As Mum had predicted, growing wheatgrass was easy.
Brandon packed his bag carefully every day. Sometimes he unpacked and repacked it, just to be sure he hadn’t forgotten anything.
Only the part of his test that involved Nelson was hard.
***
Hệt như mẹ đã đoán, trồng cỏ lúa mì thật đơn giản.
Mỗi ngày, Brandon đều cẩn thận soạn cặp đi học. Đôi khi, cậu còn lấy tất cả ra và xếp vào lại, chỉ để chắc rằng cậu không quên thứ gì.
Duy chỉ có phần thử thách liên quan đến Nelson là gay go.
***
Each morning, Brandon got out of bed ten minutes earlier than usual. He pulled on his clothes and ran over to Auntie May’s house, letting himself in with a key she had given him. Nelson would be curled up, grunting and groaning in his sleep.
When Brandon filled his water bowl, Nelson would open his eyes, show his teeth and growl.
***
Mỗi buổi sáng, Brandon rời khỏi giường sớm hơn mười phút so với thường lệ. Cậu mặc vội áo quần và phi như bay đến nhà dì May, mở cửa vào nhà bằng chìa khóa dì đã giao cho cậu. Nelson lúc ấy vẫn còn đang say ngủ, nằm cuộn tròn, thở khò khè và rên ư ử.
Khi Brandon đổ đầy bát nước của nó, Nelson liền mở mắt và nhe nanh gầm gừ.
Walking Nelson after school was no fun at all.
Nelson was like a stick insect, slow and creaky - until another dog appeared. Then he’d go round and round and tangle the lead - all in an effort to sniff the end of the dog that Brandon would most want to avoid sniffing.
***
Dắt Nelson đi dạo sau giờ học thật chẳng vui chút nào.
Nelson cứ như mấy con bọ que lề mề và kêu ồn ào - mãi cho đến khi một con chó khác xuất hiện. Khi đó, chú ta sẽ quay mòng mòng, chạy vòng quanh và làm rối tung dây dẫn chỉ để khụt khịt đánh hơi cái mông của con chó đó, đến nỗi Brandon gần như muốn nín thở luôn.
***
After the walk, it was Nelson’s dinnertime.
Brandon learned how to open a can, spoon out half of the dog food and cover it with crunchy little biscuits. Finally, he had to top it all with a scoop of powder that relieved Nelson’s aching joints.
***
Sau buổi đi dạo là đến giờ ăn tối của Nelson.
Brandon đã học được cách mở nắp hộp thức ăn, dùng muỗng lấy ra nửa phần ăn và phủ bánh quy giòn bé xíu lên đó. Cuối cùng, cậu còn phải rắc lên trên một muỗng lớn bột giảm đau khớp cho Nelson.
Nelson loved eating. Soon, too, he loved Brandon for being the one who fed him.
He stopped growling at Brandon in the mornings and he wagged his stiff old tail when Brandon arrived after school.
When Auntie May showed Brandon how to bathe him, Nelson didn’t seem to mind at all.
***
Nelson thích ăn lắm. Vì thế, chẳng mấy chốc nó mê tít Brandon vì cậu là người cho nó ăn hàng ngày.
Nó chẳng những không còn gầm gừ với Brandon vào mỗi buổi sáng mà còn ngoe nguẩy cái đuôi già cứng ngắc khi Brandon đến chơi với nó sau giờ tan trường.
Khi dì May chỉ Brandon cách tắm cho nó, Nelson dường như chẳng cảm thấy phiền toái tí nào.
After the first week, Auntie May was impressed.
“Let’s see if you’re still satisfied after two weeks,” Brandon heard Mum tell her.
After the second week, Auntie May was even more impressed.
“It’s only two weeks,” Mum said. “It’s still a novelty for him.”
***
Chỉ sau tuần đầu tiên, dì May đã thực sự bị ấn tượng.
“Để xem dì còn thấy hài lòng sau hai tuần không nhé!”, Brandon nghe mẹ nói với dì ấy.
Sau tuần thứ hai, dì May thậm chí còn thấy ấn tượng hơn.
“Mới chỉ hai tuần thôi”, mẹ nói. “Đây vẫn còn là điều mới lạ đối với thằng bé.”
***
Brandon knew what a novelty was, and looking after Nelson didn’t seem like a novelty at all.
Already, it felt normal. It was like brushing his teeth - not exactly fun, but part of his routine. Nelson needed water, and he needed food. For Brandon, the day could not begin or end before he’d done what he had pledged to do.
***
Brandon hiểu điều mới lạ nghĩa là gì, nhưng chăm sóc Nelson dường như không giống một việc mới mẻ gì hết.
Thật vậy, việc này rất đỗi bình thường. Nó giống như việc cậu phải đánh răng - dù không thực sự vui vẻ gì, nhưng đã trở thành một phần của thói quen hằng ngày. Nelson cần nước uống, cần đồ ăn. Còn đối với Brandon, trước khi bắt đầu hay kết thúc một ngày, cậu phải thực hiện xong danh sách những việc đã hứa với ba mẹ.
“A month is a long time, isn’t it?” Dad said one day. “Imagine an animal relying on you for a year, or two years, or ten.”
Brandon nodded. “I brush my teeth every day,” he said. “I’ll still be brushing my teeth ten years from now, right?”
“Good answer,” Dad replied. “But it’s not the same thing.”
***
“Một tháng quả là khoảng thời gian dài, con nhỉ?”, có ngày ba nói. “Con hãy tưởng tượng một con vật phải lệ thuộc vào con trong một năm, hai năm, hay thậm chí mười năm xem.”
Brandon gật đầu. “Con đánh răng mỗi ngày”, cậu tự tin nói. “Và con sẽ vẫn đánh răng trong mười năm tới, đúng không ạ?”
“Trả lời hay đấy”, ba đáp. “Nhưng hai việc này không giống nhau.”
***
Brandon couldn’t figure that out. “Why not?”
“Because your teeth are part of you. A dog is not.”
“A pet becomes part of you too,” Brandon said. “Auntie May says so.”
Dad smiled again. “Another good answer.” Then he laughed. “Mind you, she hasn’t got any teeth to take care of!”
***
Brandon không hiểu có gì mà không giống nhau chứ. “Tại sao ạ?”
“Vì răng con là một phần của con. Còn một chú chó thì không phải.”
“Thú cưng cũng sẽ trở thành một phần của chủ nhân nó”, Brandon nói. “Dì May bảo thế mà.”
Ba lại cười: “Lại là một câu trả lời hay”. Sau đó ba bật cười to: “Nhưng nhắc con nhớ này, dì ấy chẳng còn cái răng nào để chăm sóc cả!”.