M
ichael ấn nút Esc và rồi kí tự R để bắt đầu chương trình thay thế. Nó hỏi anh muốn thay thế từ nào, và anh gõ M... I... C... H... A... E... L. Khi được hỏi THÀNH TỪ GÌ? Anh đánh B... O... B. Sau đó, anh ấn enter và nhìn ba mươi bảy từ MICHAEL được chuyển thành Bob. Một thông báo nhấp nháy trên màn hình. “ĐÃ THAY THẾ 37 TỪ.” Michael gật gù. Sử dụng chương trình tìm kiếm và thay thế này quả là dễ khi có Toni hướng dẫn. Chỉ trong vài giây anh đã biến câu chuyện về quãng đời của mình tại Oakdale thành thứ mà ai cũng nghĩ là truyện hư cấu. Vậy anh nên đổi tên Oakdale thành gì nhỉ? Elmwood1 nghe có vẻ được. Viện Elmwood dành cho tội phạm tâm thần.
1 Tên nhiều địa danh trong tiếng Anh có nghĩa, chẳng hạn như Oakdale có nghĩa là Thung lũng sồi, và Michael chọn tên Elmwood nhái lại, có nghĩa là Rừng cây du.
Mất một lúc mới đổi xong. Michael ấn đúng câu lệnh để lưu tệp tin và ngả người ra ghế trong khi máy tính hoàn thành công việc. Toni là giáo viên giỏi, và anh học cũng nhanh. Stan quả là lo lắng không đâu khi gọi điện hồi tối qua.
Michael tắt máy tính và lại dựa vào ghế. Sao Stan lại cho rằng dùng máy tính thật đau đầu nhỉ? Cũng dễ nếu ta làm theo yêu cầu xuất hiện trên màn hình mà. Stan còn bắt Michael phải hứa không dùng nữa nếu gặp trở ngại. Anh cũng hứa, nhưng giờ anh thấy chuyện ấy thật ngu ngốc. Anh chạy thể dục cùng Toni xong, tắm táp qua loa rồi bắt tay vào công việc. Và mọi thứ đâu vào đấy. Tất nhiên Stan thấy dùng máy tính khó rồi. Anh ấy vốn chẳng bao giờ giỏi mỗi khi động tới thứ gì liên quan đến máy móc.
Michael nghĩ lại hồi Stan còn là sinh viên. Anh ấy cần một cái đèn bàn cho phòng khách, và họ tìm được một cây rất ổn trong cửa hiệu đồ cũ. Nó không bật được, nhưng Michael đã thuyết phục Stan rằng đèn cũng dễ sửa thôi. Chỉ có vài chỗ có thể hỏng và sửa chúng thì cũng không phức tạp lắm. Stan tội nghiệp đã thức gần trắng đêm đó chỉ để nối lại dây đèn. Chỉ chút nữa thôi là anh ấy đã ném thẳng đèn vào tường may mà Michael vào đúng lúc để cứu nó. Michael tìm thấy một đường dây bị rời ra và đấu lại, và ngọn đèn lại làm việc ngon lành. Chắc nó vẫn ổn nếu Stan không cố sửa thêm lần nữa.
Giờ nghĩ lại, Michael nhận ra Stan hễ bực lên là cục tính vô cùng. Anh ấy luôn nóng máu mỗi khi chuyện không đúng theo kế hoạch. Chắc vì thế mà anh ấy quá lo lắng về vụ máy tính. Vì đó là một trải nghiệm bực bội đối với anh ấy nên Stan sợ nó cũng làm Michael khó chịu. Và vì Stan xì khói ra đằng lỗ tai khi lo lắng, nên anh ấy cho rằng Michael cũng phản ứng như thế. Michael cười cười. Stan lo một lo hai, và đó là một cơ chế phòng vệ. Anh đã từng nghe một bác sĩ tâm thần tại Oakdale giải thích hiện tượng này cho một y tá. Cơ chế phòng vệ là một phần bình thường của hành vi con người, nhưng khi chúng cường điệu quá lại gây hại. Cơ chế phòng vệ của Stan quá quắt quá chăng? Michael thấy khá hơn nhiều khi nghĩ ông anh có vẻ hoàn hảo của mình cũng có một hai khuyết điểm.
Stan luôn cho rằng Michael là người phù phiếm, đứa em trai mà anh phải bảo bọc vì sợ sẽ làm ra những điều cực kì ngu xuẩn. Thành thực mà nói, Michael cũng đã phạm một vài sai lầm ngu ngốc khiến nỗi lo lắng của Stan càng thêm có cơ sở. Có lẽ một phần lí do anh làm những chuyện kia là vì Stan nghĩ anh sẽ làm thế. Rồi Stan sẽ đóng vai người anh cả đáng tin cậy.
Michael duỗi người và đứng lên. Anh thấy đói nhưng không muốn ăn sáng. Chắc anh vẫn còn hơi buồn về giấc mơ đêm qua. Nó bắt đầu cũng hệt như những cơn ác mộng khác, với phòng xử án và gương mặt các bồi thẩm khi thẩm phán tuyên án. Rồi anh thấy mình trên một chiếc xe buýt công cộng, đi qua những con phố tối tăm tới một nơi khiến anh vừa vui vừa sợ.
Có phải thế không nhỉ? Anh vẫn không chắc. Anh đã buộc một sợi dây ngang cửa phòng ngủ mỗi tối và kiểm tra vào mỗi sáng xem nó còn ở nguyên chỗ cũ không, nhưng đó không phải phép thử hiệu nghiệm lắm. Anh đã làm vài chuyện khá phức tạp trong khi ngủ rồi kia mà. Một tối ở Oakdale, anh còn mặc đồ và lẻn vào phòng nghỉ của y tá mà không ai hay biết. Anh pha một bình cà phê mới và đang uống cốc thứ hai thì bị họ phát hiện. Vậy anh rất có thể tháo dây, ra cửa làm điều trời ơi đất hỡi gì đó trong khi ngủ, và buộc lại như cũ rồi trèo lên giường.
Vì một lí do kì lạ nào đó, giấc mơ không còn làm anh phiền lòng nữa. Anh vẫn lo về chuyện mình làm, nhưng vậy cũng bình thường. Đêm đầu nằm mơ trong căn hộ này, anh trải qua ngày sau đó trong trạng thái thấp thỏm lo âu, cố nhớ lại từng chi tiết nhỏ nhặt nhất. Giờ anh chấp nhận những giấc mơ như điều gì đó anh phải đương đầu, và anh quyết không chịu dành nhiều thời gian để lo lắng nữa. Đi bộ buổi sáng cùng Toni và Doris đã giúp anh, anh chắc chắn vậy. Họ thật sự nên áp dụng phương pháp đi bộ tại Oakdale để loại bỏ những con quỷ của màn đêm.
Vẫn còn ít thịt rán Toni đưa, và Michael dùng chúng để làm món sandwich với cả một ổ bánh mì yến mạch rưới đẫm mù tạt Gulden. Lọ mù tạt đã sắp hết, và Michael kiểm tra danh sách bên cạnh điện thoại để chắc rằng mình đã đặt hàng thêm.
Ngày thứ hai sau khi Michael chuyển đến, Stan cho anh số điện thoại một cửa hàng thực phẩm có dịch vụ giao hàng và nói rằng mình đã mở tài khoản dưới tên Mike Kruger.
Michael chỉ cần gọi đến đặt hàng, và Stan sẽ trả hóa đơn vào cuối tháng. Cũng có ít tiền mặt trong ví, anh ấy nhắc đề phòng Michael không để ý. Hai trăm đô. Đó để dành cho về sau, lúc Michael đã an toàn để ra ngoài.
Vì tủ lạnh có dung tích lớn, Michael mãi tới hôm nay mới phải đặt hàng. Họ hứa sẽ chuyển đồ tới vào buổi trưa, vậy chắc cũng sắp rồi. Anh gọi mọi thứ anh thèm, cộng thêm một cái chân cừu lớn làm quà cho Toni. Tối qua cô hỏi anh có thích thịt cừu không, và cả hai thấy đó là sở thích chung. Tất nhiên cô sẽ nấu. Michael chẳng biết phải sơ chế thịt cừu ra sao. Nhưng để anh trả bớt tiền ăn cho cô cũng tốt. Anh rất thích những bữa ăn ngon lành ở căn hộ của cô, và anh muốn góp thêm đôi chút.
Chuông cửa kêu đúng lúc anh đưa miếng sandwich lên miệng. Michael lấy khăn giấy che lại và định cởi áo. Stan đã dặn anh đừng mở cửa, chỉ bảo người giao hàng để đồ lại ngoài hành lang. Nhưng Michael nghĩ mình không nên bổn cũ soạn lại. Hình như anh không boa cho anh chàng giao máy tính thì phải.
“Đợi một chút!” Michael chần chừ rồi đóng cúc áo lại. Trò này nực cười quá. Anh cách Oakdale những một trăm năm chục dặm, cảnh sát Los Angeles có bức hình trông chẳng giống anh bây giờ tẹo nào, và nhân viên giao hàng không có lí gì để nghi ngờ anh. Chứng hoang tưởng của Stan cũng bị phóng đại hệt như lo lắng về máy tính vậy.
Michael nhìn qua mắt thần. Đây không phải hoang tưởng, mà là trực giác tốt: nhân viên giao hàng đang đứng trước cửa nhà anh cùng một xe đẩy đầy ứ thực phẩm. Anh đâu có gọi nhiều tới độ đó, phải không nhỉ? Anh mở cửa, và người kia mỉm cười thân thiện.
“Chào anh. Tôi là Rick từ siêu thị Culbertson. Tôi tới giao hàng cho anh Kruger ạ.”
“Là tôi đây.” Michael cười đáp và chỉ cái bàn bên cửa. “Cứ để đó giùm tôi.”
Michael quan sát anh chàng xách bốn cái túi có viết tên Kruger bên cạnh. Rồi anh đưa hai đô tiền boa.
“Cảm ơn anh, anh Kruger.” Anh chàng kia trông thích chí ra mặt khi nhét tiền vào túi. “Rất mong anh còn gọi tới Culbertson. À mà anh chuẩn bị tổ chức tiệc hay gì à?”
“Đâu có.” Michael bối rối. “Sao cậu hỏi thế?”
“Tôi hiếu kì ấy mà. Tôi chưa từng đưa hai chân cừu tới một chung cư, trừ có dịp lễ Phục Sinh. Mà cho tôi cảm ơn nhé, anh Kruger. Tôi phải chuyển thứ này cho chị Evans đây. Chị ấy yêu cầu chúng tôi giao thịt cừu vào tầm trưa để nấu bữa tối nay.”
“Chị Doris Evans ấy hả?”
“Đúng. Tôi chuyển hàng cho chị ấy mọi ngày trong tuần, và chị ấy bảo thịt bên siêu thị chúng tôi là ngon nhất thành phố.”
Michael mỉm cười. “Cô Novak cũng nói vậy đấy.”
“Cô Novak? Phòng 305?”
Michael gật đầu, và anh chàng giao hàng nhún vai. “Buồn cười thật. Cô Novak chưa từng đặt gì ngoài đồ ăn vặt và pizza để lạnh. Cô ấy bảo tôi rằng cô ấy nấu ăn dở lắm.”
Sau khi anh chàng giao hàng đi, Michael gọi điện thoại luôn. Chỉ mất một lúc là tìm hiểu ra chuyện anh muốn biết thôi. Toni đã đặt thịt cừu cho bữa tối hôm nay. Từ Culbertson.
Michael vừa cười cười vừa nhét thịt cừu vào tủ đông. Toni không biết nấu ăn, vậy nên cô thông đồng với Doris. Và những tối anh nghiến ngấu những món ngon miệng của Toni là thật ra anh đang ăn đồ Doris nấu. Bản năng đầu tiên của anh là đi thẳng sang và bảo Toni rằng anh không quan tâm tới chuyện cô có biết nấu ăn hay không. Nhưng nếu anh nói toạc móng heo như vậy sẽ làm cô xấu hổ chết mất. Có lẽ tốt nhất nên đợi tới khi cô tin tưởng anh hơn và tự thú nhận.
Gần tới trưa, Michael xếp xong đồ. Anh mang bánh sandwich vào phòng khách và bật ti vi. Ít nhất anh cũng bỏ được thói quen chỉ ăn trong nhà bếp. Anh đã bớt nguyên tắc hơn so với hai ngày trước nhiều. Anh bắt đầu tin đánh giá của mình về mọi chuyện, trừ vấn đề liên quan tới phụ nữ.
Michael chuyển kênh để xem thời sự, nhưng có vẻ đã quá khung giờ rồi. NBC đang chiếu Days of Our Lives cạnh tranh với All My Children của ABC. Michael chuyển sang kênh CBS và nhẹ cả người vì bên đó không chiếu phim truyền hình dài tập.
Có một nhóm phóng viên mới mà Michael không quen mặt, ngồi sau cái bàn hình chữ U. Hẳn ban giám đốc nhà đài muốn để dành các tên tuổi lớn để tăng lượng người xem chương trình buổi tối. Michael chỉnh âm lượng. Âm thanh quá nhỏ, anh không nghe được, và nút ấn trên điều khiển có vẻ không hoạt động. Anh cắn thêm miếng bánh nữa và đứng dậy. Anh phải chỉnh âm lượng bằng tay và sửa điều khiển sau vậy.
Michael vừa đi qua phòng thì biên tập viên chương trình thời sự buổi tối xuất hiện. Đây hẳn là một tin đặt biệt thì họ mới cho đội “A” lên sóng như vậy. Michael tới gần hơn và trong lúc ấy, gương mặt biên tập viên biến mất và được thay thế bằng cảnh quay một người trên giàn giáo. Giàn giáo nghiêng đi, và anh ta rơi xuống xa lộ bên dưới. Lúc đầu Michael tưởng đó là một cảnh mạo hiểm trong phim, nhưng người đàn ông đập xuống vỉa hè. Kết quả thật khủng khiếp, và Michael thấy dạ dày hơi nhộn nhạo. Đúng lúc đến đoạn những chiếc xe máy đâm sầm vào nhau cả bên phải và bên trái thì điện thoại nhà anh đổ chuông.
Michael nhấc máy không chần chừ. Nếu người bên đầu dây kia không phải Toni hay Stan, anh sẽ cúp máy.
“Mike à? Stan đây. Anh muốn báo tin cho chú trước khi chú xem thời sự.”
“Em đang xem thời sự đây. Anh có thấy cái gã rơi từ giàn giáo xuống không?”
“Thấy, thế nên anh mới gọi. Anh không muốn chú lo lắng.”
“Em đâu có lo. Ý em là cảnh tượng kinh khủng thật đấy, nhưng...”
Stan ngắt ngang lời anh. “Vậy chú không biết tên nạn nhân?”
“Không. Tiếng bé quá.”
“Cảm ơn Chúa! Giờ nghe kĩ này, Mikey. Cú ngã đó là tai nạn, hiểu chưa? Anh phải nói cho chú rõ. Một tai nạn thảm khốc, rõ chứ?”
Michael hoàn toàn bối rối. “Được rồi, Stan. Đó là tai nạn. Nhưng sao anh nghĩ em sẽ...”
“Tên người đó là Neal Wallace. Anh ta là...”
Lần này Michael xen vào. “Em biết, Stan. Anh ta là một bồi thẩm trong phiên xử em.”
“Đúng. Chú không buồn bực quá đấy chứ?”
“Không, Stan.” Michael thở dài. “Em không buồn bực quá đâu. Nhưng đó là một bi kịch. Neal Wallace có vẻ là một người tốt.”
“Ừ. Anh tình cờ gặp anh ta tại buổi gây quỹ của Cal Arts. Anh ta có tài lắm. Chú chắc mình ổn chứ?”
“Em ổn mà, Stan.” Michael dừng một giây. “Em thật lòng mừng vì anh gọi để bảo em rằng đấy là tai nạn. Neal Wallace là bồi thẩm thứ hai chết từ ngày anh giúp em trốn ra.”
“Người thứ ba chứ, Mike. Còn nhớ bà lão tóc bạc trắng không?”
“Chắc có. Bà ấy tên Sotherby phải không nhỉ?”
“Đúng. Helen Sotherby. Bà ta qua đời trong bệnh viện ngày hôm kia. Ung thư xương.”
“Vậy là chỉ còn chín bồi thẩm?”
“Ít hơn thế, Mike ạ. Em còn nhớ người đàn ông to con có râu đã ngủ gật trong lúc lấy lời khai của bác sĩ pháp y không?”
“Có. Ông ta tên Cassinger, nhỉ?”
“Ừ.” Stan có vẻ hài lòng. “Oscar Cassinger. Chú nhớ tên tốt đấy, Mikey.”
Michael không chắc nên nói gì. Tất nhiên anh nhớ rõ tên các thành viên bồi thẩm đoàn rồi. Chính họ đã khiến cuộc đời anh mất sạch mọi hi vọng cơ mà. Nhưng Stan nói tiếp trước khi anh kịp nghĩ ra câu trả lời.
“Oscar Cassinger lên cơn đau tim chết từ bảy năm trước. Thế là còn tám người. Và rồi Sylvia Weintrob. Cô ta chết trong một vụ tai nạn giao thông hồi tháng Ba. Một số người hiện không còn sống ở Mỹ. Gayle Hochsdorf - chú nhớ cô ta chứ, Mike? Cô ta ngồi ở hàng trước cạnh nữ tu ấy.”
“Em nhớ.”
“Cô ta kết hôn với một anh chàng người Anh, và giờ đang sống tại nhà chồng ở Northumberland. Và Chong Lee?”
“Có. Thực tập sinh người Hoa.”
“Anh ta hết hạn visa và trở về Trung Quốc rồi. Chỉ còn năm bồi thẩm, nếu không tính hai người đã rời Mỹ.”
Michael nhíu mày. Stan chắc chắn biết nhiều về bồi thẩm đoàn. “Có vẻ anh vẫn để mắt đến họ, Stan. Sao vậy?”
Im lặng một lúc, rồi Stan bật cười.
“Đó là một phần công việc của anh, Mike ạ. Ta không bao giờ biết chuyện gì sẽ tới, và thi thoảng thì liên lạc với một cựu bồi thẩm cũng giúp ta được ít nhiều đấy.”
“Nghe có vẻ rắc rối nhỉ. Anh phải giữ liên lạc với mọi bồi thẩm từng gặp à?”
“Tất nhiên là không rồi.” Stan lại cười. “Chỉ những bồi thẩm trong các vụ anh thua thôi. Cũng đâu có nhiều nhặn gì. Mike. Lên tòa là anh làm việc rất hiệu quả đó nhé. Anh chỉ thua có hai vụ trong suốt bao nhiêu năm hành nghề. Tất nhiên trong đó có vụ của chú.”
Michael nhíu mày càng tợn. Với Stan anh chỉ là một vụ khác thôi sao? Một tệp hồ sơ trong ngăn kéo khiến anh ấy bực bội vì nó không đạt kết quả như mong muốn? Thất bại trong vụ của Michael chắc chắn không phải lỗi của Stan, nhưng anh ấy không nên nói như thế. Người vào tù là anh, chứ không phải Stan. Và Stan không bị giam trong Oakdale suốt ngần ấy năm.
Stan hắng giọng. “Anh phải làm việc tiếp đây, Mikey. Anh đang cung cấp bằng chứng cho vụ kháng cáo của chú. Chú chắc mình ổn chứ?
“Vâng, anh Stan.”
“Được rồi. Anh sẽ gọi cho chú tối nay vẫn tầm giờ cũ. Cảnh sát vẫn nghĩ chú sẽ cố liên lạc với anh, vậy nên nhớ cẩn thận đấy. Và nếu làm việc với máy tính làm chú bực quá thì cứ tắt đi và xem phim hoặc làm gì đó, nhớ chưa?
“Được ạ.”
Michael vẫn nhíu mày khi cúp máy. Anh càng lúc càng thấy mệt mỏi khi bị Stan đối xử như một đứa thiểu năng. Mikey có ổn không? Mikey có buồn không? Mikey có hứa ngoan và không bực mình không? Cho tôi xin! Michael biết mình chịu đựng sự buồn bực giỏi hơn Stan.
Ti vi vẫn bật, nhưng tin thời sự đã hết. Giờ kênh anh chọn đang phát chương trình mạn đàm với năm người phụ nữ miệng cứ quang quác. Có lẽ nút tăng âm lượng không hoạt động cũng tốt. Anh không muốn xem chương trình yêu thích của cánh y tá Oakdale.
Michael lấy tua vít trong hộp dụng cụ ở ngăn đồ tiện dụng và tháo điều khiển. Anh lau gỉ ở mối nối và đảm bảo các điểm kết nối đều chặt. Sau đó anh thay pin và thử lại. Một nữ bồi thẩm đang nổi điên vì cuộc hôn nhân thất bại. Michael có thể nghe rõ cô ta đang nói gì, nhưng không muốn. Anh tắt ti vi. Chẳng có gì mấy để xem vào buổi chiều, và cuộc hẹn của anh với Toni là tận lúc năm giờ.
Nghĩ tới Toni làm anh không thoải mái. Cô thật lộng lẫy trong cái váy lụa đỏ hôm qua. Và khi cô nhoài qua để nối dây cáp vào máy tính của anh, Michael đã có ham muốn lớn lao là được vươn tay chạm vào làn da ấm áp mượt mịn đằng sau cái cổ áo khoét thấp. Anh không làm, nhưng cũng suýt.
Hồi còn học đại học, Michael sẽ không đời nào kiềm chế như vậy, nhưng giờ anh cẩn trọng hơn nhiều rồi. Toni khiến anh có cảm giác cô cởi mở, nhưng cũng có thể anh đọc sai hành động của cô. Bộ đồ cô mặc không thể coi là một gợi ý quá rõ ràng. Dạo này người ta ăn mặc cũng thoáng hơn mà. Michael đọc báo mỗi ngày để học cách tái hòa nhập với thế giới. Và anh thấy một cô người mẫu mặc bộ đồ liền thân bó sát và hẳn người ta sẽ nghĩ cô là người lẳng lơ nếu là vào mười năm trước.
Giờ cánh đàn ông tán tỉnh phụ nữ thế nào nhỉ? Cách xử sự có thay đổi không? Michael đã nhiều năm không động chạm với ai, và anh không muốn phá vỡ mối thân tình với Toni bằng một sai lầm. Oakdale đã tiêu diệt khái niệm của anh về cách đàn ông hành động như thế nào. Tại Oakdale, anh thuộc ca 1563, là một kẻ bất lực người ta bắt ăn, bắt uống thuốc, bắt nhìn nhận lúc nào thì biết lúc đấy. Jack là người duy nhất đề cập tới tình dục, và là người duy nhất lôi chuyện đó ra đùa. Michael không có cơ hội được xử sự như một người đàn ông lâu lắm rồi, và không phải anh chỉ có một chút không chắc chắn về mình đâu.
Kể cả lúc này, khi anh được tự do hành động như một người đàn ông có trách nhiệm, anh trai anh lại bước vào thế vai Oakdale. Michael phải ở ru rú sau cánh cửa khóa, ăn những thứ cần ăn, ngủ đủ tám tiếng mỗi tối, và không được phép bực bội vì bất kì lí do gì. Biết Stan sợ em trai mình sẽ làm những điều cực kì không phù hợp cũng không giúp Michael tự tin thêm chút nào.
Michael nhảy dựng lên và vội vàng vào phòng làm việc. Còn hơn ba tiếng nữa mới đến bữa tối, vậy anh còn rất nhiều thời gian sửa lại bản thảo. Anh vừa quyết định biến nhân vật chính của mình thành một người đàn ông bị chi phối bởi một người anh trai yêu quý em nhưng cũng bảo bọc em quá đỗi.