• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. [Bản đọc thử] Kế toán tài chính - Tập 4
  3. Trang 3

  • Trước
  • 1
  • 2
  • 3
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • 2
  • 3
  • Sau

Trích từ Tập 4, Chương 37 SO SÁNH KẾ TOÁN VIỆT NAM-VASs VỚI IFRSs VÀ CÁC THỰC TẾ KẾ TOÁN TỐT NHẤT

1. Tổng quan về chế độ kế toán Việt Nam và các chuẩn mực kế toán quốc tế

(Overview of Vietnamese accounting regime & international accounting standards/ IFRSs/ IASs)

1.1. Hệ thống các chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế

(IFRSs/ IASs)

Xem chi tiết mục 1.4 chương 2 “Các hệ thống điều chỉnh công tác kế toán”.

1.1.1. Sự ra đời của IFRSs/ IASs

Các chuẩn mực kế toán quốc tế (International accounting standards, IASs) được soạn thảo bởi Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế, IASB (International accounting standards board). IASB được thành lập năm 1973 tại London để hoàn thiện và làm hài hòa các báo cáo tài chính. IASB soạn thảo các IASs thông qua một quá trình quốc tế mà chúng liên quan đến các kế toán viên chuyên nghiệp toàn cầu, những người lập và sử dụng các báo cáo tài chính, và các cơ quan soạn thảo các chuẩn mực kế toán quốc gia. Các chuẩn mực mới nay được gọi là các chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (International financial reporting standards, IFRS). IAS hay tên mới là IFRS tập trung vào việc đưa ra các hướng dẫn, yêu cầu trong việc lập và trình bày các báo cáo tài chính quốc tế. Nó không đi sâu vào kỹ thuật ghi chép Nợ, Có hay các sổ kế toán, các chứng từ kế toán.

1.1.2. Mục tiêu của IASB

(Objective of the IASB)

Các mục tiêu chính của IASB bao gồm:

(a) Phát triển, vì lợi ích chung, một bộ các chuẩn mực kế toán toàn cầu có chất lượng cao, có thể hiểu được, thực hiện được mà chúng yêu cầu các thông tin phải minh bạch và có thể so sánh được trong mục đích chung của các báo cáo tài chính.

(b) Đẩy mạnh việc sử dụng và áp dụng nghiêm túc các chuẩn mực này

(c) Làm việc chủ động với các cơ quan ban hành các chuẩn mực kế toán quốc gia để đạt được sự nhất trí cao trong các chuẩn mực kế toán trên phạm vi toàn cầu.

1.1.3. Các tổ chức quốc tế ảnh hưởng lớn đến IASs

(Other international influences)

Có một số tổ chức quốc tế có ảnh hưởng đến IASs như:

- Tổ chức quốc tế của các uỷ ban chứng khoán, IOSCO (The International organization of securities commisions), đại diện của các cơ quan thị trường chứng khoán thế giới.

- Liên đoàn quốc tế các kế toán gia (IFAC), được thành lập năm 1977, gồm hơn 100 tổ chức kế toán chuyên nghiệp của hơn 80 quốc gia trên thế giới.

- Hội đồng châu Âu EC (European commission).

1.1.4. Việc sử dụng IFRSs/ IASs trên thế giới

- Tất cả các công ty niêm yết ở các nước thành viên EU phải sử dụng IFRS trong các báo cáo tài chính hợp nhất từ năm 2005.

- Rất nhiều quốc gia sử dụng hệ thống kế toán quốc tế như Singapore, HongKong, Úc, Newzeland, Anh.

- Trong xu thế toàn cầu hóa thị trường tài chính ngày nay rất nhiều quốc gia phải cải tiến hệ thống kế toán của họ để phù hợp với IFRS đến mức độ sự khác biệt gần như không đáng kể như Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước trong khu vực như Đài Loan, Malaysia, ThaiLand...

- Thị trường chứng khoán Newyork Mỹ chấp nhận các công ty sử dụng IFRSs tuy nhiên có yêu cầu thêm bảng điều hòa so với các nguyên tắc kế toán Mỹ được thừa nhận chung-US GAAP, nó rất tương thích với IFRSs nhưng rất nhiều quy định chi tiết.

1.2. Hệ thống chế độ kế toán Việt Nam

(Vietnamese accounting regime)

1.2.1. Tổng quan về hệ thống chế độ kế toán Việt Nam

(Overview of Vietnamese accounting regime)

Hệ thống chế độ kế toán của Việt Nam theo góc độ chuyên ngành bao gồm (1) Hệ thống tài khoản kế toán, (2) Hệ thống báo cáo tài chính, (3) Hệ thống sổ kế toán và (4) Hệ thống chứng từ kế toán.

Về góc độ pháp luật, chúng ta có (1) Luật kế toán, (2) Hệ thống các chuẩn mực kế toán Việt Nam (VASs), (3) Các thông tư hướng dẫn và (4) các quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài Chính liên quan đến các quy định về hệ thống kế toán.

1.2.2. Hệ thống các chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS)

Từ năm 2001 đến cuối năm 2006 Bộ Tài Chính đã ban hành 26 VASs và các thông tư hướng dẫn các chuẩn mực. Các VAS về cơ bản giống như các IAS vì phần lớn nó được dịch từ các IASs sau đó nó được các nhà soạn thảo chế độ kế toán Việt Nam sửa đổi, bổ sung, cắt bớt để “phù hợp” với tình hình thực tế của Việt Nam. Tuy nhiên điều này làm cho tính nhất quán của hệ thống VAS bị hạn chế như phân tích ở phần dưới. Một số hướng dẫn chuẩn mực cũng như các thông tư, chế độ chế toán hiện hành còn chưa thống nhất với một số VAS.

1.2.3. Các thông tư hướng dẫn kế toán của Bộ Tài Chính (Accounting circulars)

Trong chế độ kế toán Việt Nam, các thông tư hướng dẫn của Bộ Tài Chính có vai trò rất quan trọng trong thực tế. Nhiều trường hợp nó có thể khác với (điều chỉnh) các chuẩn mực kế toán. Mới đây ngày 22/12/2014 Bộ Tài Chính đã ban hành thông tư 200/2014/TT/BTC hướng dẫn chế độ kế toán doanh nghiệp và thông tư 202/2014/TT/BTC hướng dẫn phương pháp lập và trình bày báo cáo tài chính hợp nhất. Hai thông tư này đã có những thay đổi rất lớn đến toàn bộ công tác kế toán ở các doanh nghiệp Việt Nam. Bởi vậy chúng ta sẽ thảo luận nhiều về 2 thông tư này.

Trong chương này chúng ta sẽ thảo luận những điểm khác nhau quan trọng giữa chế độ kế toán Việt Nam (theo chuẩn mực và thông tư hướng dẫn, gọi tắt là VAS) và các chuẩn mực, thông lệ kế toán quốc tế (IFRSS/ IASS), và các thực tế kế toán tốt nhất (giúp các kế toán viên có thể hiểu và áp dụng các thực tế kế toán tốt nhất cho công việc của mình) nhằm đáp ứng yêu cầu làm đúng chế độ quy định và thỏa mãn nhu cầu quản trị nội bộ của doanh nghiệp.

2. Tổng quan sự khác nhau giữa VAS VÀ IFRSs/ IASs

(Overview of the differences between VAS & IFRSs/ IASs)

2.1. IFRSs/ IASs không bắt buộc về hình thức (như biểu mẫu báo cáo thống nhất, hệ thống tài khoản kế toán thống nhất)

Khác với VAS, IFRSS/ IASS mặc dù đưa ra rất chi tiết các định nghĩa, phương pháp làm, cách trình bày và những thông tin bắt buộc phải trình bày trong các báo cáo tài chính nhưng IAS cũng như ở hầu hết các nước không bắt buộc tất cả các doanh nghiệp phải sử dụng chung các biểu mẫu báo cáo tài chính giống nhau vì các công ty có quy mô, đặc điểm ngành nghề kinh doanh rất khác nhau, nên hệ thống tài khoản, các hệ thống chứng từ, các sổ kế toán thống nhất và đặc biệt là các biểu mẫu báo cáo tài chính thống nhất sẽ không đáp ứng được yêu cầu đa dạng và phong phú của các doanh nghiệp và các nhà đầu tư.

Chế độ kế toán Việt Nam đưa ra một hệ thống tài khoản kế toán thống nhất, biểu mẫu báo cáo tài chính bắt buộc cho tất cả các doanh nghiệp áp dụng (hầu hết các quốc gia trên thế giới không làm như vậy). Một số ít quốc gia như Pháp có hệ thống tài khoản kế toán thống nhất nhưng nó mang tính hướng dẫn nhiều hơn, tính bắt buộc ít hơn. Theo chế độ kế toán Việt Nam, việc các công ty mở thêm các tài khoản cấp 1, cấp 2 ngoài hệ thống tài khoản kế toán thống nhất cần phải xin phép Bộ Tài Chính. Một số hiệp hội chuyên ngành của các nước có thể có một hệ thống tài khoản kế toán thống nhất, nhưng nó hoàn toàn mang tính hướng dẫn mà không có tính bắt buộc. Ví dụ Hiệp hội các khách sạn của Mỹ và Canada đưa ra một “Hệ thống tài khoản kế toán thống nhất dành cho các khách sạn của Mỹ và Canada” nó mang tính hướng dẫn không bắt buộc. Trên thực tế đó là một bộ các báo cáo tài chính, báo cáo quản trị và việc giải thích các chỉ tiêu của các báo cáo đó, không đưa ra ký hiệu tài khoản bắt buộc.

Tóm lại những vấn đề mang tính hình thức bên ngoài, chế độ kế toán Việt Nam mang tính bắt buộc cao, nhưng IFRS thì không.

2.2. IFRS có bộ khung kế toán và tính thống nhất cao giữa các chuẩn mực

(Xem chi tiết chương 6 “Bộ khung của IASB và VAS”). VAS còn nhiều vấn đề chưa rõ ràng, hướng dẫn thiếu nhiều tình huống (như giảm giá trị tài sản, việc tính toán và ghi chép thế nào?) và đặc biệt là còn mâu thuẫn giữa các chuẩn mực, và giữa chuẩn mực và thông tư. Ví dụ trong VAS quy định các khoản lãi lỗ khác như bán tài sản cố định được trình bày theo số lãi lỗ thuần, nhưng trong hướng dẫn của thông tư lại hướng dẫn ghi chép và báo cáo theo số gộp tổng thu nhập, tổng chi phí. Chúng ta sẽ thảo luận sâu ở các phần tiếp theo.

2.3. Sự khác nhau về hệ thống tài khoản

(Comparing betweens chart of accounts)

Có sự khác nhau lớn giữa chế độ kế toán Việt Nam và thông lệ quốc tế về hệ thống tài khoản. Xem chi tiết ở phần 2.2 “Thiết kế một hệ thống kế toán hiệu quả” chương 8 “Hệ thống thông tin kế toán”.

2.3.1. Hệ thống tài khoản kế toán thống nhất có cần thiết không?

(Is uniform chart of accounts necessary?)

a. Theo chế độ kế toán của Việt Nam, Bộ Tài Chính ban hành một hệ thống tài khoản kế toán thống nhất dùng chung cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên cần phải hiểu rằng hệ thống tài khoản này chỉ đáp ứng được việc lập các báo cáo tài chính thông thường cho các nhà đầu tư, các cơ quan quản lý nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu quản trị nội bộ của từng doanh nghiệp.

b. Theo IFRS: IFRS chỉ quy định về các báo cáo tài chính, không quy định về hệ thống tài khoản kế toán vì nó là các phương tiện kế toán để đáp ứng được đầu ra là các báo cáo tài chính. Theo thực tế kế toán quốc tế, doanh nghiệp tự thiết kế hệ thống tài khoản kế toán từ các yêu cầu thông tin và yêu cầu các báo cáo tài chính và báo cáo quản trị (không phải chỉ có yêu cầu của báo cáo tài chính), nhà thiết kế phân tích và đưa ra một hệ thống tài khoản phù hợp mà nó có thể đáp ứng được các báo cáo tài chính và báo cáo quản trị. Lưu ý rằng việc đáp ứng yêu cầu của các báo cáo quản trị cần nhiều tài khoản hơn so với yêu cầu của các báo cáo tài chính theo luật định. Ở hầu hết các nước, không có khái niệm hệ thống tài khoản kế toán thống nhất chung cho một quốc gia vì mỗi công ty có nhu cầu thông tin, quản trị rất khác nhau nên các công ty tự xây dựng cho mình là hợp lý nhất. Các học giả kế toán đúc kết kinh nghiệm, lý thuyết quản trị và kế toán để đưa ra các hệ thống tài khoản có tính hướng dẫn, tham khảo cho các công ty và giảng dạy ở các trường về kế toán.

c. Bình luận. Hầu hết hệ thống đào tạo kế toán tiên tiến và mang tính toàn cầu trên thế giới, đào tạo theo bản chất của giao dịch và các giao dịch đó được quản trị và được báo cáo như thế nào để đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư và các nhà quản trị doanh nghiệp. Họ không có hệ thống tài khoản kế toán thống nhất cho tất cả các doanh nghiệp. Các giao dịch được ghi nhận theo đúng bản chất và tên gọi của chúng. Ví dụ cuối kỳ kế toán, khi giá thị trường cổ phiếu mà công ty đầu tư kinh doanh bị giảm so với giá vốn, kế toán ghi điều chỉnh theo giá thị trường và ghi vào tài khoản “Lỗ chưa thực hiện từ các khoản đầu tư cổ phiếu” không ghi vào tài khoản “Chi phí tài chính” như của VAS.

Hầu hết những người đã được học và/ hoặc làm theo các hệ thống kế toán quốc tế hay mang tính thông lệ quốc tế (như US GAAP) đều cho rằng Hệ thống tài khoản kế toán thống nhất của Việt Nam chỉ nên mang tính hướng dẫn. Nếu công ty không quan tâm nhiều đến hệ thống thông tin quản trị, có thể sử dụng hệ thống tài khoản kế toán thống nhất. Những công ty cần nhiều thông tin quản trị, hệ thống tài khoản kế toán thống nhất của Việt Nam không đáp ứng được. Các công ty phải xây dựng lại hệ thống tài khoản kế toán. Nhưng một điều khó cho các doanh nghiệp này là họ vẫn phải dùng hệ thống tài khoản kế toán thống nhất làm bộ khung. Điều đó làm cho hệ thống tài khoản kế toán của các doanh nghiệp trở nên phức tạp, rắc rối hơn rất nhiều và gây khó khăn cho doanh nghiệp.

Hiện tại, các công ty muốn có một hệ thống kế toán hiệu quả cần phải thiết kế riêng cho mình một hệ thống tài khoản dựa trên hệ thống tài khoản kế toán thống nhất và các nhu cầu thông tin quản trị nội bộ của công ty. Hệ thống tài khoản kế toán đó phải đáp ứng được yêu cầu của không những các báo cáo tài chính cho các nhà đầu tư theo chế độ kế toán Việt Nam mà điều quan trọng là cho các báo cáo quản trị nội bộ của công ty. Để hiểu sâu thêm về một hệ thống tài khoản kế toán có hiệu quả cao, bạn hãy tham khảo ở phần 1.4 và 2.2 chương 8 “Hệ thống thông tin kế toán” và phần phụ lục của chương 8 “Hệ thống tài khoản cho báo cáo kết quả” của một công ty hàng tiêu dùng nhanh.

2.3.2. Tên gọi của tài khoản kế toán

- Theo thông lệ quốc tế tên gọi tài khoản chính là tên gọi ngắn gọn của số dư tài khoản hay chỉ tiêu cần quản lý.

- Không nên ghép chung nhiều chỉ tiêu khác nhau vào chung một tài khoản. Trong công tác kế toán, nhiều tài khoản không đồng nghĩa với phức tạp và ngược lại ít tài khoản không phải là đơn giản. Theo thông lệ quốc tế các chỉ tiêu khác nhau phải được ghi chép và báo cáo riêng biệt, không nên gộp chung nhiều mục có nội dung và ý nghĩa rất khác nhau vào trong một tài khoản. Ví dụ theo VAS, tài khoản chi phí tài chính bao gồm rất nhiều khoản mục có tính chất không giống nhau, có sự khác nhau về quản trị như chi phí lãi vay, lỗ đầu tư chứng khoán, lỗ chênh lệch tỷ giá ngoại tệ chưa thực hiện, lãi lỗ chênh lệch tỷ giá đã thực hiện, dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán. Theo thông lệ quốc tế, những chỉ tiêu này cần phải được ghi chép và báo cáo riêng biệt để phục vụ cho việc quản trị, bởi vậy các mục này được tách thành các tài khoản riêng biệt. Chi phí tài chính theo thông lệ quốc tế chỉ bao gồm chi phí lãi vay và các chi phí gắn liền với việc vay tiền. Lỗ do bán chứng khoán, lỗ chênh lệch tỷ giá, lỗ chưa thực hiện trên việc đầu tư (do giá thị trường giảm, nhưng chưa bán cổ phiếu ra, nên lỗ này chưa thực hiện) những khoản này được tách ra thành các tài khoản riêng biệt không nên để chung trong chi phí tài chính.

2.3.3. Kỹ thuật ghi chép tài khoản

(Xem chi tiết trong phần 4 chương 5 “Kế toán doanh thu và doanh nghiệp thương mại”).

Theo thông lệ quốc tế. Các tài khoản được thiết kế sao cho số dư cuối kỳ phản ánh đúng số tiền cần phải lên báo cáo. Ví dụ trong việc quản trị doanh thu bán hàng, các doanh nghiệp cần thông tin sau để quản trị và lập báo cáo tài chính (các số ở dưới chỉ là giả định):

b10

Chú thích:

(* Doanh thu ròng không phải là một tài khoản riêng biệt)

Bởi vậy số dư các tài khoản Chiết khấu bán hàng, Hàng bán bị trả lại và hàng bán bị giảm giá cuối kỳ khóa sổ đều được chuyển thẳng ghi Nợ vào tài khoản Xác định kết quả, không chuyển vào tài khoản doanh thu. Tài khoản doanh thu chỉ phản ánh doanh thu gộp. Bút toán khóa sổ các tài khoản này như sau:

b11

Như vậy tài khoản xác định kết quả là một bản tóm lược kết quả (Income Statement) nó có đủ doanh thu gộp, các khoản giảm trừ doanh thu và do vậy ta tính ra được doanh thu ròng.

Theo chế độ kế toán Việt Nam, phần hệ thống tài khoản kế toán thống nhất. Số dư các tài khoản chiết khấu và giảm giá, cuối kỳ được kết chuyển trực tiếp ghi Nợ TK Doanh thu để ghi giảm doanh thu. Như vậy số dư tài khoản doanh thu là số tiền doanh thu ròng chứ không phải là doanh thu gộp. Báo cáo kết quả kinh doanh cần trình bày doanh thu gộp và cả các khoản giảm trừ doanh thu, lúc đó kế toán viên lại phải cần một số kỹ thuật để lấy số dư của các tài khoản này trước khi nó được chuyển vào tài khoản doanh thu.

2.4. Có được ghi nhiều Nợ đối ứng với nhiều Có trong một định khoản?

- Thông lệ kế toán Việt Nam: Theo các tài liệu nguyên lý kế toán chính thống của Việt Nam từ những năm xa xưa (Do Trường đại học Tài chính Kế toán thuộc Bộ Tài chính và các trường đại học khác có dạy về kế toán xuất bản) đã đưa ra nguyên tắc ghi chép tài khoản là không được ghi nhiều Nợ đối ứng với nhiều Có trong một định khoản kế toán. Cho đến nay chúng tôi không tìm thấy một văn bản pháp lý nào cấm ghi nhiều Nợ đối ứng với nhiều Có. Mặt khác trong các văn bản chế độ kế toán hiện hành thông tư 200 và 202/2014 do Bộ Tài chính ban hành có nhiều định khoản có ghi nhiều Nợ đối ứng với nhiều Có trong cùng một định khoản. Điều đó được hiểu là chế độ kế toán hiện hành của Việt Nam cho phép ghi nhiều Nợ đối ứng với nhiều Có trong một định khoản. Tuy nhiên do thói quen từ những nguyên tắc ghi chép kế toán trước đây, nên trên thực tế nhiều công ty cũng áp dụng nguyên tắc không ghi nhiều Nợ đối ứng với nhiều Có trong cùng một định khoản, mà chỉ ghi một Nợ đối ứng với nhiều Có hoặc ngược lại một Có đối ứng với nhiều Nợ. Rất nhiều phần mềm kế toán Việt Nam cũng được viết theo nguyên lý đó. Rất nhiều công ty nước ngoài tại Việt Nam vẫn ghi nhiều Nợ đối ứng với nhiều Có trong cùng một định khoản như thông lệ quốc tế. Điều đó không làm giảm đi tính rõ ràng của kế toán vì nó có các chứng từ gốc kèm theo để chứng minh.

- Thông lệ kế toán quốc tế: Cho phép nhiều Nợ đối ứng với nhiều Có trong cùng một định khoản, tuy nhiên không nên lạm dụng việc ghi nhiều Nợ đối ứng với nhiều Có để mất đi tính rõ ràng của kế toán. Khái niệm ghi sổ cái một tài khoản, phải có tài khoản đối ứng cho mỗi một nghiệp vụ kinh tế (như thông lệ của Việt Nam) là không cần thiết và không thể làm được. Các phần mềm kế toán nổi tiếng và thông lệ quốc tế đều viết theo nguyên tắc cho phép nhiều Nợ đối ứng với nhiều Có. Việc cho phép ghi nhiều Nợ đối ứng với nhiều Có làm cho việc ghi sổ kế toán trở nên đơn giản và trong một số tình huống nó phản ánh đúng bản chất của giao dịch hơn là phải tách ra thành nhiều định khoản kế toán khác nhau chỉ để giải quyết quan niệm không ghi nhiều Nợ đối ứng với nhiều Có. Ví dụ về bảng lương cuối tháng, công ty thường kiểm soát chi phí nhân công theo (1) Bản chất các khoản mục thuộc chi phí nhân công như (a) Lương nhân viên, (b) Lương ngoài giờ (c) Chi phí bảo hiểm xã hội, (d) Bảo hiểm y tế và (2) theo từng phòng ban hay khối ví dụ (a) Nhân công trực tiếp (b) khối bán hàng (c) khối quản lý công ty (d) khối quản lý sản xuất. (3) Theo công nợ phải trả, công ty sẽ quản lý theo (a) Lương phải trả, (b) Thuế thu nhập cá nhân phải trả, (c) Bảo hiểm xã hội phải nộp, (d) Bảo hiểm y tế phải nộp, (e) Bảo hiểm thất nghiệp phải nộp. Ví dụ về ghi chép bảng lương theo thông lệ quốc tế được thảo luận chi tiết trong mục 5.7 chương 15: “Nợ ngắn hạn và chi phí lương”. Ở đây chúng ta chỉ đưa ra một ví dụ cho bút toán kế toán liên quan đến Chi phí lương cho các bộ phận, BHXH, BHYT, BH thất nghiệp thuộc trách nhiệm người lao động hàng tháng có thể được ghi như sau:

Nợ 6411 Lương- Chi phí bán hàng (Salary -Selling Expense)

Nợ 6421 Lương- Chi phí QLDN (Salary-General & Adm. Exp.)

Nợ 6271 Lương- Chi phí sản xuất chung (Salary-Factory Overhead)

Nợ 622 Lương- CP nhân công trực tiếp (Salary-Direct Labor Cost)

Nợ 6411 Ngoài giờ- Chi phí bán hàng (Over time -Selling Expense)

Nợ 6421 Ngoài giờ-CP QLDN (Over time -General & Adm. Exp.)

Nợ 6271 Ngoài giờ-CPSX chung (Over time -Factory Overhead)

Nợ 622 Ngoài giờ - CPNC trực tiếp (Over time-Direct Labor Cost)

Có 3335 Thuế thu nhập cá nhân phải nộp (Employee Income Tax Payable)

Có 3383 BHXH phải nộp (Social Insurance Payable) 5%

Có 3384 BHYT phải nộp (Health Insurance Payable) 1%

Có 338X BH thất nghiệp phải nộp (Unemployment Insurance Payable) 1%

Có 3341 Lương phải trả cho công nhân viên (Employee Payable)

17.200

22.200

14.700

20.000

914

752

551

1.154

695

3.425

685

685

71.981

2.5. So sánh hệ thống sổ kế toán theo thực tế kế toán quốc tế và Việt Nam

(Comparing accounting books of IAS with one of Vietnamese practices)

IFRS và VAS (Thông tư 200/2014) không quy định bắt buộc về hệ thống sổ kế toán và hệ thống chứng từ kế toán vì nó là các phương tiện kế toán để đáp ứng được đầu ra là các báo cáo tài chính. Công việc đúc kết các thực tế kế toán tốt nhất thường là của các học giả kế toán.

Hệ thống các sổ kế toán theo thông lệ quốc tế được trình bày chi tiết ở chương 8 “Hệ thống thông tin kế toán” (Accounting information system). Một hệ thống sổ kế toán làm bằng tay hiệu quả thường gồm các sổ nhật ký và sổ cái như sau:

(1) Sổ Nhật ký bán hàng (The Sales Journal)

(2) Sổ Nhật ký thu tiền (The Cash Receipt Journal)

(3) Sổ Nhật ký mua (The Purchase Journal)

(4) Sổ Nhật ký chi tiền (The Cash Payment Journal)

(5) Sổ Nhật ký chung (The General Journal).

(6) Sổ cái và sổ phụ hay sổ chi tiết (General & subsidiary ledger) có ở tất cả các hình thức sổ kế toán.

Hệ thống kế toán trên máy tính thường bố trí các module về cơ bản giống như hệ thống kế toán tay trình bày ở chương 8.

Trong chế độ kế toán Việt Nam, thông tư 200/2014 đã có những thay đổi rất lớn là không bắt buộc theo quy định của Bộ Tài Chính, mà nó chỉ mang tính tham khảo. Phần sổ sách của Bộ tài chính có trình bày 5 hình thức sổ kế toán là (1) Chứng từ ghi sổ, (2) Nhật ký chung, (3) Nhật ký sổ cái và (4) Nhật ký chứng từ và (5) kế toán trên máy vi tính.

3. So sánh kế toán các tài khoản của BCĐKT theo VAS với IFRS và các thực tế tốt nhất

(Comparing accounting for accounts of balance sheet according to VAS with the one of IFRS & best practices)

Bảng cân đối kế toán (BCĐKT) là một báo cáo tài chính quan trọng phản ánh tình hình tài chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm cụ thể. Chúng ta hãy so sánh một số các khoản mục lớn có ảnh hưởng đến BCĐKT theo IFRS và VAS. Bên trái trình bày khoản mục theo IFRSs/ IASs và thực tế kế toán quốc tế, bên phải theo VAS và thực tế kế toán Việt Nam.

3.1. Tiền (Cash)

IFRS: Ghi nhận ngay khi phát sinh thu chi tiền, khi phê duyệt séc. Doanh nghiệp không phụ thuộc vào ngân hàng. Cuối kỳ, kế toán phải lập bảng điều hòa, đối chiếu giữa số dư tiền theo sổ kế toán của công ty và theo số dư của ngân hàng. (Xem chi tiết mục 4 chương 9 Các giao dịch bằng tiền...)

VAS: Ghi nhận căn cứ vào giấy báo Nợ, báo Có của ngân hàng. Doanh nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào việc ghi chép của ngân hàng. Như vậy khi ngân hàng có ghi sai sót, nhầm lẫn doanh nghiệp vẫn phải theo?

3.2. Khoản phải thu thương mại

(Trade receivables/ Accounts receivable)

IFRS: Tách biệt giữa các khoản phải thu thương mại (từ bán hàng hóa, dịch vụ) và các khoản phải thu đầu tư và tài chính (do bán TSCĐ hay các khoản phải thu khác như bán cổ phiếu). Có như vậy kế toán có thể lập báo cáo lưu chuyên tiền tệ dễ dàng và chính xác, dòng tiền không bị lẫn lộn giữa các hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính. (Xem chương 24 báo cáo lưu chuyển tiền tệ). Các khoản phải thu thương mại không bao gồm các khoản phải thu về bán tài sản (đầu tư) hay tài chính, hay giữa các công ty trong một tập đoàn.

- Dự phòng phải thu khó đòi: Tùy theo bản chất, nếu khoản phải thu không có khả năng đòi được thì cần phải lập khoản dự phòng, không quan tâm đến thời gian nợ gốc theo hợp đồng ban đầu hay đã gia hạn.

- Tài khoản Phải thu nội bộ:

Thông lệ quốc tế cũng như thực tế kế toán tốt nhất tại Việt Nam thường tách ra phải thu nội bộ trong một công ty và phải thu nội bộ trong tập đoàn nhằm mục tiêu dễ dàng cho việc tính toán và loại trừ các giao dịch trong nội bộ công ty và nội bộ tập đoàn. Nếu không có tài khoản phải thu hay phải trả nội bộ tập đoàn, kế toán sẽ rất khó khăn trong việc làm báo cáo hợp nhất. Thiết nghĩ các công ty hoạt động theo mô hình tập đoàn nên và cần thiết phải có các tài khoản phải thu nội bộ, TK phải trả nội bộ cũng như tài khoản doanh thu nội bộ.

VAS: Không có sự tách biệt giữa các khoản phải thu kinh doanh (do bán hàng hóa, dịch vụ) với các khoản phải thu đầu tư và phải thu tài chính. Nó làm cho người đọc báo cáo tài chính không nhận được các thông tin đúng, ảnh hưởng đến việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ, dòng tiền từ hoạt động kinh doanh có thể rất dễ lẫn lộn với dòng tiền đầu tư.

- Dự phòng phải thu khó đòi: Thông tư 200 nêu rõ thời gian quá hạn của khoản nợ phải thu được xác định là khó đòi phải trích lập dự phòng được căn cứ vào thời gian trả nợ gốc theo hợp đồng ban đầu, không tính đến việc gia hạn nợ giữa các bên.

TK 131 Các khoản phải thu của khách hàng:

- Ngoài việc ghi nhận các khoản phải thu mang tính chất thương mại phát sinh từ giao dịch có tính chất mua – bán, như: Phải thu về bán hàng, cung cấp dịch vụ.

- TTư 200 còn thêm phải thu từ bán tài sản. Giữa doanh nghiệp và người mua (là đơn vị độc lập với người bán, gồm cả các khoản phải thu giữa công ty mẹ và công ty con, liên doanh, liên kết).

TK 136 Phải thu nội bộ: chỉ gồm các khoản phải thu giữa đơn vị cấp trên và đơn vị cấp dưới trực thuộc không có tư cách pháp nhân hạch toán phụ thuộc;

Bạn đọc nên ứng dụng các thông lệ quốc tế để công việc của bạn dễ dàng và đạt hiệu quả hơn.

3.3. Hàng tồn kho (Inventories)

a- IFRS: Tính giá thành sản xuất sản phẩm: thường sử dụng phương pháp giá thành thông thường (Normal costing): Nguyên liệu trực tiếp và nhân công trực tiếp tính theo thực tế (không quá định mức cho phép), nhưng chi phí sản xuất chung được phân bổ theo mức độ hoạt động bình thường (normal). Giá thành sản phẩm sẽ ổn định giữa các kỳ, bất chấp lượng sản xuất giữa các kỳ có thể khác nhau lớn. Chi tiết xem chương 35 Giá thành theo công việc và 36 Giá thành theo quá trình.

- VAS yêu cầu giống như IFRS tính giá thành theo phương pháp thông thường. Tuy nhiên do việc hướng dẫn chưa đầy đủ, rõ ràng cũng như các thông lệ từ trước đến nay và giáo dục trong các trường đại học, nên phần lớn các doanh nghiệp vẫn tính theo giá thành thực tế. Số thực tế về nguyên liệu trực tiếp, nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. Chi phí sản xuất chung phân bổ cho sản phẩm chưa tính theo mức độ hoạt động bình thường của doanh nghiệp như VAS quy định. Phân bổ chi phí sản xuất chung theo thực tế phát sinh có thể làm cho giá thành sản phẩm biến động lớn giữa các kỳ (tháng) (Hầu hết các doanh nghiệp hoạt động có tính thời vụ) và làm cho việc sử dụng giá thành sản phẩm cho việc định giá bán và cho các quyết định quản trị cũng bị hạn chế. Chi tiết xem các chương 34-36.

b- Chi phí nhân công trực tiếp thường không bao gồm các khoản bảo hiểm xã hội, y tế, thất nghiệp, công đoàn vì những khoản này thường không thể tính được chính xác cho 1 giờ của công nhân trực tiếp. Để thông tin có ý nghĩa hơn trong quản trị, chi phí nhân công trực tiếp sẽ biến đổi theo sản lượng sản xuất. Do vậy theo thông lệ quốc tế, chi phí nhân công trực tiếp thường chỉ bao gồm tiền lương, tiền công của công nhân trực tiếp và các khoản tiền gắn liền với giờ lao động trực tiếp có thể như tiền cơm giữa ca, tiền ngoài giờ hệ số 1. Nó không bao gồm các khoản tiền đi theo người lao động trực tiếp như chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, công đoàn phí, đồng phục, bảo hộ lao động. Tiền ngoài giờ hệ số chênh lệch lớn hơn 1 được tính là chi phí lao động gián tiếp. Chi tiết xem chương 35, 36.

- Chi phí nhân công trực tiếp là tiền lương và tất cả các chi phí cho người lao động trực tiếp sản xuất. Nó bao gồm cả các khoản ngoài lương như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chi phí công đoàn. (Trừ trong công ty xây dựng, tính giống như IAS vì phần lớn là công nhân thuê ngoài). Điều này có thể làm cho việc sử dụng thông tin giá thành cho các quyết định kinh doanh có thể bị sai lệch, không tốt cho việc ra các quyết định.

c- Giá thành của các tài sản sinh vật và sản phẩm nông nghiệp (Cost of biological assets, agricultural produce). (Xem chi tiết ở phần 2.2.6 chương 11 “Hàng tồn kho”)

- Theo IAS 41. Các sản phẩm nông nghiệp và tài sản sinh vật được ghi theo giá trị hợp lý trừ đi chi phí điểm bán hàng ước tính. Trừ khi giá trị hợp lý không xác định được một cách đáng tin cậy, sẽ sử dụng phương pháp giá gốc.

- Theo VAS, Nó được ghi theo giá gốc hay chi phí ban đầu. Không theo giá trị hợp lý trừ chi phí điểm bán hàng như IAS 41. Điều này có thể làm cho báo cáo tài chính của VAS không phản ánh trung thực tình hình tài chính của doanh nghiệp.

3.4. Đầu tư cổ phần dưới 20% vào công ty đầu tư

(Share Investments in investee less than 20% of investee ordinary shares)

3.4.1. Cổ phiếu kinh doanh (Trading securities)

(Chi tiết xem ở phần 2.1.3 chương 20 “Kế toán các khoản đầu tư”)

IAS: Ban đầu ghi khoản đầu tư theo giá phí, cuối kỳ ghi giá trị đầu tư theo giá thị trường. Chênh lệch giữa giá thị trường và giá ghi sổ trước đó sẽ ghi vào lãi lỗ chưa thực hiện (Unrealised gain/ loss).

VAS: Ghi theo giá gốc. Cuối kỳ nếu giá thị trường xuống thấp hơn giá gốc, lập khoản dự phòng ghi vào chi phí tài chính. Sang kỳ tiếp theo nếu giá cổ phiếu lên lại, điều chỉnh khoản dự phòng, ghi vào thu nhập tài chính. Theo ví dụ bên, VAS lập Báo cáo tài chính như sau:

b12

3.4.2. “Đầu tư chứng khoán sẵn-sàng-để-bán”

(Available-for-sale investments)

Ghi nhận ban đầu và điều chỉnh các khoản đầu tư sẵn sàng để bán (Initial recognition & adjusting the available-for-sale investments) (Xem chi tiết ở mục 3.1.3 chương 20 “Kế toán các khoản đầu tư”)

b13

b14

3.4.3. Đầu tư trái phiếu (Investments in bonds), Trái phiếu giữ cho đến hạn (bonds held-to-maturity). (Chi tiết xem mục 4 chương 20 “Kế toán các khoản đầu tư”)

b15

b16

3.4.4. Đầu tư vào công ty liên kết (Investment in associates) (Từ 20-50% vốn chủ sở hữu công ty được đầu tư). Xem phần 3.2 chương 28 Đầu tư vào công ty liên kết...

b17

b18

3.4.5. Báo cáo tài chính hợp nhất của bên góp vốn cho liên doanh

(Consolidated financial statement of a venturer)

Xem chi tiết phần 8.2 chương 28 “Đầu tư vào công ty liên kết, liên doanh”.

- Theo VAS 08, Nếu bên góp vốn liên doanh lập báo cáo tài chính hợp nhất thì trong báo cáo tài chính hợp nhất phải báo cáo phần vốn góp của mình vào cơ sở kinh doanh được đồng kiểm soát theo phương pháp vốn chủ sở hữu. (Như đề cập ở phần đầu tư vào công ty liên kết).

- Theo IAS 31 yêu cầu tất cả lợi ích trong các công ty liên doanh đồng kiểm soát được kế toán theo phương pháp hợp nhất tương ứng (Proportionate consolidation) hoặc phương pháp vốn chủ sở hữu (Equity method). Phương pháp hợp nhất tương ứng được ưa thích hơn. Phương pháp hợp nhất tương ứng khác với hợp nhất thông thường ở chỗ chỉ phần tài sản, nợ phải trả, thu nhập và chi phí thuộc sở hữu tập đoàn là được đưa vào trong tài khoản báo cáo. Nó không có lợi ích không kiểm soát (Non-controlling interests).

Tranh luận về phương pháp này là việc cộng các khoản mục được kiểm soát với các khoản mục đồng kiểm soát có thể làm cho người đọc hiểu nhầm (misleading). Nó cũng có thể tạo cho người đọc cảm giác rằng bên góp vốn liên doanh có ảnh hưởng đáng kể đối với công ty liên doanh chứ không phải chỉ đơn thuần là đồng kiểm soát.

Còn tiếp nữa…