Vào một buổi tối mùa đông năm 1949. Chúng tôi có hai người cùng Bác đi công tác. Nửa đường, trời tối, mưa lại to quá, chúng tôi và Bác buộc phải nghỉ lại một bản nhỏ dọc đường.
Cả bản chỉ có bốn mái nhà sàn. Ba mái nhà to, đẹp. Một mái nhỏ ở tách hẳn ra ngoài đầu bản. Bác quyết định lên nghỉ ở mái sàn nhỏ.
Lên tới sàn, thấy trước bếp lửa chỉ có một ông cụ người Tày, tuổi chừng sáu mươi, nước da bắt nắng đen sạm, râu tóc đã bạc quá nửa, nhưng vóc dáng vẫn cường tráng. Nghe có người vào, ông cụ ngước mắt nhìn ra. Thấy là bộ đội, ông tỏ vẻ mừng, đáp lại lời chào hỏi một cách mau mắn. Rồi ông đổ nước vào siêu, đặt lên bếp lửa, lấy thêm sắn trong gùi ra bóc vỏ, để nướng.
Bác cùng chúng tôi ngồi bên bếp lửa, sưởi ấm. Người quấn khăn quàng che kín cả chòm râu. Trên đầu, Người đội chiếc mũ len che kín tóc, Người lại mặc quân phục nên trông cũng khó nhận ra.
Ông cụ bóc được vỏ củ sắn nào lại đưa Bác. Bác hơ cho khô đi, rồi mới vùi xuống tro nóng để nướng.
Nhìn Bác hơ củ sắn khô mà vẫn trắng, và khi vùi tro, sắn chín vàng rất đều, còn chúng tôi hơ củ nào cứ bị dính bụi củ ấy, ông cụ cười bảo:
-Các đồng chí, phải học cái ké bộ đội vớ! Trông cầm củ sắn là biết ngay người có ở núi hay không đấy.
Bác vừa nướng sắn, vừa hỏi chuyện ông cụ. Qua câu chuyện chúng tôi mới biết ông cụ trước kia ở tận Cao Bằng, đã đi nhiều nơi rồi mới đến trú ngụ ở đây. Ông cụ cũng đã về xuôi vài lần và có một con đi bộ đội Nam tiến. Hiện nay cụ sống một mình. Khoẻ đi làm, yếu nghỉ, thỉnh thoảng còn đi săn.
Vui câu chuyện, chả mấy chốc nước sôi, sẵn đã chín khá nhiều, ông cụ mời Bác và chúng tôi uống nước, ăn sắn. Sắn vừa dỡ trên nương về, nướng lại khéo, bánh mỳ nóng chưa chắc đã ngon bằng.
Đang ăn, chợt ông cụ hỏi một câu rất đột ngột:
-Ké bộ đội à, thấy người ở Tân Trào qua đấy nó bảo ở dưới ấy có cái ông ké nào bây giờ gọi là Cụ Hồ, nghe họ kể thì cái Cụ Hồ giỏi quá vớ! Có thật có cái Cụ Hồ không?
Chúng tôi phải cố nín cười để giữ sao cho khỏi lộ.
Bác vẫn nghe một cách chăm chú, rồi trả lời:
-Tôi cũng nghe nói nhiều, chắc là có.
Ông cụ vẻ hả hê sung sướng, tay đập vào vai Bác mà nói:
-Con tôi nó viết thư về nó cũng bảo thế! Tôi cũng tin cái con tôi, nhưng tôi cũng chưa tin vớ!
Bác hỏi:
-Sao cụ chưa tin?
Ông cụ nuốt một miếng sắn, chiêu một ngụm nước chè, rồi ngồi thẳng dậy, cất tiếng nói choang choang rất cởi mở:
-Có cái tin, có cái không tin vớ! Nói Cụ Hồ dạy dân phải đánh Nhật, đuổi Tây dân mới khỏi khổ, cái này tôi tin đấy! Nói Cụ Hồ bảo phải đoàn kết Kinh, Thổ, Mán, Mèo, Nùng lại mới đánh được Tây, đánh được cái tụi quan của nó, cái này tôi cũng tin đấy! Nói Cụ Hồ bảo phải làm ra nhiều gạo, nhiều ngô sắn giúp bộ đội đánh Tây, tôi cũng tin đấy. Còn nói Cụ Hồ đi nhiều nước lắm - ông cụ lấy tay khoanh tròn trước mặt ra hiệu là nhiều, nhiều lắm, rồi tiếp - tôi già thế này mới ra đến Bắc Cạn về đến Thái Nguyên thôi! Con tôi nó giỏi hơn, nó theo bộ đội đi Nam tiến, Nam tiến là đâu? Có xa gấp hai lần đây đến Thái Nguyên không? Thế Cụ Hồ cũng là người sao đi nhiều thế? Cái này không tin! Họ còn nói mắt Cụ Hồ có hai con ngươi! Họ đưa cả ảnh cho xem, tôi trông rõ hai cái chấm trắng mà. Cái này không tin đâu. Người mình sao lại thế?
Nghe ông cụ nói, chúng tôi càng phải cố giữ nét mặt cho bình thản không dám cười. May mà ông cụ vui chuyện, cười nói sang sảng, nên cũng tưởng chúng tôi vui chuyện hưởng ứng mà cười thôi.
Bác cũng cười vui vẻ và giải thích cho ông cụ hiểu rồi nói thêm:
-Cụ Hồ thì cũng là người mình cả thôi, nhưng đi nhiều nơi, học được cái hay ở mỗi nơi một ít, rồi được nhân dân trong nước góp vào mỗi người một ý, lại cùng nhân dân thực hiện ý ấy, nên câu nói của Cụ Hồ hay việc đánh giặc cứu nước, sản xuất, học tập mới thắng lợi được. Cụ với tôi đã già thế này có thấy ai là người ở trên trời rơi xuống đâu!
Ông cụ nghe Bác nói gật gù khen phải. Lúc ấy đồng chí cùng đi với tôi ngồi hơi nghiêng trước ánh lửa. Cụ già chợt nhìn vào đôi mắt đồng chí ấy, thấy nổi lên hai đốm lửa trông như hai con ngươi, ông cụ reo lên:
-Ái da, thấy rồi! Biết rồi! Mắt Cụ Hồ là thế này đây.
Tôi giật mình tưởng là ông cụ đã nhận ra Bác, nhưng thấy ông cụ nói thêm mới biết là: Khi ông cụ nhìn thấy ánh lửa phản chiếu vào trong mắt đồng chí cảnh vệ cùng đi với tôi thành hai đốm lửa, rồi ông cụ chợt nghĩ đến hai đốm trắng trong mắt ở ảnh Cụ Hồ mà người ta đã chụp. Ông cụ đoán là lúc chụp ảnh Cụ Hồ, người ta cũng để Cụ Hồ ngồi theo kiểu đồng chí cảnh vệ vừa rồi. Và như người mới tìm ra được một phát minh mới, ông cụ sung sướng lẩm nhẩm trong miệng:
-Cụ Hồ là có thật mà! Bây giờ thì tin cả rồi. Thằng Tây, cái quan, mày phải chết!
Ông cụ gật gù nói:
-Nó đánh mình, nó giết mình, mình không đánh lại nó thì mình cũng chết. Đánh nó cũng hả cái lòng mình chứ! Nhưng bây giờ đánh lâu quá vớ! Thằng Tây nó lại có cái máy bay, cái súng lớn mà mình không có, nên cũng sợ! Nhưng bây giờ biết có cái Cụ Hồ thật rồi thì tin lắm!
Nói tới đây ông cụ bỗng im lặng, đăm đăm nhìn vào Bác, rồi chỉ vào mắt Bác mà bảo:
-Cái mắt ké bộ đội này, cũng giống như mắt Cụ Hồ, ké là người nhà Cụ Hồ phải không?
Bác cười, chúng tôi cũng cười theo và hỏi vui ông cụ xem mắt mình thế nào?
Ông cụ cười, bảo:
-Mắt con gà, con chim so với mắt con công thế nào được!
Nói xong ông cụ hỏi bộ đội có tranh Cụ Hồ cho xin một cái. Đáng tiếc, chúng tôi không có sẵn, đành hứa với ông cụ sẽ gửi đến sau. Ông cụ vui vẻ, cười rồi thu xếp cho Bác và chúng tôi đi ngủ.
Khi Bác và chúng tôi đã yên chỗ rồi, ông cụ vẫn ngồi lẩm nhẩm, lắng nghe mới biết ông cụ đang làm bài hát then nói về Cụ Hồ. Tiếc rằng tiếng Tày tôi rất kém nên không hiểu hết ý bài hát.
Sớm hôm sau, trước lúc lên đường, chúng tôi có mang theo một cân muối, Bác bảo đưa lại làm quà cho ông cụ. Ông cụ cũng bỏ vào ba lô chúng tôi mấy cái tai gấu, chân lợn rừng khô và dặn khi nào sốt rét nấu cháo ăn sẽ khỏi. Chúng tôi từ chối mãi không được.
Lúc ra đi, ông cụ còn tiễn theo một chặng đường. Bác bảo mãi ông cụ mới dừng lại.
Khi Bác cháu lên đến ngang sườn núi, vẫn thấy bóng áo chàm của ông cụ ngóng theo.