi thơm như mùi cà cuống.
Chuyện chúng tôi cứ nổ như ngô rang.
Bác nhiều lúc phải quay lại bật cười với bọn trẻ.
Xe tới Tà Xa thì dừng lại và nghỉ đêm ở đó. Gần sáng, Bác cháu lại lên đường về Lam Sơn. Trên đoạn đường này thích nhất là lúc lên tới đỉnh đèo Khau Lêu. Mắt tôi ngợp trước lớp lớp núi đồi chen nhau. Đứng ở đây có thể nhìn thấy ngọn Các Mác gần hang Pắc Bó, cánh đồng Cao Bình, thị xã Cao Bằng v.v... Bác dừng lại ngắm cảnh vật xưa và kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện khi Người ở Pắc Bó, Lam Sơn. Nhân vui chuyện, Người nói:
-Cao Bằng có rất nhiều mỏ vừa lớn vừa có giá trị. Đất Cao Bằng lại tốt, có nhiều bãi có thể chăn nuôi hoặc trồng các cây ăn quả xứ lạnh như đào, lê, táo v.v... Sau này đuổi được giặc rồi, nếu nhân dân, cán bộ ta chịu khó, cố gắng thì Cao Bằng sẽ trở thành một tỉnh giàu có nhiều mặt.
Chúng tôi tuy chưa hiểu hết ý Bác, nhưng cũng thích lắm, nhất là các đồng chí ở Cao Bằng.
Ăn cơm chiều xong, Bác quyết định đi luôn đêm nay về Lam Sơn để vừa được đường vừa bảo đảm bí mật.
Tới Lam Sơn, Bác dừng lại để làm việc với các đồng chí Tỉnh uỷ Cao Bằng.
Đồng chí Định cùng tôi tranh thủ đi chợ Nước Hai để mua sắm những thứ cần thiết. Việc chính là mua thêm ít thịt để về bổ sung vào món "thịt hộp Việt Minh" bảo đảm sao cho có thể ăn được mươi ngày.
Cánh đồng Nước Hai đẹp thật! Từ khi lên Việt Bắc, tới nay tôi mới được bữa nhìn bầu trời một cách thoải mái. Lúa tốt, tôi đếm có bụi được tới ba mươi bông! Con sông Bằng uốn khúc giữa cánh đồng Nước Hai và Nà Lư, xa trông như chiếc thắt lưng lụa trắng của các cô thiếu nữ quê tôi trẩy hội. Các làng bản ở đây, tuy trong kháng chiến nhưng nhà ngói cũ vẫn san sát. Lê, nhãn mọc um tùm xanh mướt. Đúng là nơi đâu có phong trào kháng chiến khá thì chẳng những con người được tự do, mà cây cối cũng có đất đai mà mọc.
Chợ Nước Hai cũng vẫn đông vui náo nhiệt, mặc dù ở đây giặc đã dội bom hai, ba lần, giết hại mấy chục đồng bào ta.
Chợ gần như toàn có phụ nữ. Nếu có đàn ông, thì chỉ có mấy đồng chí bộ đội công tác tạt qua, hoặc tới mua thức ăn và mấy cụ già, vài em nhỏ.
Khi trở về chúng tôi đi đường Nà Lự. Dọc đường, đồng chí Định chỉ cho chúng tôi hướng thị xã Cao Bằng. Đồng chí nói:
-Cao Bằng đấy! Trong thị xã, giặc có một trung đoàn, có một tên trung tá chỉ huy, lại có nhiều pháo, nếu đánh sẽ đánh to đấy.
Nghe đồng chí nói, tôi nhìn về phía thị xã Cao Bằng, thấy máy bay tiếp tế của giặc lượn rất thấp. Ánh mặt trời chiếu vào cánh sáng trắng lên. Lòng tôi tự nhiên thấy rạo rực: chúng ta đã có thể đánh vào một thành phố, có một trung đoàn bộ binh địch chiếm đóng với sự yểm hộ của phi pháo rồi ư?
Dọc đường về, đồng chí Định chỉ cho tôi biết những làng cơ sở ta trong thời kỳ bí mật. Đồng chí lại đưa tôi tới thăm thành Nà Lư - thành cuối cùng của nhà Mạc trước kia. Thật là một miền phong cảnh đã đẹp lại nhiều di tích lịch sử xưa và nay. Đất đai, con người như vậy, chả trách căn cứ Lam Sơn chỉ cách thị xã Cao Bằng trên mười cây số, núi rừng không hiểm trở lắm mà cơ quan lãnh đạo của Tỉnh uỷ đã ở được suốt mấy năm kháng chiến. Nhà máy của ta ở đây chạy suốt ngày đêm, giặc vẫn không làm gì được.
Về tới nhà, chúng tôi vội chuẩn bị mọi thứ vì được tin đêm nay sẽ lên đường.
Công việc chuẩn bị vừa xong, Bác gọi chúng tôi lại, Người cho biết:
-Tình hình hiện nay rất có lợi cho ta. Giặc phải rải quân ra nhiều nơi để chiếm đóng. Nhìn chung các mặt trận thì có Cao Bằng, Lạng Sơn là nơi địch thọc sâu vào sau lưng ta như một mũi dùi. Mũi dùi này nhằm bao vây, thọc sâu vào căn cứ địa Việt Bắc của ta, chia cắt ta với các nước xã hội chủ nghĩa. Lực lượng của chúng tại đây gồm nhiều tiểu đoàn Âu Phi, lại có công sự kiên cố. Song chúng cũng có nhiều điểm yếu: đồn bốt của chúng đóng theo một tuyến đường dài, nếu bị đánh gãy một đoạn nào thì các vị trí khác sẽ bị cô lập; vì lực lượng cơ động của chúng tuy tinh nhuệ nhưng có hạn, khó bề ứng cứu cho nhau. Sau khi đã phân tích các mặt, Đảng, Chính phủ quyết định mở chiến dịch Cao - Bắc - Lạng. Ta chuẩn bị lực lượng tương đối kỹ, có sự phối hợp trên các chiến trường để giành lấy thắng lợi. Theo sự phân công của Trung ương Đảng, Bác lần này sẽ đi sát mặt trận để giúp đỡ Ban chỉ huy chiến dịch và động viên bộ đội chiến đấu. Các chú đi với Bác cũng như các chiến sĩ ra mặt trận, ai nấy phải cố gắng làm tròn nhiệm vụ của mình.
Nghe lời Bác dạy, chúng tôi vô cùng phấn khởi, vì hiểu rõ được ý nghĩa, tầm quan trọng của chiến dịch và thấy được quyết tâm của Trung ương Đảng, nhất là lần này Bác lại trực tiếp ra mặt trận, chúng tôi lại có vinh dự được theo Người.
Thấy chúng tôi đã hiểu rõ, Người dặn thêm:
-Từ đây tới Ban chỉ huy mặt trận, đường tuy không dài lắm, nhưng phải bảo đảm bí mật cao hơn, vì giặc tung nhiều do thám để dò tìm lực lượng ta. Nhiều chặng đường giặc thường phục kích bất ngờ để hòng bắt cán bộ, du kích của ta. Máy bay giặc lại tuần tiễu suốt ngày đêm. Các chú phải cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu cao hơn nữa.
Chúng tôi đều vâng lời dạy của Người. Bác, cháu lên đường lúc trời đã tối sẫm. Mưa lấm tấm làm cho những con đường rừng nhầy nhụa và trơn như mỡ.
Đêm ấy, Bác cùng chúng tôi theo đường tắt sang Quảng Uyên. Đường đi tuy khó nhưng vẫn đi được nhanh. Tới nửa đêm hôm sau bỗng xảy ra một việc mà đến bây giờ nghĩ lại tôi vẫn thấy hốt!
Lúc bấy giờ vào khoảng nửa đêm, Bác và chúng tôi đang sắp qua một cái đèo nho nhỏ. Đột nhiên một tiếng nổ từ trên đèo bắn tới, đạn rít ngay trên đầu chúng tôi. Đồng chí Định đi trước thét lên:
-Trung đội một đánh vòng bên phải, trung đội hai đánh vòng bên trái, trung đội ba theo tôi! Xung phong!
Chúng tôi lớn tiếng hét theo. Tiếng hét vang dội hoà cùng với tiếng lên quy-lát súng trường, tiểu liên chúng tôi xông lên.
Từ trên đèo, có tiếng nam, nữ kêu ầm ỹ:
-Đừng bắn! Đừng bắn! Anh em nhà thôi!
Biết là du kích, chúng tôi lên đến nơi, phê bình tại sao chưa hỏi mật hiệu đã bắn, nhỡ trúng phải người nhà thì sao?
Anh chị em trình bày là địch thường mò vào cả ban đêm nên anh em phải luôn luôn cảnh giác! Vừa qua anh em cũng định hỏi, nhưng chẳng may súng bị cướp cò.
Xin lỗi chưa dứt lời anh chị em đã tranh nhau hỏi xin đạn của chúng tôi.
Đồng chí Định trả lời:
- Đáng lý cũng có thể cho các cô, các cậu một ít đạn, nhưng các cô, các cậu bắn ẩu lắm, không thể cho được!
Bị phê bình, anh chị em đứng ỉu xìu, không nói được điều gì khác.
Bác thấy vậy, bảo:
- Thôi thưởng cho các cô, các chú ấy một ít đạn. Đánh hăng, nhưng phải cẩn thận mới được.
Chúng tôi nghe theo, mỗi người nhường lại cho họ mấy viên và còn hướng dẫn thêm cho họ cách lên quy-lát sao cho khỏi bị cướp cò. Bác, cháu dừng lại đây mất non nửa giờ.
Khi về đến Quảng Uyên thì trời đã sáng, chúng tôi liên lạc được với Ban chỉ huy chiến dịch. Bác ở lại làm việc và sau đó Bác đi thăm các đơn vị.
Ở Quảng Uyên được mấy ngày, Bác cùng chúng tôi về Nà Lạn gần Đông Khê - nơi tiền phương của Ban chỉ huy chiến dịch.
Đêm ấy, khi tới bờ sông Bằng (quãng gần Phục Hoà), chúng tôi được gặp một cảnh đẹp kỳ lạ. Sông Bằng dưới trăng như một tà áo dài trắng muốt. Gió Nam làm cho mặt sông gợn lên những đợt sóng theo nhau tới biên giới Việt - Trung. Chúng tôi cùng Bác bước theo ven sông. Nhìn những bóng núi in dưới đáy sông, tôi có cảm giác như những đàn voi khổng lồ rùng rùng đi theo Bác tiến ra mặt trận. Tới bên sông, một chiếc cầu phao nổi bật lên như một tấm vải lớn ai khéo căng thẳng tắp trên dòng nước bạc. Một đoàn lừa ngựa thồ pháo trên lưng, đang qua cầu. Bên kia cầu, một đoàn bộ binh đi hàng đôi đang dấn bước.
Nhìn những đoàn bộ binh, pháo binh qua cầu, Bác khen:
- Các chú công binh khá lắm!
Khi Bác cùng chúng tôi xuống cầu, Bác rất chú ý tới cách làm cầu. Người thò tay xuống nước để ước lượng tốc độ nước chảy. Ra tới giữa cầu Bác dừng lại hưởng làn gió mát, Người bỗng thốt lên mấy câu:
- Giá mà được tắm, rồi làm một giấc ngủ giữa cầu này thì hay biết mấy!
Nói xong Bác cười một cách vui vẻ, nói tiếp:
- Ta chỉ muốn sống một cách giản dị, thoải mái thôi, nhưng Tây nó cũng không cho. Phải đuổi nó về nước rồi lúc ấy sẽ hay.
Qua cầu, Bác và chúng tôi theo đường tắt về Nà Lạn.
Về tới địa điểm đã định thì vừa mờ mờ sáng. Vùng núi này Bác rất thông thuộc. Theo ý Bác, đồng chí Định hướng dẫn chúng tôi tới một hang đá gần phố Nà Lạn. Trước cửa hang có một cái lán đã được làm sẵn.
Chiếc hang này tuy không lớn nhưng cũng đủ cho Bác làm việc và ở. Khi chúng tôi vừa đến, Người bảo:
- Chúng mình sẽ ở đây một thời gian, nên công tác giữ bí mật, giúp dân là rất cần.
Bác dặn chúng tôi rất tỉ mỉ về cách dùng bí danh của bộ phận mình, cách tránh lửa khói ban ngày để đề phòng máy bay giặc, nhất là tránh làm chết cỏ, làm mất dấu trên lối đi vào hang.
Thực là ở đâu, việc gì Bác cũng đem kinh nghiệm của Người ra chỉ bảo chúng tôi. Tôi nhớ lại trong nhiệm vụ bảo vệ cơ quan Trung ương của Đảng, công việc ngụy trang cho hàng chục mái nhà (cứ ba ngày lại phải thay lá một lần) làm cho chúng tôi tổn phí rất nhiều công sức. Một hôm Bác kiểm tra việc phòng không, thấy khó khăn của chúng tôi, Người bảo:
- Sao các chú không ngụy trang bằng cây tổ quạ?
Đúng thật! Chỉ có vậy mà chúng tôi không nghĩ ra! Vì cây tổ quạ sống bám trên các cây rừng, giờ đưa về đặt lên các mái nhà, chúng vẫn sống và phát triển như thường. Do giải quyết bằng cách này, nên chúng tôi từ đó về sau đã làm được nhà cho cơ quan ở những nơi thoáng ráo hơn.
Nơi ở và làm việc của Bác vừa ổn định thì có thư của Ban chỉ huy chiến dịch gửi tới báo cáo với Bác.
Thấy thư, tôi rất mừng, vì như vậy Bác đã ở gần nơi Ban chỉ huy chiến dịch, việc bảo vệ Bác do mấy anh em chúng tôi đảm nhiệm đỡ phần lo ngại.
*
Chiều hôm sau, công việc đã bớt, Bác bảo tôi đi theo Người. Bác đi trước, tôi theo sau. Người trở lại thăm những núi non xưa. Có những ngọn núi tôi trèo cũng đã vất vả vì đá sắc, rêu trơn, phải tay túm dây leo, chân bấm vào từng hòn đá một, thế mà Bác vẫn trèo lên trước. Khi lên đỉnh một ngọn núi, Người chỉ cho tôi biết những ngọn núi, núi nào tên gì, núi nào thuộc về địa phận nào v.v...
Trong lúc Người thưởng thức cảnh vật và tôi cũng đang ngắm những ngọn núi nhấp nhô, thì Bác gọi tôi, bảo:
- Chú Lừ, hãy xem dân mình đi phục vụ tiền tuyến kìa!
Theo tay Bác chỉ, tôi thấy đoàn dân công đang như con rồng lượn quanh từ sườn núi bên kia đi sang phía núi Bác và tôi đang đứng. Bác rất chăm chú nhìn như theo dõi từng người.
Đoàn dân công đa số là nam nữ thanh niên miền núi, mặc áo dài, ngắn màu chàm, đầu đội nón tre đan. Trên vai người nào cũng khênh đạn nặng trĩu, ngang lưng còn đeo một ruột tượng gạo to. Người nào cũng ngụy trang kín cả lưng lẫn hòm đạn.
Hết đoàn dân công là một đơn vị pháo binh, trên vai họ cũng lặc lè những bộ phận pháo tháo rời hoặc hòm đạn. Mỗi người ngoài chiếc ba-lô đeo sau lưng cũng có một ruột tượng gạo to không kém gì của dân công.
Bỗng Bác chỉ một người và hỏi tôi:
- Chú, xem chú kia là cán bộ phải không?
Tôi nhìn, có lẽ đúng! Một đồng chí ngang sườn một bên là khẩu súng ngắn, một bên là chiếc xà cột, sau lưng cũng có chiếc ba lô nhưng nhỏ xíu, tay vung vẩy chiếc gậy nhỏ, mũ và người chỉ có mảnh vải dù vắt làm phép trên vai, lưng không có bao gạo, bước đi nhẹ tênh, thoải mái.
Bác lặng lẽ nhìn theo đồng chí đó, vẻ mặt không vui. Tôi nghĩ bụng, chắc thế nào Bác cũng sẽ phê bình anh Ninh việc này đây ( ).
Chợt một hồi còi báo động có máy bay địch nổi lên lanh lanh. Cả đoàn dân công, bộ đội đều nằm xuống, lá ngụy trang che kín cả người, kín súng đạn.
Bốn chiếc máy bay vụt qua. Đoàn dân công và bộ đội ta lại tiếp tục hành quân như không có chuyện gì xảy ra. Bác khen:
- Nhân dân ta, bộ đội ta dũng cảm lắm!
Chờ cho đoàn dân công, bộ đội đi xa, Bác xuống núi. Xuống tới đường, tôi để ý thấy có nhiều củi khô, lại sẵn dây rừng, tôi liền bó một vác để mang về đun nấu và sưởi đêm.
Thấy tôi vác củi, Bác bảo:
- Chú đưa khẩu tiểu liên đây cho mình.
Tôi còn dùng dằng thì Người đã cầm lấy súng, thế là Bác vác tiểu liên đi trước, tôi vác củi theo sau.
Bóng hai Bác cháu theo nhau buông dài trên sườn núi, trên đồng lúa. Nhìn khẩu tiểu liên trên vai Bác, tôi bỗng nghĩ tới chuyện về Người trong những khi chúng tôi làm công sự.
Ở nhà chúng tôi thường làm những công sự khá kiên cố. Mỗi khi làm như vậy, Người thường tới giúp chúng tôi cách làm, như hướng dẫn việc tìm địa điểm, vẽ mẫu công sự, dạy cách cầm xẻng, cuốc, cách phá đá, nhất là những khi phải dùng tới mìn. Có lần thấy chúng tôi vì muốn tiết kiệm mà cắt dây cháy chậm hơi ngắn, Bác bắt cắt lại và nhắc:
- Tiết kiệm máu là điều cần trước nhất.
Lại có lần thấy chúng tôi lấy gỗ tốt để lát nóc hầm, Người bảo:
- Gỗ này kháng chiến thành công rồi, sẽ dùng vào rất nhiều việc. Cây rừng là của ta, ta phải biết giữ gìn.
Ngoài những công sự lớn ra, ngay trong mỗi nhà cũng có đào công sự cá nhân để đề phòng máy bay địch tập kích bất ngờ, hoặc mưa gió cây rừng đổ xuống. Công sự này mỗi khi làm lại nhà, Bác đều tự đào lấy. Mỗi ngày sau giờ làm việc chiều, Người lại đào một ít, ba ngày là xong. Ai muốn đào giúp, Bác bảo:
- Đây là quyền lao động của Bác.
Giờ đây, thật ra tôi khoác tiểu liên trên vai, mang theo bó củi cũng vẫn được, nhưng Bác đã đỡ lấy khẩu tiểu liên của tôi một cách tự nhiên và giản dị vô cùng. Với tôi, một người tai đã quen nhức nhối vì tiếng chửi, vai đã nát bởi những đòn roi của bọn địa chủ, nay trước cử chỉ của Bác như vậy, thì biết dùng lời gì, chữ gì mà diễn đạt cho được tấm lòng của mình đối với Bác...
Tối hôm đó Bác đi họp vắng. Chúng tôi sinh hoạt đọc báo. Báo Mặt trận hôm nay có đăng huấn thị của Bác về chiến dịch Cao - Bắc - Lạng. Chúng tôi vô cùng phấn khởi, đọc ngay bài này. Trong đó có những đoạn đã khắc sâu mãi vào lòng tôi:
... Chiến thắng Cao - Bắc - Lạng rất quan trọng.
Chúng ta quyết đánh thắng trận này.
Để thắng trận này, các chiến sĩ ở mặt trận ấy phải kiên quyết, dũng cảm trăm phần trăm, các chiến khu, các mặt trận phải ra sức giết giặc lập công để hết sức tiêu diệt địch, kiềm chế địch, không cho chúng tiếp viện mặt trận Cao - Bắc - Lạng...
Huấn thị của Bác càng làm cho chúng tôi thấm nhuần thêm những lời dạy của Người từ lúc ra đi, và càng nhận thức rõ hơn quyết tâm của Đảng trong chiến dịch Cao - Bắc - Lạng.
Sau khi đọc huấn thị, đồng chí Định nói cho chúng tôi biết thêm về tình hình:
- Địch vừa tăng cường từ Nam Bộ ra chiến trường Bắc Bộ một số lực lượng. Song, chúng vẫn chưa nắm được ý định của ta. Vừa qua chúng có tấn công ra Phú Thọ, nhưng chính vẫn là để thăm dò chủ lực ta và có thể chúng nghi ta tấn công về phía Lào Cai, Hoàng Su Phì. Mấy ngày qua, chúng lại tăng cường cho Lạng Sơn thêm một tiểu đoàn nữa, tuy vậy vẫn chưa có gì thay đổi lớn. Về Đông Khê hiện nay, tin chính thức cho biết: địch có trên dưới một ngàn tên do một đại uý chỉ huy. Ngoài đồn chính, chúng có nhiều vị trí ngoại vi để yểm hộ lẫn nhau. Bộ đội ta đã tới vị trí tập kết và chờ lệnh. Mấy hôm nay nhân dân Cao Bằng, Lạng Sơn, bộ đội địa phương đã phá sập bốn cầu lớn và nhiều quãng đường trên chặng đường từ Thất Khê tới Đồng Đăng.
Buổi sinh hoạt kết thúc thì Bác về, Người cho biết:
- Ngày mai có nhiều việc, các chú cần đi ngủ sớm.
Chúng tôi thầm đoán có lẽ ngày mai sẽ đánh trận đầu. Trong giấc ngủ đêm ấy tôi cứ luôn thức dậy tưởng như quân ta đã bắt đầu nổ súng.
Và đúng sáu giờ ngày 16-9-1950, tiếng súng mở đầu chiến dịch đã nổ, tôi và đồng chí Định được theo Bác đi lên quan sát trận đánh.
Đứng trên ngọn núi đặt vị trí quan sát có thể thấy rõ toàn bộ các cứ điểm của Đông Khê, thị trấn Đồng Đăng, các cánh đồng, khe núi giống như ta đứng trước một cái sa bàn lớn.
Trong lúc bộ binh của ta đánh các đồn Phía Khoá, Yên Ngựa, Cam Phầy thì pháo binh của ta bắn vào đồn chính để phá pháo binh và một phần công sự của địch. Địch chống cự lại rất ác liệt. Đồn chính mờ mịt lửa khói do pháo của ta bắn vào và khói từ nòng súng của địch bắn trả lại. Máy bay giặc lồng lộn trút từng đợt bom xuống những nơi nghi có quân ta. Trọng liên của ta đan những luồng lửa như mặt lưới quây lấy máy bay địch.
Đây là lần đầu tiên tôi được dự một trận đánh lớn mà địch phải huy động nhiều máy bay tham chiến như vậy. Nhìn những máy bay từ trên cao cứ như nhằm thẳng đầu mình lao xuống, những quả bom đen trùi trũi, trước chỉ nhỏ như cái bắp chuối, sau lớn như cái chum rít trong không khí, tôi thật lo ngại cho Bác. Có những quả chúng ném vào một khu rừng bên cạnh hoặc ở những đồi núi khác cách xa hẳn trận địa. Tôi hỏi đồng chí Định mới biết là địch oanh tạc vào trận địa giả của ta.
Khi thả bom xong, chúng quay ra bắn phá. Có những lúc chúng sà xuống thấp, thấp hơn cả ngọn núi Bác đứng quan sát, tôi có cảm giác là ta có thể dùng trung liên bắn vào lưng, vào sườn nó một cách ngon lành.
Bác như không để ý mấy tới tàu bay của địch. Người vẫn chăm chú theo dõi tình hình chiến đấu và đối chiếu với bản đồ do một đồng chí bên Bộ Tổng tư lệnh mang theo bên Người. Mười giờ sáng thì quân ta lấy được ba đồn Phía Khoá, Yên Ngựa, Cam Phầy, mở đuờng phía Đông Nam để tấn công vào đồn chính Đông Khê.
Trời sang chiều, chúng tôi theo Bác ra về.
Tới nhà, trời bắt đầu tối, nghe pháo ta bắn vào Đông Khê dồn dập, tôi nghĩ bụng: đêm nay chắc ta tiêu diệt xong Đông Khê. Một đồng chí đã hỏi Bác một câu tương tự như ý nghĩ của tôi. Bác cười bảo:
- Để chờ xem...
Và liền đó, Bác nói thêm:
- Chú đánh giá địch hơi thấp.
Đêm hôm ấy quân ta chưa tiêu diệt được địch thật.
Sáng hôm sau địch có phi cơ yểm hộ ra sức phản kích hòng giành lại những vị trí đã mất trong đêm. Tiếng súng, tiếng bom chuyển động cả núi rừng. Địch thả cả bom cháy. Rừng cây ẩm ướt như vậy, mà khi bom ném xuống chỗ nào chỗ ấy cũng cháy bừng bừng. Khói bốc lên cuồn cuộn làm đen cả bầu trời. Mặc dầu vậy, quân ta vẫn giữ vững vị trí đã chiếm được. Đến chiều, hai chiếc khu trục của giặc ăn đạn của quân ta, lao đầu xuống núi.
Qua một đêm nữa, quân ta chiếm được đồn chính, nhưng địch vẫn còn ngoan cố chống lại trong những vị trí cố thủ. Khoảng gần bảy giờ sáng, Bác nhận được báo cáo đã bắt được tên đại uý A-li-úc, chỉ huy trưởng Đông Khê, cùng một số sĩ quan tham mưu của hắn. Cách Đông Khê hai cây số, bọn lính của chúng vẫn không rõ, có vị trí vẫn liều chết chống cự đến quá chín giờ mới đầu hàng.
Sau hai đêm và một ngày chiến đấu, trên dưới một ngàn lính địch đã bị tiêu diệt. Trận đầu tiên của chiến dịch đã kết thúc thắng lợi. Quân ta chuẩn bị chống quân nhảy dù và đánh viện.
Bên những tin tức chiến thắng, còn những gương dũng cảm của quân ta được báo cáo lên với Bác, như: đánh phía Đông Bắc có tiểu đội phó La Văn Cầu sử dụng bộc phá, bị giặc bắn gẫy một cánh tay, đồng chí đã chặt đi cho khỏi vướng, rồi vẫn tiếp tục tiến lên bộc phá lô cốt, hoàn thành nhiệm vụ. Đánh phía Đông Nam có đại đội trưởng Trần Cừ, khi công kích lồ cốt, súng hết đạn, mặc dầu bị trọng thương, đồng chí Trần Cừ đã lấy thân mình lấp lỗ châu mai, chặn hoả lực của giặc cho bộ đội xung phong. Trong đội ngũ dân công có chị Đinh Thị Dậu đã lăn vào lửa đạn cứu thương binh. Thường thường cứ hai người mới mang được một thương binh, nhưng ngay trong trận địa, chị Dậu đã dùng chiếc thắt lưng lụa của mình buộc thương binh vào lưng, cõng về hậu tuyến. Qua mấy ngày đêm chiến đấu, chị đã đưa được hàng chục thương binh vượt khói lửa đạn về nơi an toàn.
Ngoài những tin tức về chiến đấu ở mặt trận Đông Khê, còn có những báo cáo về hoạt động của địch tại Lạng Sơn, Thất Khê về, như: trong những ngày ta đánh Đông Khê, địch đã nhảy dù xuống Thất Khê hai lần, quân số trên dưới một tiểu đoàn. Địch thành lập cấp tốc trung đoàn Bay-ăng tại Lạng Sơn do tên đại tá Lơ-pa-giơ chỉ huy gồm ba tiểu đoàn Ma-rốc và chúng đang tiến lên với hy vọng giành lại Đông Khê.
Trong khi đó, tiểu đoàn Ta-bo thứ ba, ngày 16-9-1950 lật đật từ Lạng Sơn lên tiếp viện cho Đông Khê. Tới Pắc Luống, chúng bị ta diệt bốn xe và bắn chết sáu mươi tên, buộc chúng phải dừng lại đó, chờ trung đoàn của Lơ-pa-giơ. Ngày 17-9-1950, tiểu đoàn Ta-bo của trung đoàn Lơ-pa-giơ đánh một bộ phận của ta đang chặn đường hành quân của chúng tại Tà Lài - Pắc Luống suốt một ngày. Kết quả chúng lại bị mất thêm hai xe và một trăm hai mươi tên nữa.
Nghe những tin trên, tôi có lần hỏi nhỏ đồng chí Định có biết những đơn vị nào đánh các trận trên không?
Đồng chí Định cho biết:
- Đánh Đông Khê là trung đoàn Bông Lau và trung đoàn Sông Lô cùng với tiểu đoàn dự bị khác phối thuộc. Đánh Tà Lài, Pắc Luống là một tiểu đoàn chủ lực của Liên khu Việt Bắc.
Nghe đồng chí Định trả lời, tôi mới biết là sư đoàn Quân Tiên phong, vẫn là đội dự bị của Ban chỉ huy chiến dịch, như vậy lực lượng chờ địch còn khá dồi dào mà binh đoàn Lơ-pa-giơ sẽ được nếm những đòn xứng đáng.
Một buổi tối, cơm nước xong, Bác bảo chúng tôi ngồi quanh ngọn lửa. Người cho chúng tôi rõ về tình hình địch và chủ trương tác chiến của ta trong chiến dịch.
Nghe xong, có đồng chí trong chúng tôi thắc mắc:
- Thưa Bác, tại sao chúng ta không đánh Cao Bằng trước mà lại đánh Đông Khê trước? Theo cháu nghĩ: Đông Khê hồi tháng 5 vừa bị ta đánh xong, nay chúng tăng cường thêm quân, thêm pháo binh, củng cố lại công sự nên vừa qua, tuy ta đánh được, nhưng sức mình cũng yếu đi một phần, rồi đây đánh Cao Bằng sợ không nổi!
Bác hỏi:
- Các chú xem tình hình địch, chúng đóng từ Thất Khê tới Cao Bằng, thì nơi nào mạnh, nơi nào yếu?
Trong chúng tôi cũng có đồng chí có trình độ quân sự ít nhiều (vì có đồng chí có nhiều kinh nghiệm chiến đấu rồi mới về làm công tác cảnh vệ), một đồng chí trình bày:
- Thưa Bác, theo ý cháu thì mạnh nhất là Cao Bằng, còn so sánh giữa Đông Khê và Thất Khê thì Thất Khê quân số đông hơn, tiếp tế thuận lợi hơn, tuy đồn chính ở thấp nhưng có nhiều vị trí ngoại vi kiên cố hơn. Đông Khê tuy cũng có những mặt mạnh thật, nhưng đem so sánh kỹ thì nó là vị trí tương đối yếu hơn so với Thất Khê.
Bác hỏi thêm:
- Nay Đông Khê bị diệt rồi thì Cao Bằng và Thất Khê sẽ ra sao?
Mấy đồng chí Cao Bằng lúc này mới phát biểu:
- Đông Khê ta thắng rồi, nay giặc ở Cao Bằng như con hổ nằm trong cũi, mà Thất Khê, giặc như con rắn bị ta chẹn mất cửa hang rồi.
- Mất Đông Khê chắc là giặc phải giành lại, hồi tháng 5 vừa qua ta đánh xong, nó nhảy dù ngay xuống đồn đấy!
Lúc ấy Bác mới trả lời câu thắc mắc ban đầu:
- Ta đánh vào Đông Khê, là đánh vào nơi quân địch tương đối yếu, nhưng lại là vị trí rất quan trọng của địch trên tuyến Cao Bằng - Lạng Sơn. Đánh thắng được Đông Khê, có kinh nghiệm hơn, nên ta mạnh lên, như vậy địch có khác gì như thú dữ bị thương. Ta như thợ săn chăng lưới thép. Nay có thể địch sẽ giành lại Đông Khê để giữ vững Cao Bằng, hoặc phải đánh lên để đón quân Cao Bằng rút lui. Ta nhân lúc địch đang như con thú dữ vào tròng mà khép vòng lưới thép. Quân viện đã tan, thì đánh Cao Bằng không phải là việc khó nữa. Nếu chúng rút khỏi Cao Bằng thì đánh càng thuận lợi hơn.
Nghe lời Bác, chúng tôi càng thông suốt về chủ trương tác chiến của Ban chỉ huy chiến dịch và lòng đầy tin tưởng vào thắng lợi.
*
Trong những ngày chờ viện binh của địch lên, Ban chỉ huy chiến dịch phân phối những chiến lợi phẩm thu được cho các đơn vị. Bác được tặng nhiều thứ, nhưng Bác chỉ để lại một ít, còn phần lớn Bác chuyển cho anh em thương binh ở bệnh viện. Số để lại Bác sẻ một phần đem biếu nhân dân địa phương gần nơi Bác ở, một phần Bác cho chúng tôi.
Được rượu, chúng tôi uống xong toan bỏ vỏ chai vào một xó. Bác bảo thu lại để mang cho dân đựng hạt giống. Lúc đầu anh em chúng tôi cũng hơi ngại vì ruột dùng rồi còn vỏ đem cho, nhưng khi nhận được món quà "vỏ" này, đồng bào lại rất thích, thích hơn cả lúc chúng tôi đem biếu các thứ quà khác.
Bác còn dặn chúng tôi:
- Khi gặp các bạn quen cũ, các chú không nên hỏi xin chiến lợi phẩm, hoặc nhận quà của bạn cho, vì chiến lợi phẩm là của nhân dân. Các chiến sĩ ta phải mất xương máu mới giành được, ta chỉ có quyền hưởng khi được phần chia thôi. Nếu các chú hỏi xin anh em, hoặc nhận của anh em tặng, tức là mình đã khuyến khích anh em phạm kỷ luật chiến trường.
Điều Bác nhắc thật là kịp thời. Trong chúng tôi cũng đã có đồng chí nhắn nhe xin con dao tây, cuộn dây dù, hoặc vài thứ khác nữa...
Hàng ngày, tin tức vẫn đều đặn báo cáo về với Bác: địch đã tăng viện cho Cao Bằng thêm tiểu đoàn Ma-rốc thứ ba và bắt dân Lạng Sơn lên máy bay chở về Hà Nội.
Trung đoàn Bay-ăng lên tới Thất Khê cộng thêm với tiểu đoàn dù 2ème BPC, tiểu đoàn Ta-bo thứ ba thành binh đoàn Lơ-pa-giơ đang từ Thất Khê lò dò lên Đông Khê.
Tối mồng 2-10-1950, tin báo cáo về với Bác: Tên Công-tăng, tư lệnh biên giới của Pháp, đã ra lệnh cho Lơ-pa-giơ đưa đại bộ phận lực lượng lên Quảng Liệt, Nậm Nàng đón binh đoàn Sác-tông sẽ rút khỏi Cao Bằng sáng mồng 3-10. Khi gặp nhau chúng sẽ rút chạy về Thất Khê.
Được tin này, chúng tôi mừng lắm! Mọi diễn biến của địch đều đúng như dự đoán của ta.
Có đồng chí trong chúng tôi lại bộc lộ chủ quan lần nữa.
Bác giải thích:
- Thấy thuận lợi lớn, ta cũng phải thấy khó khăn lớn. Lực lượng địch khá mạnh, có tới trên dưới bảy nghìn. Chúng là lực lượng ứng chiến tinh nhuệ, thạo về đánh rừng. Muốn diệt được chúng, quân ta phải có quyết tâm cao, phải khắc phục cái đói, cái mệt mới giành thắng lợi tốt được.
Từ hôm đó, các tin tức báo cáo liên tiếp gửi về:
- Đêm mồng 3-10, quân ta tấn công các cao điểm của binh đoàn Lơ-pa-giơ chiếm đóng tại dãy Kham Luông. Mồng 4-10, ta đánh chúng trên các cao điểm 760, 765. Cùng đêm ấy, quân ta tiêu diệt đồn Nà Lạn, Nà Ban - ngoại vi Thất Khê. Phía Đồng Đăng, quân ta đánh sâu vào sát thị trấn, tiêu diệt một đại đội địch.
- Trưa mồng 4-10, binh đoàn Sác-tông về tới Nậm Nàng đã bị quân ta chặn lại.
Các tin đưa về thực là phấn khởi. Tuy nhiên trên tấm bản đồ của Bác, hai binh đoàn địch vẫn đang cố nhích lại gần nhau. Nếu chúng thực hiện được âm mưu này, cùng với sự yểm hộ của không quân thì việc ta tiêu diệt chúng sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Mấy hôm nay không quân của địch hình như có được bao nhiêu đều tập trung cả về đây. Tính ra mỗi ngày có đến năm, sáu mươi đợt máy bay giặc tới oanh tạc bộ đội ta hoặc thả dù tiếp tế cho quân chúng.
Chiều ngày 5-10, tin báo cáo về với Bác: binh đoàn Lơ-pa-giơ bị ta chặn đánh không thể tới được vị trí đã định. Chúng phải tập trung cả xung quanh khu vực Cốc Xá. Nghe tin này, Bác liền viết thư cho đồng chí Định mang đi cho Ban chỉ huy chiến dịch. Nhìn theo đồng chí Định cầm thư đi, tôi thầm nghĩ:
"Có phải đêm nay quân ta sẽ quyết định số phận của Lơ-pa-giơ không? Liệu hắn sẽ được đưa về trại tù binh như tên A-li-úc đại úy chỉ huy Đông Khê, hay vợ hắn sẽ tới xin xác chồng như vợ tên tướng không quân Hát-tơ-man năm xưa? ".
Suốt đêm hôm ấy cho đến sáng hôm sau, tin quân ta tấn công thắng lợi trên khu vực Cốc Xá liên tiếp báo cáo về. Tới sáu giờ sáng ngày 7 - 10 thì Bác nhận được báo cáo: Quân ta đã căn bản tiêu diệt được binh đoàn Lơ-pa-giơ, nhưng Lơ-pa-giơ cùng với Bộ tham mưu của hắn đã chạy mất.
Bên những tin tức phấn khởi đó lại có một số cán bộ ta thấy đã thắng lợi lớn, bộ đội bị mệt mỏi, nên khi được lệnh "tiêu diệt binh đoàn Sác-tông" đã đề nghị xin nghỉ một ngày để lấy lại sức rồi sẽ đánh sau!
Thấy vậy, Bác nói:
- Ta mệt một, địch mệt gấp năm, gấp bảy lần. Lúc này là thời cơ tốt nhất để diệt địch. Sao chú ấy lại nghĩ thế?
Bác liền viết thư cho cán bộ và chiến sĩ trong chiến dịch:
Các chiến sĩ yêu mến!
Từ ngày kháng chiến đến nay, trận này là trận đầu tiên bộ đội ta đánh vận động liên tiếp luôn mấy ngày.
Đó là một thử thách lớn.
Các chủ không quản mệt nhọc, đói rét, chỉ ra sức thi đua giết địch. Các chú đã đánh tan đoàn quân tinh nhuệ của địch.
Các chú đã hoàn thành cuộc thử thách bảy phần mười, một cách dũng cảm. Các chú cố gắng mà tiêu diệt binh đoàn Sác-tông nhé!
Bác và Bộ Tổng tư lệnh đã ra lệnh khao các chú một bữa thịt bò đó.
Bác hôn tất cả các chú.
Chào thân ái và quyết thắng.
Sáng mồng 6-10 Bác nhận được tin binh đoàn Sác-tông đã bị tấn công. Ngày 7-10 có tin tên Công-tăng có vét được năm trăm quân Âu Phi còn lại giao cho Đờ-la-bôm chỉ huy, tiến lên tiếp viện cho Lơ-pạ-giơ, nhưng tới cao điểm 608 và 703 thì biết tin Lơ-pa-giơ bị tiêu diệt, Đờ-la-bôm phải đóng lại đây và dựa vào pháo binh ở Bông Lau yểm hộ, chờ vét tàn quân của Lơ-pa-giơ và Sác-tông.
Sáng mồng 7-10, binh đoàn Sác-tông bị tấn công liên tiếp và tới năm giờ chiều hôm ấy thì toàn bộ bị tiêu diệt tại khu vực đồi 477 Bản Cả.
Chiều mồng 8-10, lực lượng của Đờ-la-bôm bị ta công kích. Thấy một số lớn bị chết, hắn vội vã cho bọn sống sót rút chạy. Quân ta truy kích bọn này về đến tận Thất Khê.
Lơ-pa-giơ tưởng đã trốn tài, nhưng đến chiều ngày 8-10-1950 có tin báo về với Bác: ta đã bắt được hắn cùng toàn bộ sĩ quan tham mưu của binh đoàn tại Nà Keo.
Kể ra, Lơ-pa-giơ cũng khéo giữ thể diện! Khi bị cùng đường, hắn cho một tên đại úy mang cờ trắng ra đề nghị với đồng chí đại đội trưởng của ta:
- Chúng tôi xin hàng không điều kiện, nhưng xin ngài đừng đưa lính tới bắt mà cho một vị sĩ quan tới nhận vũ khí của chúng tôi, như vậy đại tá của chúng tôi dù sao cũng còn chút danh dự nhà binh.
Đồng chí đại đội trưởng của ta nhận lời, một mình lên thẳng ngọn đồi bọn Lơ-pa-giơ đang ẩn. Khi Lơ-pa-giơ thấy đồng chí đại đội trưởng của ta tới, hắn vội hô các sĩ quan đứng nghiêm chào, tự cởi súng đặt vào tay đồng chí đại đội trưởng của ta, rồi ứa nước mắt mà nói:
- Từ giờ phút này, tính mệnh của chúng tôi đặt cả vào trong tay ông!
Nghe những tin này, tôi nghĩ bụng: trường đại học quân sự của đế quốc Pháp có một chương trình dạy quả là tỉ mỉ và tinh vi. Dạy cả lễ tiết khi nộp súng đầu hàng.
Những ngày sau, tin thắng lợi càng dồn dập báo về với Bác: binh đoàn Đờ-la-bôm rút chạy như cơn lốc. Tất cả các đồn từ Thất Khê đến Na Sầm đều cuốn gói phóng theo. Ta chỉ chặn kịp ở Đèo Khách, tiêu diệt được hai đại đội của tiểu đoàn 2ème BPC, trong đó có tên đại uý Mô-ro phụ trách tình báo biên giới, tên chỉ huy tiểu đoàn dù, tên Bế Văn Năng, tiểu đoàn trưởng ngụy binh Nùng. Còn nhiều nơi chúng thất điên bát đảo đến nỗi quân ta còn cách xa hàng ngày đường, chúng đã bỏ chạy.
Trước tình hình địch như vậy, sau khi bàn kỹ với Ban chỉ huy chiến dịch về chủ trương phát triển chiến thắng, Bác đi thăm thương binh.
Tôi được theo Bác tới bệnh viện dã chiến. Bác vốn dễ xúc động nên trước anh chị em thương binh, Người phải cố nén để thăm hỏi, nhưng có nhiều lúc Người không sao cầm được nước mắt.
Trong lúc đồng chí bác sĩ Thành đưa Bác đi thăm thương binh, tôi dừng lại một nơi để giảm bớt số người đi theo Bác và tránh ảnh hưởng tới trật tự cần thiết cho thương binh. Giữa lúc tôi đứng lại nhìn theo Bác, chợt có tiếng gọi: "Lừ ơi!". Tôi chạy tới. Thì ra một đồng đội cũ vừa gặp tôi hôm trước khi đánh Đông Khê. Hôm đó, đồng chí ấy hỏi tôi: "Cậu ở đâu?". Để giữ bí mật, tôi nói dối là tôi ở một đơn vị pháo binh. Đồng chí mừng lắm, bảo: "Nhà mình ở ngay Đông Khê này, giải phóng rồi, mời cậu lại chơi. Vườn nhà mình nhiều lê lắm. Hồi này giữa mùa lê chín đấy, tới gốc rung vài cái là tha hồ ăn". Bây giờ anh đã nằm đây, hai chân bó bột trắng xoá. Thấy tôi chăm chú nhìn vào đôi chân bó bột của anh, anh nói:
- Không sao cậu ạ! Nó chưa nỡ xa mình, vài tháng nữa mình chỉ cần thêm đôi nạng là đời mình còn tươi chán.
Nói xong, anh hỏi tôi:
- Cậu được đi với Bác đấy ư?
Không thể giấu và cũng không nỡ giấu anh, tôi khẽ gật đầu. Anh nhìn tôi, mắt sáng lên:
- Mừng cho Lừ nhé! Mình cũng được thơm lây vì đã có bạn là cận vệ của Bác - Rồi anh hạ giọng nói tiếp - Đánh trận này thật là sướng! Bác khen chúng mình lắm phải không cậu?
Tôi lại gật đầu. Anh suy nghĩ rồi nói thêm:
- Bác già rồi mà còn ra tận mặt trận lãnh đạo chúng mình chiến đấu. Bác lại tới tận đây thăm chúng mình. Mình nghĩ: giá có chết trận này nghĩ cũng thoả. Giờ chỉ tiếc là không về được nhà đem lê tới biếu Bác. Mình đã nghĩ như vậy từ khi được tin Bác trực tiếp ra mặt trận. Và nếu được mang lê đến, mình sẽ nói: "Thưa Bác, đây là thứ lê Đông Khê ngon có tiếng, nay Đông Khê đã thoát khỏi tay giặc, cháu xin mang biếu Bác".
Sợ Bác đi quá xa, tôi đành từ biệt anh bạn thân mến đầy nhiệt thành ấy để theo Bác. Khi gặp Bác, Người chỉ còn phong phanh một chiếc sơ-mi. Tôi hỏi đồng chí Định mới rõ: "Người đã tặng cho một đồng chí bị trọng thương chiếc áo ngoài của Người rồi.
Trên đường về, Người bảo chúng tôi:
- Mai các chú để lại một người làm việc với Bác, còn tất cả ra bệnh viện cùng các cô chú hộ lý, dân công cắt gianh làm đệm để các cô các chú thương binh nằm. Trời lạnh lắm.
Ngày hôm sau, Bác đi thăm thị trấn Thất Khê để tìm hiểu tình hình quần chúng mới được giải phóng, sau đó, Người đi thăm trại tù binh.
Những ngày này, lán của quân ta lại trở thành trại tù binh. Trong trại, lính da trắng, da đen, lính ngụy đầy ứ cả. Trông những bộ quần áo dù, những túi kiểu Mỹ thật là nghịch mắt!
Tôi cùng đồng chí Định được theo Bác tới thăm một trại. Nhưng khi cán bộ của trại hướng dẫn Người đi các lán, tôi dừng lại ở ngoài. Chờ tới hơn hai tiếng đồng hồ mới thấy Bác về. Khi Người về, lại thấy không có áo ngoài, tôi hỏi đồng chí Định. Đồng chí cho biết:
- Bác đã nói chuyện với nhiều tên sĩ quan và binh lính của địch, da trắng cũng có, da đen cũng có. Sau Bác nói với một tên đại uý thầy thuốc, lâu đến ngót một giờ, thấy nó bị lạnh, Bác cởi áo cho.
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Sao Bác lại cho nó?
- Đó là một tù binh nhưng là một bác sĩ, có biết lẽ phải, lại đang bị thương.
- Sao đồng chí biết?
- Trong lúc nói chuyện, đồng chí phụ trách trại giới thiệu Bác là một ông già Việt Nam tới thăm tù binh. Khi Người hỏi chuyện nó, tôi thấy lúc đầu nó cũng bình thường, sau có vẻ phục và hiểu, cuối cùng hắn khóc, và khi nhận áo, hắn lại càng khóc.
*
Mấy ngày sau, trên đường về Cao Bằng, tin tức càng làm cho chúng tôi thêm phấn khởi: địch đã rút chạy khỏi Lạng Sơn, Lộc Bình, Đình Lập, An Châu và Thái Nguyên (vì khi Lơ-pa-giơ tiến lên Thất Khê, Bộ chỉ huy Đông Dương của địch đã cho binh đoàn CMA thọc lên Thái Nguyên để đỡ đòn, nhưng bọn này cũng bị ta diệt vài trăm tên, nên chúng cũng phải rút về Hà Nội cùng ngày với Đờ-la-bôm chạy đến Lạng Sơn).
Trên đường số 4, Bác hóa trang như một đồng chí bộ đội già cùng chúng tôi vui chân với nhiều toán bộ đội, dân công.
Trời hanh dịu. Lúa bên đường nhiều thửa đã chín vàng. Nhiều đoàn dân công cũng đang trở về gặt lúa. Đúng như dự kiến của Bác, chuyến đi đã trên một tháng.
Câu chuyện dọc đường thật là vui vẻ, hào hứng, hết chuyện chiến đấu sang chuyện tù binh. Một đồng chí hỏi tôi:
- Cậu có biết vừa qua ta dùng cách gì gọi lính địch ra hàng nhậy nhất không?
- Dùng sĩ quan địch đi gọi, hoặc dùng loa chứ gì?
- Đều có dùng cả, nhưng không phải nhậy nhất đâu! Cứ để đồng chí anh nuôi quẩy gánh cơm đi sau, chúng tớ lấy từng nắm, xâu vào đầu một cây nứa rồi đi đến các vách núi, ven suối mà gọi "ven-xi, mãng-giê" là các chú lính địch đói khát mò ra cứ như ếch thấy hoa mướp ấy!
Còn rất nhiều chuyện vui, chuyện lạ nữa khiến chúng tôi cười đến đau cả bụng.
Nhưng chuyện say sưa rôm rả nhất vẫn là chuyện Bác đi chiến dịch. Có nhiều anh em kể nghe tưởng như một đoạn thần thoại nào đó.
Đường từ Cao Bằng về Bắc Cạn đã thưa người, lại vắng cả tiếng máy bay. Một không khí bình yên lạ thường. Bữa cơm lại trở về với những món ăn cổ truyền: "Thịt hộp Việt Minh".
Về khỏi Bắc Cạn có một chuyện vui:
- Đêm ấy, Bác và chúng tôi vào nghỉ trong một nhà ở đầu bản nọ. Đồng bào hay tin có bộ đội đi chiến dịch về, nên kéo nhau đến hỏi chuyện rất đông. Sợ lộ, chúng tôi phải nói là có đồng chí bộ đội bị mệt nên mời đồng bào về nhà to ở giữa bản, chúng tôi sẽ tới nói chuyện.
Đồng bào nghe lời. Chúng tôi cử một tổ tới nói chuyện, đồng bào nghe mãi quá nửa đêm mới chịu về ngủ.
Thấy nói có bộ đội mệt, đồng bào thương lắm, đem cho cá và măng chua để nấu canh ăn sẽ khỏi sốt rét. Chúng tôi đem muối trả lại. Sớm hôm sau nấu canh cá với măng chua, ăn ngon tuyệt.
Lúc đi đường, Bác nói đùa:
- Canh cá nấu với măng chua chữa sốt rét tài thật! Đồng chí bộ đội già hôm qua mệt thế mà hôm nay đi bộ đến sức trai cũng không theo kịp.
Bác, cháu cười vang cả khu rừng.
Về tới nhà, Bác nhận ngay được báo cáo: Địch đã bị ta đánh bật khỏi Lào Cai. Trên đường chúng rút lui, ta tiêu diệt một số lớn tại giữa khoảng Sa Pa. Ta bắn rơi cả máy bay khu trục, thu được cả đại bác 105 ly. Mặt Hoà Bình ta cũng đã đánh bật địch ra khỏi thị xã và truy kích về tới Xuân Mai, gần Hà Đông.
Thế là ta thắng địch ở Đông Bắc mà Trung Du, Tây Bắc, Tây Nam chúng đều phải rút chạy.
*
Chiếc hộp cũ thường đựng món "thịt hộp Việt Minh" trong những ngày ấy, đồng chí Lừ còn giữ được. Nay đồng chí đã đem nó tặng lại Phòng truyền thống của đoàn Tân Trào để ghi lại những ngày Bác đi sát mặt trận trong lịch sử trường kỳ kháng chiến.
Mỗi khi trở lại Phòng truyền thống, nhìn chiếc hộp cũ anh em lại nhớ đến những ngày theo Bác đi chiến dịch Biên giới, nhớ những câu chuyện của Người trong chuyến đi ấy.