Theo địa chỉ, tôi xuống Minh Quân tìm nhà cựu chiến binh Lê Ngọc Châu. Khi gặp ngã ba, không biết đường nào về thôn Ngọn Ngòi, thấy một cậu bé chăn bò cạnh đường, tôi tới hỏi thăm. Cậu bé bảo:
- Bác đi theo đường này, khoảng hai cây số nữa thì tới Ngọn Ngòi ạ.
Thấy cậu bé dễ mến, tôi hỏi tiếp:
- Vậy cháu có biết nhà ông Châu ở Ngọn Ngòi không?
Cậu bé không trả lời mà hỏi lại:
- Có phải bác muốn tìm ông Châu thương binh, nuôi lợn không ạ?
Tôi cười, xoa đầu cậu bảo:
- Đúng rồi, ông Châu thương binh, nuôi lợn. Cháu giỏi quá!
Cậu bé cũng mỉm cười bảo:
- Dạ! Ông Châu ai mà chẳng biết. Nhà ông ở giữa thôn, bên tay trái, nhà xây hai tầng, sơn màu xanh, trước sân có cây dừa ạ.
Miêu tả thế quả là quá chi tiết. Tôi cảm ơn cậu bé, chả phải hỏi thăm ai nữa, phóng một mạch vào tận sân nhà anh Châu.
Quả là ngôi nhà xây hai tầng của anh Châu khang trang, sạch đẹp. Nhìn nhà cửa cũng đủ biết kinh tế gia đình ở mức nào. Anh hồ hởi mời tôi vào nhà. Sau ít phút làm quen, tôi đặt vấn đề muốn tìm hiểu về việc chăn nuôi của gia đình. Anh xăm xắn dẫn tôi ra khu trại lợn cách nhà hơn trăm mét. Ba dãy chuồng tường gạch, song sắt, lợp phi-bờ-rô xi măng, mỗi dãy có hơn 20 ngăn chuồng. Trong đó, một dãy nuôi lợn nái sinh sản, hai dãy lợn giống và lợn thương phẩm. Tôi hỏi anh Châu:
- Anh bắt đầu khởi nghiệp chăn nuôi này từ khi nào? Tại sao chọn chăn nuôi vất vả lại nhiều may rủi này để lập nghiệp?
Mắt anh Châu bỗng trở nên đăm đắm như đang nhìn vào một cái gì đó xa xôi, rồi cười bảo:
- Nói thì dài. Đại loại là, khi vết thương lành, tôi được chuyển về Đội 7, Đoàn 231, mất 81 phần trăm sức khỏe, được xếp loại thương binh hạng một trên bốn. Đến tháng 1-1972, thì chuyển về Trại điều dưỡng thương binh nặng thuộc Ty Thương binh Yên Bái. Ở Trại được vài năm, bản thân tôi được chăm sóc tốt song đến giữa năm 1974, vợ tôi sinh cháu thứ hai, hoàn cảnh gia đình càng thêm gieo neo, nhà cửa dột nát, thiếu ăn triền miên. Mình không thể cam tâm nhìn vợ con đói khổ. Vậy là tôi quyết tâm xin về địa phương. Các anh ở xã cũng quan tâm, thấy tôi có trình độ văn hóa cấp hai, vẫn đi lại được, nên sắp xếp cho dạy lớp vỡ lòng để có thu nhập. Bản thân mình thế là tốt lắm rồi nhưng không cải thiện được kinh tế gia đình. Năm 1990, có phong trào trồng rừng phủ xanh đất trống đồi trọc, ở Minh Quân nhiều gia đình tham gia. Tôi cũng muốn thử vận may, tìm hướng đi mới. Được vay năm triệu đồng của Ngân hàng chính sách xã hội, đáng lẽ để thuê mướn nhân công, nhưng vợ chồng, con cái tự lực hết. Tiền chỉ mua cây giống. Năm ấy tôi trồng được hơn 10 héc-ta keo, bạch đàn, bồ đề. Nghĩ vườn rừng còn lâu mới được thu hoạch, phải nghĩ cách gì để lấy ngắn nuôi dài. Vậy là tận dụng ruộng rộc bỏ hoang vợ chồng con cái đào đắp được hơn hai héc-ta ao. Số tiền vay còn lại đầu tư vào cá, vịt, gà giống hết. Thấy tôi chưa có kinh nghiệm gì về chăn nuôi mà dám đầu tư như thế, có người bảo “điếc không sợ súng”, song với bản chất người lính Trường Sơn, “Đánh địch mà tiến, mở đường mà đi”, tôi quyết làm. Cũng may là suôn sẻ. Hơn một năm sau đã có thu hoạch. Lấy công làm lãi, mỗi năm trừ chi phí còn được trên 50 triệu đồng. Ăn tiêu một phần thôi còn thì tích lũy theo kiểu “tích tiểu thành đại”. Kiến tha lâu cũng đầy tổ, đến năm 2008 đã dành dụm được một số vốn kha khá. Tôi quyết định phát triển nuôi lợn. Một mặt xây chuồng trại đúng tiêu chuẩn kỹ thuật, một mặt đi Phú Thọ, Tam Đảo học hỏi kinh nghiệm chăn nuôi lợn nái. Lứa đầu nuôi 5 nái, rồi tăng dần. Từ năm 2010 trở đi, tôi luôn duy trì 40 nái sinh sản, 400 lợn thịt và đàn gà trên 500 con. Hằng năm trừ chi phí, còn thu nhập trên 350 triệu đồng. Công việc làm ăn đang phát triển thì cuối năm 2016 sang năm 2017, giá lợn hơi trên thị trường bị tụt giảm mạnh. Cả lợn thương phẩm lẫn lợn giống đều bán rẻ như cho mà vẫn ế, khiến tôi bị thua lỗ gần hai tỷ đồng. Đó thật là những ngày ảm đạm, tưởng đã phá sản, song với tinh thần “bại không nản” cộng với động viên sự giúp đỡ của con cái và bạn bè, tôi quyết đầu tư, gây dựng lại đàn lợn nái. Đến nay, vẫn duy trì trên 20 nái, mỗi năm cho hơn hai lứa lợn giống, phần lớn chuyển sang nuôi lợn thịt, duy trì đàn lợn thương phẩm trên một trăm con. Dạo này giá đang lên cũng thấy yên tâm. Ngoài ra còn nuôi thêm gà, vịt. Tận dụng đất vườn nhà rộng tôi trồng bưởi năm roi và thanh long ruột đỏ. Vườn rừng vẫn tiếp tục mở rộng. Coi như mình đánh kiểu hợp đồng binh chủng, cái nọ đỡ cho cái kia…
Hai chúng tôi về đến nhà, ngồi chưa ấm chỗ thì có khách đến mua lợn giống. Anh Châu hẹn để đàn tới, đàn này anh đã hứa bán cho anh em trong Hội Cựu chiến binh và bà con trong thôn rồi. Anh bảo:
- Lộc bất tận hưởng, mình làm ăn được cũng phải san sẻ cho anh em đồng đội và bà con thôn xóm còn khó khăn, thiếu thốn bằng cách bán chịu không tính lãi khi nào xuất chuồng trả cũng được.
Ngoài ra, năm 2015, anh Châu còn ủng hộ 20 triệu cho quỹ Ấm tình đồng đội của Hội Cựu chiến binh, năm 2017 lại ủng hộ bảy triệu cho quỹ Đồng đội của Hội truyền thống Trường Sơn, rồi quỹ Khuyến học của dòng họ Lê Minh Quân nữa. Anh còn tâm sự:
- Bản chất mình là người lính, cũng không nên chỉ vùi đầu vào làm ăn mà thờ ơ với hoạt động xã hội. Tôi chẳng nề hà việc gì, từ dạy vỡ lòng, đến Chi hội trưởng Chi hội Cựu chiến binh, Chi hội trưởng Chi hội Người cao tuổi thôn Ngọn Ngòi, Phó ban Thanh tra nhân dân xã Minh Quân, Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện Trấn Yên…
Tôi hỏi anh Châu:
- Sức khỏe chỉ còn chưa đầy 20 phần trăm, anh làm nhiều việc như thế có quá sức không?
Anh cười bảo:
- Quá thì quá rồi, lắm khi trái nắng trở trời, vết thương cũ lại tái phát đau nhức như búa bổ nhưng đồng đội, bà con tín nhiệm thì phải cố gắng thôi. Năm xưa, Trường Sơn, gian khổ hiểm nguy là thế vẫn hoàn thành nhiệm vụ, giờ có của ăn của để sao nỡ chối từ sự tín nhiệm của mọi người. Không lúc nào tôi quên lời Bác dạy: “Thương binh tàn nhưng không phế”, phát huy truyền thống Bộ đội Trường Sơn, không để cho cái đói, cái nghèo vượt lên mình. Hồi ở Trại điều dưỡng cũng chán nản lắm, nhưng lời dạy của Bác đã giúp mình chiến thắng mọi suy nghĩ tiêu cực để sống tốt. Cũng may, mình là con nhà nông, càng lao động lại càng khỏe ra…
Khi hỏi thăm về con cái, anh Châu cười bảo:
- Mình lạc hậu, tới bảy đứa. Nhưng phải nói là nếu không có vợ con thì không phát triển kinh tế như này được đâu. Vợ con vừa là mục tiêu, động lực để mình phấn đấu làm giàu. Làm thằng đàn ông mà để cho vợ con nheo nhóc là xoàng. Song, vợ con cũng là nguồn lực, nhân lực, chỗ dựa của mình. Được cái vợ mình tần tảo, chịu thương chịu khó, lại luôn ủng hộ chồng. Các con chăm ngoan, chí thú học hành. Giờ con cả Lê Trung Kiên, kỹ sư nông nghiệp, làm Chủ tịch xã Minh Quân. Con thứ Lê Văn Luyện, kỹ sư nông nghiệp, cán bộ Phòng Nông nghiệp huyện Trấn Yên. Con gái Lê Thị Luyến làm kế toán công ty Hòa Bình, các cháu khác sản xuất nông nghiệp ở địa phương, kinh tế khá cả và đều tham gia công tác xã. Đứa làm ở trạm y tế, đứa thì làm thôn đội trưởng, Bí thư Chi đoàn…”.
Hai chúng tôi mải mê trò chuyện. Chuyện làm ăn, chuyện gia đình, chuyện thế sự, thời cuộc, rồi câu chuyện được lái về chủ đề chiến tranh lúc nào không hay. Đúng là chuyện của những người lính, không bao giờ quên những năm tháng đạn bom. Anh Châu bảo:
- Tôi nhập ngũ năm sáu tám. Lúc ấy đã 21 tuổi, thế là muộn. Xã tôi lúc đó cứ đến 18 tuổi là nhập ngũ hết. Tôi thì mẹ bệnh trọng, dưới còn sáu em lít nhít. Biết mẹ tôi không qua khỏi, bố tôi tổ chức cưới chạy tang cho tôi. Hoàn cảnh gia đình như thế nên được hoãn. Nhưng đến năm sáu tám, sau Tết Mậu Thân, cả xã hừng hực khí thế tòng quân ra trận. Nhìn đâu cũng thấy khẩu hiệu: “Tất cả cho tiền tuyến”, “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, đứng ngồi không yên. Tôi xin phép bố, rồi bàn với vợ cho tôi viết quyết tâm thư bằng máu để được lên đường.
Lắm lúc tôi nghĩ mình có duyên với Trường Sơn. Sau ba tháng huấn luyện cả đơn vị vào Nam. Khi đến Trường Sơn, tiểu đội tôi bỗng được điều động bổ sung cho Đoàn 163, đơn vị đóng ở Bản Cò, bên dòng Sê-băng-hiêng, làm nhiệm vụ vận tải đường sông. Gọi thế cho oai chứ thực ra là dìu hàng qua trọng điểm. Hồi ấy, bọn giặc Mỹ muốn cắt đứt đường Trường Sơn, huyết mạch của ta. Chúng biến cả tuyến đường thành chiến trường. Dùng không quân, cả B-52, đánh rải thảm, bộ binh càn quét, thám báo, biệt kích, phỉ lùng sục, dùng cả chất độc hóa học, hủy diệt thảm cây xanh, bom phát quang, “cây nhiệt đới” để phát hiện mục tiêu. Máy bay AC-130 thì luôn “túc trực” trên không từ đầu tuyến đến cuối tuyến, không một đoàn xe nào không bị chúng phát hiện, tấn công. Nhưng vỏ quýt dày có móng tay nhọn. Ta đã lợi dụng dòng chảy của Sê-băng-hiêng để thả trôi hàng từ Cù Bai sang Lào. Xăng dầu thì đựng trong thùng, can; lương thực thực phẩm thì bọc gói trong nhiều lớp ni lông, rồi thả. Hàng ngày, chúng tôi ra sông đẩy các túi hàng được thả trôi. Bì bõm dưới nước cả ngày, suốt từ bản Cò tới Tà Dúa, Ca Đát để dìu hàng. Cái nào bị rách thì chuyển về kho. Dân hai bên sông là người Lào Thơng, quý bộ đội Việt Nam lắm, hàng của ta thả trôi trên sông nhưng không một ai lấy. Trong một lần ra sông, gặp B-52 rải thảm, tôi chạy vào lùm cây tránh bom thì lại trúng mìn của bọn phỉ, ngất đi không biết gì nữa. Tỉnh dậy, thấy mình ở Trạm xá Binh trạm, một cánh tay đã bị cắt bỏ, đầu mặt băng kín, ngoài ra còn bảy vết thương khác trên cơ thể. Sau khi sơ cấp cứu tại trạm xá, được chuyển chuyển về viện tuyến sau, rồi ra Bắc điều trị tại Viện Quân y 91. Thế là phải xa dòng Sê-băng-hiêng, xa Trường Sơn từ đấy.
Tôi nói với anh Châu, “se” tiếng Lào có nghĩa là sông. Tôi đã tắm dòng Sê-băng-hiêng. Nó bắt nguồn từ trên đỉnh Trường Sơn, rồi chia thành hai dòng. Một dòng chảy về sườn Đông là sông Bến Hải, còn dòng chảy theo sườn Tây là Sê-băng-hiêng. Đến thị trấn Sepon, Sê-băng-hiêng nhận thêm dòng Se Cham-phone và Se Sang Noi rồi nhập vào sông Mê-kông ở gần thành phố Sa-van-na-khet…
Nói tới đấy cả mắt tôi và mắt anh Châu đều nhòa lệ. Có một Sê-băng-hiêng thời bom đạn lại dào dạt chảy trong tim những người lính Trường Sơn.