Đồng chí Thành đưa tôi tới bến đò năm xưa, nơi Bác từ chiến khu, lần đầu đặt chân lên đất Hà Nội. Lặng nhìn cảnh vật, anh bỗng thốt lên:
- Tiếc thật, nếu tôi là nhà văn, tôi có thể viết lại kỷ niệm này một cách sâu sắc. Nhưng với tôi, tôi chỉ có thể kể với anh những điều theo trí nhớ. Và khi tôi kể hết tôi sẽ đưa anh tới nhà đồng chí Kha, nơi Bác cũng đã dừng chân lại hôm ấy, để anh tìm hiểu thêm.
Sau đó đồng chí Thành thong thả kể lại kỷ niệm của mình:
"Tôi nhớ là vào khoảng ngày 23 hoặc 24-8-1945, tôi được đồng chí cán bộ phụ trách tới bàn cách đón và bảo vệ một đoàn cán bộ của trên sẽ về ở lại địa phương tôi vài ngày.
Sau khi đã bàn định cách bảo vệ, nơi ở, bến đón xong, chúng tôi ra bến đò chờ đoàn cán bộ. Quang cảnh sông Hồng hôm ấy tôi còn nhớ rõ: Qua mấy ngày lũ lớn, ngấn nước còn in ngang thân đê. Nhân dân dưới bóng cờ đỏ sao vàng đã chiến thắng trận lũ lớn nhất, và vẫn đang tiếp tục sửa sang lại đê điều đề phòng cơn lũ khác. Trên sông, thuyền bắt đầu xuôi ngược. Cờ đỏ sao vàng bay trên thôn xóm hai bên sông, cờ bay trên đỉnh cột buồm, bóng cờ thấp thoáng dưới dòng sông tạo nên một không khí rộn rã, quật khởi lạ thường. Lúa sau đê bấy giờ đang ở thì con gái, mỗi làn gió đưa lại, sóng lúa xanh dờn.
- Chúng tôi chờ từ một giờ trưa tới khoảng ba giờ chiều thì thấy một chiếc thuyền - loại thuyền đánh cá sông - từ phía trên Vĩnh Yên xuôi xuống.
Đếm trên thuyền, trừ vợ chồng nhà ông lái, còn có mười ba người nữa. Người nào trông dáng dấp cũng cao to. Quần áo màu chàm, màu nâu, gọn gàng, vũ trang đầy đủ.
Chúng tôi đoán: "Có lẽ đoàn cán bộ mình đến đây". Nghĩ vậy, anh em chúng tôi liền tiến ra bờ sông.
Khi đoàn cán bộ đã xuống thuyền được một nửa, chúng tôi mới nhận ra trong đoàn cán bộ có một cụ già. Trông cụ gầy yếu lắm! Cụ mặc bộ quần áo nâu, đầu đội chiếc mũ cát đã cũ, ngang sườn mang túi dết màu chàm. Tay cụ cầm chiếc gậy song nhỏ và chiếc đèn pin. Cụ toan xắn quần lội xuống bãi lầy để vào bờ, nhưng có một đồng chí đã trao vũ khí cho bạn và nhất định đòi cõng ông cụ ( ). Khi ông cụ và mọi người lên khỏi bãi lầy, tất cả đều quay lại vẫy chào vợ chồng người lái thuyền.
Giữa lúc đó, đồng chí cán bộ phụ trách của chúng tôi cũng vừa tới, vẻ mặt cảm động, anh dẫn chúng tôi tới chào ông cụ và các cán bộ.
Ông cụ bắt tay chúng tôi và nói:
- Các chú là tự vệ thôn đây?
- Dạ.
Ông cụ liền chỉ vào các đồng chí cùng đi và nói:
- Các chú đây là Giải phóng quân.
Lâu nay ba tiếng Giải phóng quân có sức thu hút mãnh liệt đối với tôi. Hàng ngày đứng trên đê, hướng về dãy núi Tam Đảo, tôi ao ước sao có cánh để bay tới chiến khu Tuyên Thái mà sống cuộc sống chiến đấu và tự do trên ấy. Tôi đã nhiều lần đề nghị với cấp trên cho thoát ly để tham gia Giải phóng quân, nhưng chưa được. Giờ đây trước mắt tôi những con người bấy lâu tôi mơ ước đang tươi cười, hùng dũng bắt tay tôi. Tôi không sao nén được cảm động trước những người đồng chí tuy mới gặp lần đầu này.
Chúng tôi đưa ông cụ về trụ sở tự vệ của chúng tôi ở trong thôn. Tới cổng thôn, ông cụ dừng lại xem các khẩu hiệu cách mạng kẻ trên các bức tường đầu thôn. Chợt nhìn thấy hàng giây cờ căng trước cổng thôn, ông cụ bỗng hỏi:
- Sao các chú làm cờ của ta nhỏ hơn cờ của các nước Đồng minh?
Chúng tôi cùng nhìn lên, thì ra cờ của ta nhỏ hơn cờ của các nước Đồng minh thật!
Một đồng chí thưa với ông cụ:
- Dạ, vì giấy đỏ và vàng nhân dân mua làm cờ nhiều quá nên thiếu ạ! Vì muốn cho đủ, nên chúng cháu phải cắt nhỏ đi một chút.
- Không nên - Ông cụ khẽ lắc đầu và bảo - Các chú phải hiểu là: cách mạng đã thành công, nước ta đã giành được độc lập và đã ngang hàng với các nước khác, vì vậy cờ của ta phải được ngang hàng với cờ các nước, đã treo ngang hàng thì khuôn khổ phải bằng nhau. Có thế mới tỏ rõ chí tự cường, tự trọng của mình.
Chúng tôi vâng lời, một đồng chí tự vệ vội trèo lên lấy hàng giây cờ xuống để sửa lại.
Về tới trụ sở của đội tự vệ, nói là trụ sở, thật ra chỉ là ngôi miếu gần đình của thôn tôi, cả ngôi miếu bấy giờ chỉ có hai cái phản dùng để chúng tôi nghỉ khi đi tuần tra canh gác về. Sở dĩ chúng tôi chọn nơi đây là cốt để yên tĩnh và chờ đến tối sẽ di chuyển sang địa điểm khác. Tôi vội đi trước, toan giải chiếu lên phản, nhưng ông cụ gạt đi, ngồi ngay lên phản không. Hai đồng chí Giải phóng quân bố trí gác cùng anh em tự vệ chúng tôi phía ngoài. Số còn lại thì vào nghỉ ở chiếc phản kế bên.
Tồi mang bộ đồ trà tới. Quen như tiếp khách ở nhà, tôi toan rót nước ra chén, ông cụ bảo:
- Cháu cứ để đây, ai khát sẽ rót uống, không nên rót sẵn.
Tôi vâng lời. Ông cụ lại hỏi:
- Các chú có báo không?
- Dạ có ạ.
Tôi vội mang tới cho cụ tờ báo Cờ giải phóng chúng tôi vừa mua ban sáng. Ông cụ chỉ đầu bài, rồi giao cho một đồng chí Giải phóng quân đọc, các đồng chí khác ngồi quây quần lắng nghe. Ông cụ ngồi bên vừa nghe, vừa thỉnh thoảng ghi những gì vào sổ tay. Có lúc cụ cho dừng lại, nêu câu hỏi để các đồng chí Giải phóng quân phát biểu ý kiến, rồi cụ giảng giải thêm rồi lại đọc tiếp.
Mỗi việc làm và cử chỉ của cụ làm tôi rất ngạc nhiên. Sao có ông cụ giản dị và dạy bảo mọi người chu đáo như vậy?
Bữa cơm tối hôm đó chỉ có gạo đỏ, canh mướp. Tất cả quây quần cùng ngồi ăn. Trong lúc ăn, tôi ngại là cụ đã già rồi, bữa ăn như vậy nuốt sao trôi, nhưng cụ dùng cơm rất vui vẻ như mọi đồng chí khác.
Cơm xong thì anh Khánh (đồng chí Hoàng Tùng) tới đón ông cụ lên thôn trên.
Trong lúc tiễn cụ, tôi thầm hỏi anh Khánh:
- Ai đấy anh?
Anh Khánh mỉm cười, vẻ bí mật trả lời tôi:
- Ông cụ là bạn của Cụ Hồ đấy.
Tôi đã được nghe tin là Cụ Hồ sẽ về làm Chủ tịch hay Thủ tướng Chính phủ của ta. Nay anh Khánh cho biết ông cụ này là bạn của Cụ Hồ, như vậy chắc cũng là cán bộ cao lắm! Trong lòng tôi càng thêm kính phục ông cụ và các đồng chí Giải phóng quân".
*
Tôi gặp đồng chí Kha, đồng chí Kha kể tiếp đoạn chuyện trên của đồng chí Thành:
... Cũng ngay đêm đó, thôn tôi có cuộc họp của phụ nữ cứu quốc. Hội nghị vừa bắt đầu khai mạc, tôi đang phát biểu ý kiến, thì chị tôi tất tả chạy đến gọi tôi:
- Cậu Kha về ngay, nhà có khách... Có nhiều người đeo súng lắm! Cả anh Khánh về đấy! .
Tôi và đồng chí Đông - người bạn chiến đấu cùng thôn - vội vã chạy về. Tới cổng nhà, thấy có hai đồng chí to lớn như đang đứng chơi. Tôi đi vào, các đồng chí đó hòa nhã, hỏi trước:
- Đồng chí ở đâu đến?
Tôi trả lời:
-Tôi về nhà.
Thấy chị tôi cùng đi với tôi, các đồng chí hiểu ra ngay, nên không hỏi thêm nữa. Tôi vào nhà, thấy anh Khánh và ông cụ đang ngồi nói chuyện với nhau ở chiếc bàn nhỏ ở gian bên. Còn các đồng chí khác thì ngồi hoặc đứng ở gian bên này. Đèn phẫu đã được thắp sang trưng.
Tôi đoán ông cụ là cán bộ cùng các đồng chí Giải phóng quân ở chiến khu về, nên lòng mừng khấp khởi, chạy vào chào hỏi:
- Chào các đồng chí! Các đồng chí ở chiến khu về?
Ông cụ và anh Khánh cùng mọi người đều vui vẻ chào lại chúng tôi.
Quen như các anh cán bộ vẫn về nhà, tôi đề nghị luôn:
- Đề nghị các đồng chí kể chuyện chiến khu kháng Nhật cho chúng tôi nghe với.
Anh Khánh vội ghé tai tôi, nói:
- Các đồng chí đi xa về để các đồng chí nghỉ - Nói xong anh đưa tôi ra sân và bảo thêm: Các đồng chí này sẽ ở lại đây vài ngày. Đồng chí liệu thu xếp việc ăn ở cho tiện và bố trí tự vệ canh gác cho tốt.
Thấy khác mọi khi, tôi phân vân trong bụng chưa hiểu ra sao cả. Nhưng hình ảnh ông cụ đã đập ngay vào đầu óc tôi "Sao trong Việt Minh ta lại có những đồng chí già như vậy? Sao ông cụ được mọi người kính nể vậy?" - Tự nhiên tôi cứ băn khoăn hoài!
Đêm ấy, đội tự vệ chúng tôi bố trí bảo vệ nghiêm mật hơn mọi hôm, vì ô tô Nhật chạy ngược chạy xuôi trên đê nhiều hơn.
Sáng sớm, tôi trở về đã thấy ông cụ đi lại trên sân và đang như thở hít không khí.
Bữa cơm trưa hôm ấy nhà tôi chuẩn bị cũng khá tươm tất. Lề thói quê tôi là khi có khách, bao giờ cũng bày mâm thau, bát cổ. Cơm thì xới ra liễn mang từ nhà dưới lên. Khách kính trọng thì mời ngồi lên phản trên. Thấy tôi sửa soạn như vậy, ông cụ không bằng lòng, bảo trải chiếu xuống đất, ngồi vòng tròn theo hai mâm, cùng ăn. Cơm thì để cả nồi cho nóng, ai ăn, đi xới lấy. Đây là lần đầu tiên nhà tôi thay đổi theo tập tục mới và giữ mãi cho tới nay.
Ngày hôm ấy có cán bộ từ Hà Nội tới. Sáng hôm sau lại có hai ô tô chở nhiều anh cán bộ đến làm việc với ông cụ. Tôi cũng không rõ là những ai.
Qua đêm nữa có ô tô đến đón ông cụ.
Trước khi đi, ông cụ hỏi:
-Nhà ta còn có ông cụ phải không?
Tôi vội thưa:
-Dạ, thầy tôi mất rồi, còn ông tôi ạ.
Ông cụ nói:
-Chú cho tôi gặp để tôi chào cụ và gia đình.
Tôi vội đi mời ông và mẹ tôi cùng gia đình tới.
Ông cụ thấy ông tôi chống gậy liền ra đỡ vào trong nhà, và bảo cả gia đình quây quần xung quanh. Sau mấy câu chuyện thăm hỏi về làm ăn sinh sống trước nay, cụ nói:
-Chúng tôi về đây được gia đình giúp đỡ nhiều điều. Bây giờ có công việc phải đi, vậy xin cảm ơn cụ và gia đình. Sau này chắc thế nào cũng có dịp tôi trở lại thăm cụ và gia đình.
Rồi ông cụ bắt tay ông tôi và cả gia đình từ lớn đến bé. Tôi theo tiễn ông cụ ra ô tô. Nhân dân ven đê đang vớt củi rều khá đông, tất cả đều dừng tay nhìn theo ông cụ. Ông cụ vui vẻ chào hỏi mọi người, như thân thuộc từ lâu. Khi ông cụ lên xe, chúng tôi và đồng chí Giải phóng quân ở lại đều tới bắt tay ông cụ.
Khi xe chạy rồi, nhìn theo xe, sao lòng tôi lưu luyến thế!
Chiều hôm ấy các đồng chí Giải phóng quân rủ tôi ra sông tắm. Trong lúc đi đường, một đồng chí cao lớn, đẹp trai (tôi nhớ khuôn mặt trông hệt như Đại tá Đàm Quang Trung hiện nay) hỏi tôi:
-Đồng chí có biết đồng chí Nguyễn Ái Quốc không?
Tôi nhớ đã có lần anh cán bộ phụ trách nói chuyện với tôi: "Có lẽ đồng chí Nguyễn Ái Quốc sẽ làm Tổng thống hay Chủ tịch nước", nên nghe hỏi vậy tôi liền trả lời:
-Tôi biết tiếng nhưng chưa thấy người.
Mấy đồng chí Giải phóng quân liếc mắt nhìn nhau mỉm cười.
Nụ cười ấy làm tôi càng suy nghĩ nhiều về ông cụ.
*
Đồng chí Kha kể tiếp:
Sáng mồng hai tháng chín, đội tự vệ hai thôn chúng tôi cùng với nhân dân về Ba Đình dự lễ Tuyên ngôn độc lập.
Chúng tôi được xếp đứng gần khán đài.
Nghe danh sách Chính phủ nhân dân lâm thời chúng tôi cũng như mọi người, đều náo nức chờ mong được nhìn thấy tận mắt vị Chủ tịch đầu tiên của đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tôi căng mắt nhìn, mình đã được gặp Người bao giờ mà sao quen thế! Chợt mấy anh em tự vệ kêu lên:
-Đúng ông cụ rồi.
-Ông cụ về làng ta là Hồ Chủ tịch rồi.
-Trời ơi! Sướng quá! Đúng ông cụ rồi!
Phải, đúng ông cụ rồi! Tôi, đồng chí Thành, và tất cả anh em tự vệ nhận rõ quá rồi! Ông cụ hôm nay chỉ khác mấy hôm trước là Cụ mặc bộ quần áo ka ki, còn vẫn cái mũ, cái gậy song nhỏ ấy, vẫn vầng trán, cặp mắt, chòm râu ấy! Nhìn, ngắm Hồ Chủ tịch, lắng nghe bản Tuyên ngôn Độc lập Người đọc, lòng tôi bỗng trào lên niềm xúc động không sao tả được.
Hôm ấy, trên đường về, hai thôn Xù, Gạ chúng tôi sôi nổi câu chuyện: Hồ Chủ tịch là ông cụ đã về làng ta. Mỗi lời nói, mỗi cử chỉ, hình dáng của Hồ Chủ tịch được mọi người say sưa kể lại.
Tôi về phấn khởi kể chuyện ấy với ông tôi. Nghe kể, ông tôi sung sướng nói:
-Ừ, thoáng qua, tao đã thấy cụ là người tài đức lắm! Nước mình có vị Chủ tịch gần dân như vậy thật là hồng phúc quốc gia lớn lắm!
Suy nghĩ một lát, ông tôi lại nói:
-Cháu ạ! Tao ngẫm xem trước kia Lý Thái Tổ từ Hoa Lư ngược sông Hồng ra Thăng Long, dân Việt ta nổi cơ đồ từ đó. Ngày nay Hồ Chủ tịch từ Tân Trào thuận sông Hồng trở về Hà Nội, trên thuận lòng trời, dưới hợp ý dân. Tao cho cái thế này là cái thế dân Việt ta bạt núi, ngăn sông, lấp biển, không có việc gì khó nữa đâu!
Tôi lúc ấy đang máu thanh niên nghe thấy câu "Trên hợp lòng trời" thì không đồng ý. Ông bảo tôi:
-Cháu có lý của cháu! Ông có lý của ông! Trước kia, Lý Thái Tổ ra Thăng Long là rồng vàng bay lên. Bây giờ Hồ Chủ tịch về Hà Nội, dân mở hội treo cờ. Cờ làm cho mây, nước cũng đỏ một màu, như vậy không trên thuận lòng trời, dưới hợp ý dân là gì? Cháu phải biết ý dân là ý trời!
*
Gần cuối năm 1946, khoảng sau Hội nghị Văn hoá toàn quốc, tôi nhớ đúng như vậy, tôi được chị Thanh báo tin:
-Mai đồng chí Kha ở nhà, chị sẽ lại chơi.
Chị Thanh là cán bộ gây cơ sở ở vùng tôi đã lâu. Chị lại là bạn thân của mẹ tôi. Nay chị nấu ăn cho Bác. Nghe chị hẹn về chơi, mẹ tôi mừng lắm! Cả nhà hôm sau trông đợi chị.
Vào khoảng chín giờ sáng hôm sau, tôi đang lợp lại mái nhà dưới, thấy có ô tô đỗ ở trên đê gần lối vào nhà mình. Rồi chị Thanh, một đồng chí nữa cùng với Bác đi vào nhà tôi. Tôi mừng quá vội chạy ra đón.
Thấy tôi, Người nhận ra ngay, Bác hỏi:
-Chú Hai vẫn khoẻ?
-Dạ.
Tôi đưa Bác vào nhà. Bác lại hỏi:
-Cái ao đằng trước đâu rồi?
Bác vẫn nhớ cái ao nhà tôi, nhưng vì nay có đống rạ to che khuất, nên Người không trông thấy, Người cười vui vẻ.
Mẹ tôi và các cháu lớn lên chào Bác. Người thân mật bắt tay khắp lượt và hỏi:
-Cụ đâu? Người có được khoẻ không?
Tôi hơi ngại ông tôi khi gặp Bác - vì ông tôi đã già rồi, đầu óc phong kiến quá nặng, sợ khi nói chuyện có cái gì sẽ phiền, nhưng Bác đã hỏi, tôi vừa bảo các cháu đi mời thì ông tôi đã chống gậy tới. Cũng như năm trước, thấy ông tôi đến, Bác chạy ra dắt vào. Ông tôi thấy Bác liền chắp tay, cúi rạp xuống vái chào. Bác ngăn lại và nói:
-Giờ là anh em một nhà cả, cụ đừng làm vậy.
Ông tôi trả lời:
-Dạ thưa Cụ Chủ tịch, bao giờ cũng phải có thứ bậc thì nước mới cường, dân mới thịnh ạ.
Bác cười, rồi trả lời:
-Các cấp cán bộ của ta đều là đầy tớ của dân cả. Như vậy nước mới cường, dân mới thịnh.
Ông tôi nói:
-Xin vâng lời dạy của Cụ.
Khi đã đông đủ gia đình, Bác bảo chụp ảnh để làm kỷ niệm. Ông tôi sung sướng quá, đứng lặng đi trước vinh dự ấy.
Chụp ảnh xong, Người dặn:
-Tôi sẽ ăn cơm trưa với gia đình, nhà ăn thế nào, tôi sẽ ăn thế.
Mẹ tôi và chị Thanh có mua thêm con gà làm cơm. Khi bưng cơm lên, Bác ngạc nhiên, gọi chị Thanh hỏi:
-Cô làm thế nào hoá ra cỗ thế này! Nay cô làm thế này, mai tới nơi khác cô sẽ bảo nhân dân giết bò, giết lợn để đãi tôi chăng?
Chị Thanh lo quá! Mẹ tôi vội trình bày với Bác là:
-Đất lề, quê thói, mỗi khi nhà có khách, để tỏ lòng kính trọng...
Bác bảo dọn cơm cả gia đình cùng ăn.
Chiều hôm ấy, các đồng chí trong ủy ban xã và một vài cán bộ huyện về công tác cũng tới để chào Bác.
Quen như mỗi khi có cán bộ cấp trên tới, chúng tôi chuẩn bị sẵn trong óc báo cáo về tình hình trong xã. Không ngờ mở đầu Bác hỏi:
-Xã các chú có bao nhiêu mẫu ruộng? Hai vụ chiêm, mùa gieo hết bao nhiêu giống? Thu hoạch được bao nhiêu?
Lúc ấy, chúng tôi đâu đã có kế hoạch sản xuất! Vì vậy trước câu hỏi của Bác, chúng tôi đành chịu không biết đằng nào mà thưa cả.
Bác lại hỏi:
-Đời sống bây giờ so với trước ra sao? Có bao nhiêu gia đình khá, bình thường, có bao nhiêu gia đình bị đói kém?
Cái này thì có thể hiểu qua được. Chúng tôi báo cáo với con số ước lượng.
Bác không bàng lòng, Người bảo:
-Các chú phụ trách một xã, mà cái sống còn nhất lại không rõ thì còn nói gì nữa.
Lúc ấy đồng chí Chuyên vừa tới, vào chào Bác. Người hỏi:
-Chú làm công tác gì?
-Dạ, tuyên truyền ạ.
-Giờ chú tuyên truyền gì?
-Chương trình Việt Minh ạ.
-Bây giờ phải tuyên truyền về hiến pháp - Bác bổ sung.
Rồi Người căn dặn chúng tôi, tôi nhớ đại ý: Ngoại thành là cái đai của nội thành. Ngoại thành vững vàng thì nội thành cũng dễ dàng vững chắc. Muốn ngoại thành vững vàng thì cán bộ ta phải chăm lo củng cố đoàn thể, chăm sóc việc sản xuất. Muốn sản xuất tốt thì nên lập quỹ nghĩa sương để giúp đỡ người thiếu vốn và chia công điểm cho tốt.
Dặn xong Bác lại hỏi:
-Tình hình này quân giặc có thể bội ước đánh ta, nếu xảy ra kháng chiến cô chú sẽ làm gì?
-Quyết chiến đấu, hy sinh cũng không sợ.
Bác bảo:
-Các cô, các chú quyết tâm đánh giặc như vậy là rất tốt. Nhưng phải hiểu là: giặc có nhiều cái mạnh ban đầu nhưng chúng có cái yếu về gốc rễ. Ta, chính quyền vừa lập, còn nhiều cái non yếu, muốn thắng được giặc phải vừa đánh vừa khắc phục nhược điểm để bồi bổ cho mình thêm khỏe. Do đó một mình các cô, các chú không đủ để thắng giặc. Phải làm thế nào toàn dân một lòng, quyết tâm chống giặc, khiến cho nó bị đánh ở khắp nơi, bị đánh bằng mọi thứ, mọi cách. Có vậy, thắng lợi mới chắc chắn về ta.
Sau khi Bác nói chuyện, đồng chí Tý thay mặt chúng tôi phát biểu ý kiến:
-Thưa Bác...
Bác ngắt lời, hỏi ngay:
-Chú muốn gì?
-Cháu xin chúc...
-Chú định chúc gì?
Đồng chí Tý cuống lên vội nói:
-Cháu xin chúc... Chúc Hồ Chủ tịch muôn năm.
Bác và chúng tôi đều cười. Bác bảo đồng chí Tý:
-Chú định chúc sức khỏe Bác phải không? Thôi các cô chú cứ làm công tác tốt thì Bác sẽ khỏe.
Để kết thúc câu chuyện, đồng chí Kha kể tiếp chuyện Bác trở lại thăm Phú Gia hồi Tết nguyên đán năm 1956.
Hôm ấy, trời vừa sáng, Bác đã tới thăm. Thật là một hạnh phúc bất ngờ của xã, toàn dân quây quần quanh Bác. Mái tóc Người bạc rồi, nhưng nước da hồng hào hơn. Đôi mắt Người vẫn sáng ngời. Những thiếu niên thì lần này mới được thấy Bác. Các em ngẩn người nghe như uống từng lời dạy của Bác. Bác thì vừa nói chuyện vừa như tìm lại xem những con người năm xưa Bác đã gặp, trải qua kháng chiến, nay ai còn ai vắng?...
Đồng chí Kha ngừng lời một lát rồi kết luận:
-Nghĩ từ lúc Bác về lần thứ nhất, hai thôn Xù, Gạ ( ) chúng tôi vùng dậy trong cách mạng tháng Tám; Bác về lần thứ hai, chúng tôi chuẩn bị kháng chiến; Bác về lần thứ ba, xã chúng tôi đang chia ruộng đất cho dân cày. Ngày còn là Xù, Gạ hai thôn mang tiếng là xã ngoại thành mà chỉ có vài ba người có văn hóa lớp ba. Ruộng vườn của thôn chúng tôi bị địa chủ ở thôn bên chiếm cả, dân thôn sống bằng các nghề đẩy xe bò thuê, bổ củi mướn. Nay đời sống hợp tác xã đã khá, trường trung học cấp II cứ phải mở rộng thêm mãi. Do đó dân xã ở đây nghĩ về Đảng thật không biết nói bao nhiêu lời mới diễn tả cho hết được.