Trái với các bạn trẻ, đồng chí Lý, mái tóc đã điểm bạc - người cảnh vệ lâu năm nhất của Bác - từ nãy đến giờ chỉ ngồi chiêu từng ngụm nước nhỏ và kéo dài từng hơi thuốc lá. Vẻ mặt Lý như đang nghiền ngẫm một điều gì.
-Sao hôm nay anh im tiếng thế? - Tôi khẽ hẩy vào vai Lý Và giục luôn - Anh phải thực hiện lời hứa của anh đi chứ, thực hiện ngay đi kẻo "rông" cả năm đấy.
Tất cả các chiến sĩ khác thấy tôi nói vậy cũng bỏ cả câu chuyện của mình, xoáy luôn vào vấn đề:
-Phải đấy, anh Lý kể chuyện Bác sang thăm Trung Quốc, Ân Độ, In-đô-nê-xi-a đi.
-Năm mới, chuyện mới còn thú vị hơn nữa! Kể đi anh Lý.
Nhưng đáp lại, Lý vừa xua tay vừa phân trần bằng một câu như đã thuộc lòng:
-Bác đi thế nào, báo chí đã viết cả, mình kể sao bằng được.
-Không! Anh kể những điều mắt thấy tai nghe vẫn thú vị hơn chứ. Mấy chiến sĩ tiếp tục thúc ép.
Biết có nài đi nữa cũng khó mà moi được "chiếc tủ bảo mật" này, tôi chuyển ý:
-Hay là anh kể chuyện những ngày bên Bác từ khởi nghĩa đến kháng chiến, đó là những bài học mà anh em trẻ Chúng tôi cần học lắm!
Trước sự đòi hỏi của mọi người, đồng chí Lý biết không thể từ chối. Anh bảo:
-Tôi sẽ kể, nhưng vì nhớ không mạch lạc, xin gặp đâu kể đấy nhé!
Câu chuyện bắt đầu:
-Sau khi chủ lực của Giải phóng quân do anh Văn chỉ huy, tiến về đánh Nhật ở Thái Nguyên được mấy ngày, thì Hà Nội khởi nghĩa thành công, tiếp đó Hải Phòng, Huế, Sài Gòn, các tỉnh trong toàn quốc kế tiếp nhau đứng dậy. Trong thời gian ấy, để kịp thời xây dựng chính quyền, các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Tổng bộ Việt Minh đều lần lượt về Hà Nội. Tôi được cơ quan giao nhiệm vụ ở lại, tiếp tục làm một số công tác tại căn cứ địa. Cho đến khoảng tháng 10 năm 1945 tôi được Đảng gọi về Hà Nội.
Hồi này các cánh quân của Tưởng Giới Thạch đã tràn sang ta. Bọn Quốc dân đảng theo chủ đã về phá rối.
Ngồi trên ô-tô hàng từ Thái Nguyên về Hà Nội, tôi nghe hành khách kháo nhau đủ chuyện. Nào là chuyện quân Tầu trắng lợi dụng danh nghĩa Đồng minh sang Việt Nam tước vũ khí Nhật rồi làm càn, làm bậy đủ điều. Nào là bọn Việt Cách, Việt Quốc như bầy rắn, bầy rết theo đóm ăn tàn, dở nhiều trò bỉ ổi, nhiễu nhương.
Nghe những chuyện đó tôi đã hiểu ngay là cách mạng của ta ngày đầu tuy có thắng lợi, nhưng cũng còn gặp phải nhiều khó khăn. Tôi muốn diệt phăng ngay bọn Tưởng để nhân dân hết tai hoạ.
Về tới Hà Nội, tôi được gặp anh Cả (đồng chí Nguyễn Lương Bằng). Anh nói cho tôi nghe rất nhiều điều cụ thể về tình hình trong nước. Đã mấy năm rồi nhưng tôi vẫn còn nhớ đại ý như sau:
"Tình hình bây giờ, ngoài bọn Tàu Tưởng ở ngoài Bắc, bọn Anh - Ấn trong Nam, trên đất nước ta còn có hàng chục vạn quân Nhật, hàng vạn quân Pháp vẫn lẩn lút, ở nhiều nơi. Bọn quân Pháp này, theo chỉ thị của bọn tư bản phản động chính quốc, chúng đang lăm le khôi phục lại địa vị đã mất từ ngày bị bọn Nhật hất cẳng. Chúng đã nấp sau lưng quân Anh, Ấn gây hấn ở Sài Gòn. Ngoài khơi Ấn Độ Dương, binh đoàn Lơ-cơ-léc đang trên đường trở lại cướp nước ta lần nữa! Tại nhiều địa phương trong nước, bọn phản cách mạng đang rắp tâm làm chó săn, chim mồi. Ngay trên đất Hà Nội này, bọn đại diện của Tưởng Giới Thạch vẫn âm mưu làm đảo chính, để hòng đặt bọn tay sai của chúng lên thay thế Chính phủ cách mạng của ta. Mà bọn côn đồ này thì chúng đang không từ một hành động độc ác nào để phá hoại ta...".
Nghe anh Cả nói vậy, một ý nghĩ thoáng trong óc tôi: Cách mạng của ta đang cơn trứng nước, sao phải đương đầu với lắm phong ba, bão táp đến như vậy? Lại còn giặc đói, giặc lụt! Tôi đang trong suy nghĩ đó thì anh Cả nói cho tôi biết tại sao Đảng điều động tôi về đây. Tôi hồi hộp đón chờ và trong lòng tôi đã sẵn sàng nhận bất cứ nhiệm vụ gì Đảng trao cho. Nhưng để cho tôi hiểu biết thêm, anh Cả nói tiếp:
-Tuy vậy, trước khí thế cách mạng của quần chúng, kể cả. bọn đầu sỏ đến lũ tay sai kia không dễ gì mà giở trò được. Đảng ta đã có sách lược đấu tranh mềm dẻo, đúng đắn để bảo vệ chính quyền cách mạng. Rồi đây Chính phủ liên hiệp sẽ được mở rộng. Nhưng dù mở rộng tới thế nào ta vẫn phải giữ cho được chính quyền về tay nhân dân cách mạng. Ta có nhiều khả năng làm được những việc đó. Mà những việc đó làm được, ta lại có nhiều khả năng mới để vượt qua muôn vàn khó khăn phức tạp kể trên. Tình hình có nhiều triển vọng, nhưng cũng vì tình hình đó, cho nên việc bảo vệ Bác, bảo vệ Trung ương lúc này hết sức quan trọng.
Ngừng một chút, anh Cả đặt hai tay lên vai tôi và thân mật trao cho tôi trách nhiệm cùng với một số đồng chí nữa bảo vệ và phục vụ Bác.
Như trên tôi đã kể, khi anh Cả phổ biến tình hình cho tôi, tôi lo lắng cho cách mạng của ta bao nhiêu thì tới khi anh Cả nói rõ nhiệm vụ của tôi, tôi nghĩ ngay là không còn vinh dự nào hơn nữa, mặc dù tôi tự biết mình còn non về năng lực. Nhưng cũng liền lúc đó, một câu hỏi: làm thế nào để bảo vệ được Bác, phục vụ được Bác, đột ngột đến với tôi. Tôi nghĩ mãi vẫn chưa ra được câu trả lời. Cuối cùng tôi chỉ biết quyết định: Cứ dốc hết khả năng, sức lực ra mà làm, có khó khăn gì hỏi anh Cả, nhất định qua được hết.
Sau khi nghe lời hứa của tôi, anh Cả đưa tôi đến giới thiệu với Bác. Gặp Bác, tôi trình bày quá trình công tác và trình độ của tôi cho Bác nghe và tôi bắt tay vào việc ngay.
Gần Bác mới thấy Người hồi này thật vất vả. Việc nước vừa nhiều lại vừa trọng đại như: đối phó với bọn Tàu Tưởng, chỉ đạo kháng chiến ở Nam Bộ, lãnh đạo Tổng tuyển cử đầu tiên của nhân dân ta, xây dựng lực lượng vũ trang để bảo vệ Tổ quốc, chống đói, chống dốt, xây đời sống mới v.v... Trăm công ngàn việc đều qua tay Bác, giữa lúc các cơ quan vừa mới thành lập, cán bộ đã thiếu lại chưa có kinh nghiệm công tác.
Khi Chính phủ liên hiệp đã hình thành, bọn đại diện Tưởng Giới Thạch càng gây nhiều áp lực, nay chúng ra điều kiện này, mai hạch sách điều khác, khiến cho Bác đã vất vả lại càng vất vả hơn nữa.
Mặc dầu kẻ địch như vậy, công việc nhiều như vậy, nhưng Người làm việc rất có kế hoạch. Công việc chẳng những có chương trình hàng tuần, hàng ngày, mà còn cả hàng giờ nữa. Chương trình ấy Người đều cho tôi biết trước để tiện phục vụ, kể cả chương trình tiếp khách.
Hàng ngày, khi công việc tạm ngừng, Người lại để ý đến chúng tôi. Người thấy anh em cảnh vệ chúng tôi văn hoá còn kém, Người còn đặt chương trình cho chúng tôi học. Giáo viên thì phân công người khá dạy người kém. Bác lại dạy cả cách đọc báo, nghiên cứu tài liệu. Những ngày cuối năm 1945, Người bắt đầu dạy chúng tôi học triết học. Tiếc thay trình độ của tôi tiếp thu hạn chế, trí nhớ kém cỏi nên công lao Bác dạy dỗ là thế, bây giờ tôi cũng không nhớ kỹ để truyền lại cho các đồng chí.
Hồi này cái ý nghĩ ban đầu muốn diệt ngay quân Tưởng Giới Thạch, tôi thấy đã sai rồi. Nhưng đối với bọn Quốc dân đảng trong nước thì tôi căm uất, chỉ muốn diệt chúng ngay mới hả giận, nhất là sau khi chúng ám hại anh Trần Đình Long, một đảng viên xuất sắc của Đảng ta. Một hôm, trong buổi học thời sự, tôi hỏi Bác:
-Thưa Bác, tại sao chúng ta cứ để mãi cái bọn giết người độc ác ấy?! Cháu tưởng lũ rác ấy Bác cứ cho lệnh xuống là chỉ một đêm chúng cháu quét sạch chúng xuống cống hết!
Bác cười, Người chỉ gian phòng làm việc rồi hỏi tôi:
-Bây giờ có con chuột nó vào phòng, các chú lấy gạch đá ném nó, hay khéo tìm cách bắt nó, hoặc đuổi nó đi?
-Dạ, lấy gạch đá ném sẽ vỡ mất các đồ quý trong phòng ạ.
Bác kết luận:
-Đối với bọn phản cách mạng hiện nay cũng thế. Nó lú nhưng chú nó khôn. Muốn làm được việc lớn phải biết trông xa, nhìn rộng.
Hiểu được rõ vấn đề, từ đấy chúng tôi không thắc mắc nữa.
Ngoài giờ làm việc, Bác thường đọc báo, đọc sách vào những giờ trưa, giờ tối. Người đọc báo vừa để nắm tình hình, vừa để kiểm tra, góp ý với các báo về việc phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng và đấu tranh chống sự tuyên truyền xuyên tạc của bọn phản cách mạng. Nhưng nhiều báo quá, hàng mấy chục tờ báo, tôi không rõ Người đọc ra sao! Những bài quan trọng đăng trên báo nước ngoài, Bác thường đánh dấu cho chúng tôi cắt dán vào một quyển riêng để theo dõi.
Hàng tuần, Bác còn dành thì giờ đi vào các trường học, cơ quan, xí nghiệp, doanh trại của Giải phóng quân để tìm hiểu tình hình, chỉ bảo công việc. Tôi nhớ có lần Bác đến thăm doanh trại Vệ quốc đoàn, thấy các cửa kính bẩn quá, Bác liền lấy tay viết vào mặt kính. Bác về rồi, anh em ở đấy vội cùng nhau đi lau lại các cửa kính.
Làm việc như vậy, nhưng ăn uống chẳng có gì. Những ngày đầu vẫn cơm gạo đỏ, rau muống. Bác ăn chung với anh em cảnh vệ và cơ quan. Sau chúng tôi đề nghị nấu riêng cho Bác. Năm ấy (1945) lúa mùa bị lụt, mất nhiều, lại phải cung cấp gạo cho quân Tưởng Giới Thạch nên đầu năm 1946, nạn đói lại đe doạ. Để giải quyết tình hình, một mặt Bác kêu gọi tăng gia sản xuất, tiết kiệm, một mặt Bác đề ra phong trào "Bớt bữa cứu đói". Bác tự bớt một bữa vào chiều thứ bảy.
Cả tuần làm việc, mà ngày hôm ấy lại chỉ có một bữa! Nhiều lúc nhìn Bác làm việc, tôi tự nhiên ứa nước mắt. Tôi ước giá mình có tài gì mà giúp Bác giải quyết được công việc một chút thôi thì cũng thoả lòng. Nhưng ngoài công tác cảnh vệ, tôi chỉ còn có cách gom giấy cũ làm phong bì, mở và dán công văn thôi!
Bác làm việc rất cương quyết, điềm đạm, nhưng Người rất vui, rất giàu tình cảm. Những buổi Bác hướng dẫn về thời sự, ngoài việc giảng bài cho chúng tôi biết về tình hình, Bác lại còn điểm những mẩu chuyện vui làm cho chúng tôi nhớ mãi. Ví dụ, một lần Bác giảng về nước Mỹ, chúng tôi đã hiểu rồi, Bác muốn để chúng tôi hiểu thêm nữa, Bác kể một chuyện như sau:
Người Mỹ rất tự hào về tự do của nước Mỹ. Vì ở đây, chủ được tự do bóc lột thợ, thợ được tự do thất nghiệp. Trộm cướp có đảng và khi bị bắt còn được quan tòa che chở. Người da trắng được tự do giết người da đen. Người ta tự do thay vợ, thay chồng như ta thay áo. Có mụ tư bản lấy nhiều chồng quá nên hắn quên cả tên lẫn mặt chồng cũ. Có lần nó mang anh chồng mới vào tiệm rượu. Thấy anh bồi bàn cứ nhìn chòng chọc vào mình, mụ ta cáu, gọi "cu lít" (1) tới can thiệp vì anh bồi bàn đã xâm phạm vào tự do của mụ! Nhưng sau người ta mới vỡ lẽ, anh bồi bàn đó lại đúng là người chồng cũ của mụ tư sản nọ.
Câu chuyện vừa làm chúng tôi đau xót, vừa cười bò ra, vừa lạ kỳ cho cái nước Mỹ tự xưng là văn minh ấy.
Tính Người rất dễ xúc động. Có một đêm, Người ngủ trên gác một căn nhà, tới bốn giờ sáng Người vừa thức giấc. Ngoài trời gió bão vun vút đập vào cửa kính, ngồi trong nhà còn thấy lạnh. Thế mà đã có tiếng trẻ em rao hàng. Người mở cửa ngó nhìn cho tới khi em bé đi khuất mới khép cửa lại. Tôi thấy nước mắt của Người còn đọng trên hàng mi.
Làm việc, ăn uống như vậy, giấc ngủ lại chả mấy khi yên, lại phải dời chỗ luôn để đối phó với bọn phản cách mạng. May mà sức khoẻ của Bác hồi này lại tăng. Đó là vì Bác tập luyện rất kiên trì. Sáng dậy hoặc buổi tối trước khi đi ngủ, bao giờ Bác cũng tập luyện theo phương pháp thông thường, rồi chuyển sang tập quyền. Bài Bác thích là bài "Thái cực quyền".
Nếu ai đã được tập qua Thái cực quyền, sẽ thấy được cái khó nhọc của việc đi hết được 108 thế võ. Bề ngoài trông rất mềm dẻo, nhưng gân cốt phải vận động rất nhiều, nhất là việc tập trung tư tưởng.
Nghe đồng chí Lý kể tới đây, chúng tôi càng hiểu rõ tại sao trong những năm kháng chiến, Người có sức khoẻ dẻo dai như vậy.
Dừng lại cho chúng tôi suy nghĩ một lát, đồng chí Lý mới nói lên ý nghĩ của mình lúc ấy:
-Nhớ lại hồi đó cũng có lắm cái thích. Những đêm trăng, Bác cháu thường tập luyện trên sân thượng của Bắc Bộ phủ. Có lúc trăng lên đúng giữa đỉnh đầu, bóng cây hoàng lan đu đưa trước gió, Bác lướt đi những đường quyền vừa mềm mại, vừa nhanh mạnh. Nhìn Bác đứng thế "Thái Sơn áp đỉnh" hay "Độc cước phi thần" trong bài "Bát bộ liên hoa quyền", tôi có cảm giác Bác là một ông tiên đang dạy võ, mà tôi là đồ đệ đang thụ giáo vậy.
Anh em cười ran. Có tiếng một đồng chí:
-Ai ngờ đồng chí Lý cũng lãng mạn đến thế cơ à.
Một đồng chí khác gợi ý:
-Anh kể chuyện đi theo Bác sang Phông-ten-nơ-bơ-lô đi.
-Hồi ấy tôi không được đi. Nhưng kể thế này thì bao giờ mới hết chuyện. Thôi kể những cái có lợi cho công tác cảnh vệ của các cậu nhé.
Không đợi chúng tôi trả lời, anh tự "chuyển làn":
-... Sau khi xảy ra toàn quốc kháng chiến, các cơ quan ta về đóng ở vùng núi Hà Đông. Tôi nhớ vào dịp tết năm ấy - Trung đoàn Thủ đô đang đánh giặc rất hăng ở Liên khu III. Để động viên nhân dân kháng chiến, cổ vũ các chiến sĩ trong Liên khu I đánh giặc, Bác tới đài phát thanh đọc lời chúc Tết. Khi về tới giữa đường, bỗng nhiên ô-tô bốc cháy ở đầu máy. Đồng chí lái xe vừa phanh xe lại, đã vội lao đi tìm nước để dập lửa. Tôi cũng vội nhảy xuống đỡ Bác ra, rồi cũng toan đi tìm nước, nhưng nhìn quanh khắp cánh đồng khô cạn, đất nứt nẻ thì còn tìm đâu ra nước! Đang lúng túng chưa có cách gì chữa cháy, tôi đã thấy Bác nhanh nhẹn lấy hai bi đông nước chè để sau ô-tô ra đổ vào chỗ đầu máy đang bốc cháy. Mất một bi đông thì lửa tắt.
Qua kinh nghiệm này, từ sau mỗi khi đi đâu, bằng phương tiện gì, tôi đều dự phòng những việc có thế xảy ra, rồi dự kiến cách đối phó. Như vậy khi gặp điều không hay sẽ ứng cứu được dễ dàng.
Đầu năm 1947, trước thế giặc hung hãn, để tiện cho việc lãnh đạo kháng chiến, các cơ quan lãnh đạo của ta lại trở về vùng Tuyên - Thái, nơi căn cứ địa trước Cách mạng tháng Tám.
Sinh hoạt ở đây càng gian khổ hơn so với hồi còn ở Hà Đông và Sơn Tây. Mà công việc đến với Bác cứ như các lớp sóng biển dồn tới, tưởng như không bao giờ vơi. Nhưng có điều đáng mừng là sức khoẻ của Người hồi này lại khá hơn nữa.
Bác vẫn làm việc thứ tự, ngăn nắp như thường lệ.
Nhớ những ngày đầu tới châu Tự Do, bộ phận đi với Bác rất gọn nhẹ, tất cả chỉ có tám người vừa là cảnh vệ, vừa liên lạc, cấp dưỡng. Chúng tôi làm một chiếc lán dài ngăn đôi. Một nửa để Bác ở và làm việc, một nửa chúng tôi ở và làm luôn phòng ăn, phòng họp.
Công tác bảo mật lúc này được đề ra rất cao. Dù nhân dân rất tốt, được giáo dục về giữ bí mật kỹ càng, nhưng vì lòng kính yêu đối với Bác nên vẫn rất khó giữ được bí mật. Mà lộ nơi Bác ở tất sẽ lộ các cơ quan đầu não khác. Do đó, tuy Bác rất muốn gần dân nhưng cũng phải hạn chế. Ở đâu mươi, mười lăm ngày lại phải chuyển.
Công tác cảnh vệ lúc này thật lắm thứ: phòng giặc, phòng gian, phòng cả thú rừng nữa. Anh Hoàng Hữu Nam (Thứ trưởng Bộ Nội vụ lúc bấy giờ) gửi tới biếu Bác hai mẹ con con chó béc-giê. Chúng cũng đỡ dần được chút ít trong công tác cảnh giác, thì một đêm hổ đến vồ cả hai mẹ con nó đi mất.
Về đời sống của Bác, dù chúng tôi có được trên hết sức giúp, nhưng vì di chuyển luôn, nên cũng không tăng gia sản xuất được gì cả. Hàng ngày toàn cơm gạo đỏ, ăn với rau tàu bay luộc hoặc xào, còn thịt thì băm nhỏ, kho hai phần thịt, một phần muối, một phần ớt rồi cất đi ăn dần. Bác gọi là món "thịt hộp Việt Minh".
Tuy thế, ở đâu hễ thu xếp xong chỗ ăn ở, Bác lại đưa chúng tôi vào chương trình học chính trị, văn hoá. Bác rất coi trọng việc phổ biến cho chúng tôi am hiểu tình hình thời sự.
Nhớ một đêm, không rõ ngày tháng, nhưng biết là trời còn lạnh. Chúng tôi ngồi quanh bếp lửa, sinh hoạt tiểu đội như thường lệ. Sau khi nghe phổ biến về tin chiến sự và chủ trương trường kỳ kháng chiến của Đảng, chúng tôi đang trao đổi thì Bác tới. Người ngồi lên một gốc củi rồi hỏi chúng tôi có thắc mắc gì không?
Một đồng chí trong chúng tôi hỏi Bác:
-Thưa Bác, chúng cháu nghĩ mãi vẫn chưa rõ tại sao phải đánh trường kỳ, vì đánh trường kỳ thì hại người, hại của lắm!
Bác phân tích cho chúng tôi nghe rõ các mặt lợi hại, rồi lấy một ví dụ:
-Sức ta bây giờ như trai mười sáu, mà giặc bây giờ như một lão già quỷ quyệt, độc ác. Nếu ta cậy sức đánh bừa, thì sao chắc thắng được! Phải vừa đánh, vừa nuôi cho sức mình lớn khoẻ lên. Khi sức ta đã hai mươi, mà giặc đã suy yếu, già cỗi, ta mới lừa thế quật nó ngã, như vậy có chắc thắng không?
Bác dừng lại nhìn chúng tôi một lượt và khi đã thấy chúng tôi nhận thức được, Bác kết luận:
-Vì vậy nên trường kỳ kháng chiến mới nhất định thắng lợi.
Sau đó, Bác bảo chúng tôi:
-Các chú ở đây mỗi người một tên, khó gọi, dễ lộ bĩ mật. Để dễ gọi để giữ bí mật và cũng để thể hiện quyết tâm kháng chiến của chúng ta, từ nay Bác đặt cho các chú tên mới theo câu Bác vừa nói, các chú có đồng ý không?
-Dạ! - Chúng tôi đều. phấn khởi nhận tên mới.
Bác chỉ vào tôi và lần lượt đặt tên cho từng đồng chí trong tiểu đội. Từ đó tám anh em chúng tôi có tên mới là: Trường, Kỳ, Kháng, Chiến, Nhất, Định, Thắng, Lợi.
Tới giữa năm 1947, tình hình các mặt trận đã tạm thời ổn định. Bác đề ra cho các cơ quan phải sản xuất để tự túc một phần. Muốn vậy cần phải có địa điểm ở tương đối tốt, phải có căn cứ địa trên một quy mô lớn.
Mỗi khi chúng tôi đi tìm địa điểm, Bác thường dặn những điểm cần thiết, nghe nhiều thành quen và do ảnh hưởng hay làm thơ của Bác, tôi tự sắp lại như một bài vè cho dễ nhớ:
Trên có núi
Dưới có sông
Có đất ta trồng
Có bãi ta vui
Tiện đường sang Bộ tổng
Thuận lối tới Trung ương
Nhà thoáng, ráo, kín mát
Gần dân, không gần đường
Chỉ có mấy câu ấy thôi, nhưng thực hiện được thật là khó. Núi đẹp thì thiếu sông, được nơi kín đáo lại không thoáng ráo, không gần dân. Tuy vậy, gắng sức vẫn tìm ra được nơi vừa ý, hợp yêu cầu: vừa bí mật quân sự, vừa là trại tăng gia, vừa sơn thuỷ hữu tình.
"Chủ tịch phủ" hồi này cũng không còn là chiếc lán dài nữa. Chúng tôi làm riêng cho Bác một cái lầu. Tầng trên để Bác ngủ và làm việc ban đêm, tầng dưới làm việc ban ngày, như vậy tránh được thú dữ và ẩm thấp cúa núi rừng ban đêm.
Gọi là nhà lầu, thật ra nó bé lắm. Bác giao hẹn: chiều cao chỉ hơn một đầu một với của Bác một chút, chiều ngang Bác đưa tay sang phải, sang trái vừa chạm đến, để tiện lấy được các vật dùng để ở vách. Bác bảo làm như vậy đỡ tốn công sức lao động, tiện giữ bí mật. Trên sàn chỉ cần một cái bàn con để Bác ngồi viết, xem sách là đủ.
Đồ dùng riêng của Bác thật là giản dị. Chỉ có cái chăn, cái màn, vài bộ quần áo và đôi dép cao su chúng tôi mua ở phố Sơn Dương thôi. Nếu được lệnh di chuyển đi đâu, chúng tôi chỉ việc đem cái màn và mấy bộ quần áo kia cuộn vào cái chăn của Bác thành một gói, thế là xong rồi. Về văn phòng, thì có ít sách, ít tài liệu đựng trong chiếc túi, đi đâu Bác đeo lấy, chúng tôi chỉ mang hộ Bác chiếc máy chữ xách tay. Do đó ngôi nhà lầu tuy nhỏ, mái lá sàn tre, mà vẫn rộng rãi.
Dạo này ngoài việc tập võ thuật, Bác lại hay tham gia đánh bóng và bơi lội. Bác chơi bóng chuyền rất vui. Người búng bóng, phát bóng chắc chắn, nhưng tuổi già nên chậm, chỉ đỡ được những quả nhẹ nhàng và ở phía trước thôi. Do đó hễ bên kia bị thua là cánh trẻ cứ nhằm Bác họ bỏ nhỏ, mà bỏ thì họ cứ bỏ bên trái, hoặc sau lưng Bác. Những lúc ấy Bác thường cười và kêu lên:
-A nó truy "tủ", Kháng, Chiến, Trường, Kỳ đâu? Hay Nhất, Định, Thắng, Lợi đâu? Bảo vệ "tủ" mau!
Bác cháu cười vang cả khu rừng.
Những lúc bơi lội, chúng tôi thường bơi quanh Bác để giúp Người những khi qua dòng nước mạnh. Bác thường đùa, Người chỉ vào mình và chúng tôi mà nói:
-Đây là "bà già", còn đày là các tàu bay khu trục.
Nhờ tập đều như vậy, nên mỗi khi đi công tác qua sông, bất kể ngày đêm, Bác vẫn cùng chúng tôi bơi qua sông một cách dễ dàng. Những lúc đi công tác gặp lũ to, suối lớn cũng ít khi Người chịu dừng lại.
Cuối thu năm 1947. Cuộc sống của Bác cháu chúng tôi đã khá chu đáo. Quanh nhà đã có vườn rau, giàn mướp, đàn gà, sân bóng, xà đơn, xà kép. Bác còn bảo mua đàn về để các đồng chí trẻ học nhạc, học hát cho vui.
Ngoài công tác, tăng gia của nhà ra, Bác lại cho chúng tôi tới làm giúp dân ở các xóm quanh đó, bày cho bà con biết cách làm ăn theo kỹ thuật miền xuôi, hoặc cho thuốc chữa bệnh, tham dự các buổi họp của dân v.v... Những buổi làm giúp dân như vậy, nhân dân thường đem cho gà và nếp. Trước chúng tôi không nhận, dân không bằng lòng, sau nhận rồi trả tiền, hoặc xem có các thứ gì dân cần thì mà thiếu thì biếu lại. Thế là cả hai bên cùng vui vẻ cả.
Giũa lúc ấy thì địch nhảy dù xuống thị xã Bắc Cạn. Tình hình chiến sự lúc này chúng tôi được biết là: Mặt trận từ Bình - Trị - Thiên trở vào Nam thì thế tấn công của địch tạm dừng lại. Còn ở ngoài Bắc, sau thời gian địch chiếm được các thành phố lớn và đường số 5, đường Hà Nội - Nam Định, chủ lực của chúng phải rải ra để chiếm đóng, nên các cuộc tấn công thời gian qua có giảm đi. Gần đây, sau khi nối được hành lang Đông - Tây (Tây Bắc, Hoà Bình, Hà Nội, Hải Phòng, Tiên Yên, Lạng Sơn) lại có thêm viện binh từ Pháp mới sang, địch quyết định tấn công Việt Bắc - nơi đầu não của kháng chiến. Chúng cho binh đoàn Bô-phơ-rê từ Lạng Sơn lên chiếm Cao Bằng, binh đoàn Com-muy-nan từ Việt Trì ngược sông Lô lên chiếm Đoan Hùng, Tuyên Quang, Chiêm Hoá, với âm mưu hội quân ở cả Bắc Cạn tạo thành một cái ô bọc lấy Việt Bắc. Rồi chúng cụp ô lại, khép chặt vòng vây, dưới đánh lên trên đánh xuống, nhảy dù những nơi nghi có cơ quan của Đảng và Chính phủ để lùng bắt, phá cho được đầu não của cuộc kháng chiến. Sau đó chúng sẽ chuyển từ giai đoạn chiến tranh sang thời kỳ bình định nốt các vùng khác. Kế hoạch của chúng thật là to lớn! Chúng đã xây một giấc mơ thật là "huy hoàng".
Sau khi Bác đã bàn bạc với Trung ương Đảng, với Bộ Tổng tư lệnh để đối phó với tình hình, rồi Người cho lệnh dời cơ quan. Tôi thắc mắc hỏi Bác về tình hình, Bác bảo:
-Chúng mạnh về hai gọng kìm, gọng kìm mà gãy thì cái ô cụp xuống sẽ thành ô rách! Tiếc là ta chưa có đủ chủ lực để chặn bàn tay của chúng thò vào trong ô, nên Bác và các chú cũng sẽ vất vả ít lâu đấy!
Tôi chưa hiểu hết nhưng cũng không tiện hỏi thêm.
Đêm ấy, chúng tôi xếp ra vừa tám gánh. Trời tối, mưa trơn, gió bấc hun hút. Bác, quần áo xắn gọn, tay chống gậy, khăn mặt vắt vai, chờ anh Tần. Anh Tần vừa đến, chúng tôi lập tức đòn gánh lên vai. Anh đưa đi toàn đường tắt, hẻo lánh - đường năm xưa đội Cứu quốc quân thứ hai đã đi xây dựng cơ sở. Trên chặng đường trơn như đổ mỡ ấy, chúng tôi lại có vài đồng chí vốn có đôi vai thờ, tuy tham gia kháng chiến có được rèn luyện, nhưng chưa phải đã quen, nên tới nửa đêm, có cậu đã bị tụt khá xa, anh Tân phải ghé vai giúp đỡ đồng chí yếu sức.
Ngày hôm sau nghỉ, chúng tôi đã tiêu thụ được một số lương thực nên đến đêm, cuộc hành quân thoải mái hơn. Trước lúc lên đường, Bác bảo:
-Rút kinh nghiệm đêm qua, hành quân thiếu công tác chính trị nên mệt, hôm nay các chú đi gần Bác, Bác kể chuyện nghe cho vui.
Lúc đầu Bác kể chuyện vui, chuyện thời sự, sau Người bảo:
-Các chú cần phải hiểu và thuộc Kiều, Chinh phụ ngâm mới được, đó là những áng thơ hay của nước mình.
Chúng tôi vâng lời. Người bắt đầu dạy. Tiếng Bác đọc trước, tiếng chúng tôi học theo sau, giọng ngâm nga trầm bổng, hoà với tiếng đòn gánh tre điểm nhịp, làm cho đôi chân bước quên cả mỏi.
Kể ra Người dạy và giảng cho chúng tôi nghe cái hay, cái đẹp của Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm cũng nhiều lần, nhưng tôi vốn không có khiếu văn chương nên quên cả.
Riêng chặng đường từ Quán Triều trở đi, đường to dễ bước, đoạn thơ Kiều lại phù hợp với lòng mình, nên tôi dễ thuộc hơn cả. Đó là đoạn:
"... Nửa năm hương lửa đang nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vào trời bề mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đùng thẳng rong
Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi.
Từ rằng: tâm phúc tương tri
Sao không thoát khỏi nữ nhi thường tình.
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Bằng nay bốn biển không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu!...
Tôi thích vì trong chúng tôi cũng có tay "hương lửa đang nồng" phải ra đi kháng chiến. Mà cái "nhà" của chúng tôi bên núi Hồng, sông Đáy cũng đang giữa lúc "hương lửa đang nồng" mà phải dứt lòng ra đi. Hơn nữa, tôi lúc ấy, thấy mình chốc đã ngót bốn mươi tuổi và đã nhiều phen cũng muốn lập gia đình, nhưng cứ nghĩ đến kháng chiến đang khó khăn lại cố quên đi. Thơ Kiều, Bác dạy sao nó đúng cái bụng mình thế! Nó vừa động viên mình đi đường, lại vừa giải quyết tư tưởng cho mình...
Kể tới đây, đồng chí Lý lại cao hứng ngâm tiếp:
Xót thay! huyên cỗi, thông già
Tấm lòng thương nhớ, biết là có nguôi!
Chốc đà mười mấy năm trời
Còn ra nay đã da mồi tóc sương.
Rồi đồng chí Lý lại kể tiếp ngay:
- Tôi nhớ đoạn này vì nó cũng hợp lắm! Cứ nghĩ những lúc Bác ở nước ngoài mà nhớ tới Tổ quốc, tới cụ thân sinh, hay trong kháng chiến, các chiến sĩ chúng ta nhìn về địch hậu nơi chôn nhau cắt rốn, các anh em miền Nam đang công tác ở ngoài này lúc này nhìn về miền Nam mới thấy hết cái sâu sắc của ý thơ, mới thấy sao nó hợp với lòng người đến thế.
Nói tới đây đồng chí Lý ngừng lại, nhắp thêm chén trà lấy giọng rồi kể tiếp:
-Trải qua hai đêm vất vả, chúng tôi về tới địa điểm và bố trí cơ quan làm việc trong một khu rừng, Ở đây ít lâu thì tin chiến thắng Bông Lau trên đường số 4, chiến thắng Đoan Hùng, Bình Ca trên sông Lô dồn dập bay về. Lúc này, tôi mới hiểu lời Bác nói trước khi đi: "Gọng kìm chưa gãy nhưng không mạnh nữa rồi!".
Thu dọn, bố trí chỗ ở vừa xong, Bác lại cho chúng tôi đi gặt giúp dân. Lúc này dân đang gặt gấp để cất giấu thóc lúa, phòng địch nhảy dù đốt phá.
Khu rừng chúng tôi ở, có con đường xuyên qua, nên dân hay đến hỏi công việc. Để tiện liên lạc, chúng tôi đặt ở lối vào một cái mõ, ai có việc cần hỏi cứ đánh mõ, chúng tôi sẽ ra. Sau mấy ngày đi gặt, cứ có mõ luôn, ra tới nơi chả thấy ai, chỉ thấy gạo, gà, mật ong đồng bào để đó, vì đồng bào sợ chúng tôi không nhận nên đánh mõ gọi, rồi bỏ quà lại.
Công việc đã tạm ổn định, thì một đêm, khoảng mười hai giờ, Bác đi họp về gần tới cơ quan, bỗng nghe tiếng vó ngựa rất gấp từ phía sau vọng đến. Người bảo:
-Chừng lại có việc gấp rồi!
Một lát sau, đồng chí Chánh văn phòng Bộ Quốc phòng cùng đồng chí bảo vệ, từ trên mình hai con ngựa ướt đầm mồ hôi nhảy xuống báo cáo với Bác và đưa thư của anh Văn xin ý kiến Bác. Qua ý kiến của đồng chí Chánh văn phòng, tôi được biết: Theo tin tình báo của ta, địch ngày mai sẽ nhảy dù chiếm khu vực này, phối hợp với binh đoàn Bô-phơ-rê rút từ Bắc Cạn về, chúng sẽ càn quét vùng Thái Nguyên, Tràng Xá...
Bác viết thư trả lời anh Văn và đặn dò đồng chí Chánh văn phòng xong, Người trở về. Sau khi Người dùng điện thoại trao đổi với các cơ quan gần đấy, Người ra lệnh cho chúng tôi thu xếp thuyên chuyển cơ quan. Thu xếp xong thì vừa ba giờ sáng.
Bác ra lệnh đi cả ban ngày, nên phân tán thành từng tổ hai, ba đồng chí một. Tôi được đi với Bác. Tới giữa một cánh đồng thấy có một cái lều bỏ trống, Bác bảo vào nghỉ một chút đỡ mệt rồi sẽ đi. Bác đã làm việc đêm qua ở hội nghị rất khuya và cả ngày cả đêm nay rồi, Bác cần phải nghỉ một chút để lại sức. Dù chỉ còn hai giờ nữa là sáng mà chỉ có hai Bác cháu, Bác vẫn cắt gác. Bác bảo: "Chú đi ngủ, rồi dậy gác từ năm giờ đến sáu giờ". Bác đã bảo là phải nghe, nên tuy áy náy tôi cũng phải tuân lệnh. Mệt quá, nằm xuống, tôi thiếp đi ngay, tới năm giờ mười, Bác mới gọi tôi dậy thay gác.
Trời sáng dần. Ánh nắng buổi sớm ngó vào trong lều. Tôi ngồi ngay cửa lều nhìn Bác ngủ. Bác kỳ này khoẻ lắm! Nước da hồng hào, gân ở bắp chân nổi lên cuồn cuộn, nên Bác đi bộ một đêm bốn mươi cây số là chuyện thường. Nhưng râu tóc so với ngày tôi mới được gần Bác thì bạc đi nhiều.
Thương Bác suốt ngày vất vả, tôi định để Bác ngủ tới sáu giờ ba mươi. Nhưng đúng sáu giờ Bác đã bừng dậy, Người hỏi:
-Quá giờ chưa?
Lúc này trời bỗng có sương mù nên cũng đỡ ngại địch nhảy dù sớm. Bác cháu tiếp tục lên đường. Dọc đường, tôi phàn nàn:
-Giá có lấy một tiểu đoàn bảo vệ thì Bác đỡ vất vả.
Bác ngạc nhiên hỏi tôi:
-Sao chú lại nghĩ vậy! Nếu ta có lực lượng thì để đánh giặc chứ! Có đánh được giặc mới bảo vệ được mình.
Sau đó Bác giải thích cho tôi rõ: Vì phong trào du kích chiến tranh chưa cao, nên ta còn phải phân tán bộ đội ra xây dựng cơ sở du kích trong các tỉnh. Khi nào du kích chiến tranh đã phát triển, lúc ấy ta sẽ rút dần bộ đội về, thành lập các lực lượng chủ lực, bấy giờ mà chúng còn mò sâu vào vùng tự do của ta như thế này, chúng sẽ biết!
Cả ngày hôm ấy, Bác cháu đi miết về đến Quảng Nạp. Tới Quảng Nạp thi được tin khoảng trưa hôm đó, địch đã nhảy dù xuống gần khu vực cơ quan vừa di chuyển, ở Quảng Nạp, còn đang chờ nghe tin các nơi, thì địch đã nhảy dù xuống Cù Vân, Đại Từ, binh đoàn Bô-phơ-rê chia một cánh quân tới chiếm Quán Vuông, Chợ Chu, phối hợp càn quét khắp vùng này. Bác ra lệnh cho các cơ quan chuyển sâu lên phía trên thượng nguồn sông Đáy.
Về địa điểm mới được mấy ngày thì tin giặc đã bị chặn đánh các ngả và rút khỏi Thái Nguyên chạy về Hà Nội. Chiến dịch Việt Bắc 1947 là thất bại lớn đầu tiên của giặc. Chúng tấn công ta, nhưng phải bỏ lại hàng ngàn xác chết, bị bắt sống hàng trăm tên.
Từ đấy, thế giằng co giữa ta và địch đã xuất hiện ở chiến trường chính, căn cứ địa của ta cũng từ đó được vững vàng. Nhà ở của Bác, chúng tôi kiến thiết đẹp đẽ, chu đáo hơn.
Giữa lúc tình hình ăn, ở đã tốt đẹp, thì quà chiến thắng các nơi lại gửi về liên tiếp. Cờ, súng, dù của giặc, Bác nhận rồi giao lại cho cơ quan sử dụng. Còn đường, sữa, Bác đem tặng lại cho các cụ, các cháu ở cơ quan, các thương binh ở bệnh viện, chúng tôi cũng có ít phần...
Nhìn các đồng chí cảnh vệ trẻ, đang lắng nghe mình nói chuyện, đồng chí Lý như chợt nảy ra một ý nghĩ gì, đồng chí nói:
-Tôi đi với Bác kể đã mười bảy năm, gian nan vất vả không phải là ít, nhưng chưa bao giờ, phải, chưa bao giờ nghe thấy Người thở dài một tiếng, kêu khổ lấy một lời, Người rất không bằng lòng khi nghe các đồng chí xung quanh kêu những tiếng: trời ơi, hoặc hát những lời ca ai oán, bi luỵ.
Đồng chí Lý kể tới đây, thì cháu nhỏ, con của đồng chí Lý cũng vừa đi học về. Nó chào các chú và cất sách, rồi lại gần các chú. Cháu cũng muốn được nghe những mẩu chuyện của bố cháu kể về Bác Hồ.
Một chú cảnh vệ xoa đầu cháu và hỏi:
-Lớn lên cháu sẽ làm gì?
Tiếng cháu trả lời trong vắt:
-Cháu muốn được học và làm việc bên Bác Hồ như bố cháu và các chú.