Dẫu có thừa nhận hay không, chúng ta đều chịu ảnh hưởng của di sản khoa học phương Tây. Cách chúng ta học tư duy và tự định nghĩa về bản thân thường là dựa trên những mô hình tương tự đã được các nhà vật lý sử dụng để mô tả vũ trụ vật lý. Chương này trình bày lịch sử vắn tắt của những thay đổi trong cách các nhà khoa học mô tả thế giới vật lý, cũng như cho thấy những mô tả này tương ứng như thế nào đối với những thay đổi về định nghĩa của chúng ta về bản thân.
Điểm quan trọng là phải nhớ rằng cách thức vận hành của khoa học phương Tây là tìm ra sự tương hợp giữa bằng chứng toán học và bằng chứng thực nghiệm. Nếu không tìm thấy, các nhà vật lý sẽ tiếp tục tìm kiếm giả thuyết khác đến khi tồn tại cả bằng chứng toán học và bằng chứng thực nghiệm để lý giải cho một chuỗi hiện tượng. Đây chính là điểm khiến phương pháp khoa học của phương Tây trở thành một công cụ mạnh mẽ trong ứng dụng thực tiễn và dẫn đến những phát minh vĩ đại như việc sử dụng điện và các hiện tượng hạ nguyên tử trong y học (máy chụp X-quang, máy nội soi cắt lớp và máy chụp tia laser).
Trong quá trình mở rộng tri thức, chúng ta không ngừng khám phá ra những hiện tượng mới. Rất nhiều lần, những hiện tượng mới này không thể được mô tả bằng những lý thuyết hiện hành khi chúng ta tìm cách lý giải chúng. Chúng ta cần đến những lý thuyết mới, rộng hơn và thường là dựa trên toàn bộ tri thức từ trước đến nay; chúng ta thiết lập và tiến hành những thí nghiệm mới đến khi tìm ra sự tương hợp giữa bằng chứng thực nghiệm và bằng chứng toán học mới. Các lý thuyết mới này được công nhận như là những định luật vật lý. Quá trình tìm kiếm phương thức mới để mô tả những hiện tượng mới luôn là quá trình mở rộng tầm mắt, thách thức lối tư duy thông dụng vốn hạn hẹp của chúng ta về bản chất của thực tại vật lý. Sau đó, chúng ta tích hợp những quan niệm mới vào cuộc sống thường ngày và bắt đầu có cái nhìn khác về bản thân.
Toàn bộ chương này trình bày những quan điểm khoa học về thực tại vốn xác nhận cho quan niệm rằng con người được cấu thành từ các trường năng lượng, và trên thực tế còn vượt xa hơn thế để đi vào những lĩnh vực mà chúng ta chỉ mới đang bắt đầu trải nghiệm, đó là quan điểm toàn thể về vũ trụ. Trong vũ trụ này, vạn vật đều có mối liên hệ với nhau, tương ứng với một trải nghiệm toàn cục về thực tại. Nhưng trước hết, chúng ta hãy cùng điểm lại một phần lịch sử.
Vật lý học Newton
Mãi cho tới gần đây, khi các tôn giáo phương Đông bắt đầu có ảnh hưởng lớn hơn đến nền văn hóa phương Tây, cách chúng ta tự định nghĩa về bản thân (phần lớn là vô thức) vẫn chủ yếu dựa trên vật lý học của vài ba trăm năm trước. Ý tôi ở đây là chúng ta luôn một mực cho rằng bản thân là vật thể rắn. Định nghĩa vũ trụ được tạo thành từ những vật thể rắn được Isaac Newton và các đồng nghiệp của ông thiết lập vững chắc vào cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18. Vật lý học Newton được mở rộng vào thế kỷ 19 và mô tả một vũ trụ cấu thành từ những khối cơ bản gọi là nguyên tử. Vật lý học Newton cho rằng những nguyên tử này được cấu thành từ các vật thể rắn ‒ một hạt nhân bao gồm các proton và neutron, với các electron quay xung quanh hạt nhân đó giống như Trái đất quay quanh mặt trời.
Cơ học Newton đã mô tả thành công sự vận động của các hành tinh, máy móc cơ khí và chất lưu1. Thành công to lớn của mô hình cơ học khiến các nhà vật lý đầu thế kỷ 19 tin rằng vũ trụ quả thực là một hệ thống cơ giới khổng lồ vận hành theo các nguyên lý vận động của vật lý học Newton. Những nguyên lý này được xem như là những nguyên lý cơ bản của tự nhiên, và cơ học Newton cũng được coi như là lý thuyết nền tảng của các hiện tượng tự nhiên. Những nguyên lý này củng cố vững chắc các quan niệm về thời gian và không gian tuyệt đối cũng như quan niệm rằng các hiện tượng vật lý hoàn toàn là mối quan hệ nhân quả trong tự nhiên. Mọi thứ đều có thể được mô tả một cách khách quan. Mọi phản ứng vật lý đều được xem là có một nguyên nhân vật lý, giống như những quả bi va vào nhau trên bàn bi-a vậy. Lúc bấy giờ, các tương tác của vật chất năng lượng, như một chiếc máy radio phát nhạc và phản hồi với những sóng vô tuyến vô hình chẳng hạn, còn chưa được biết đến. Cũng như chưa có ai nghĩ đến chuyện bản thân người tiến hành thí nghiệm lại có tác động đến kết quả thí nghiệm không chỉ ở khía cạnh tâm lý, mà còn cả ở khía cạnh vật lý, điều đã được các nhà vật lý ngày nay chứng thực.
1 Chất lưu là chất có thể chảy được, bao gồm các chất lỏng, chất khí, plasma. (BT)
Quan niệm này rất dễ chấp nhận và hiện vẫn nhận được sự ưa chuộng từ những người thích xem thế giới này là một thế giới rắn chắc và hầu như không thay đổi, cùng với đó là những chuỗi quy luật hoàn toàn rõ ràng, minh bạch chi phối chức năng hoạt động của nó. Phần lớn cuộc sống thường ngày của chúng ta vẫn vận hành dựa trên cơ học Newton. Ngoại trừ hệ thống điện, hầu như mọi thứ trong nhà chúng ta đều có liên quan đến vật lý học Newton. Chúng ta trải nghiệm cơ thể mình theo cách thức mang tính cơ học. Chúng ta định nghĩa hầu hết mọi trải nghiệm của bản thân dựa trên quan niệm không gian ba chiều, tuyệt đối và thời gian tuyến tính. Chúng ta đều có đồng hồ. Chúng ta đều cần đến chúng để tiếp tục cuộc sống của mình đúng theo cái cách chúng ta đã thiết lập cơ chế của chúng – chủ yếu là tuyến tính.
Bởi lẽ luôn hối hả hòng cố gắng “đúng giờ” trong cuộc sống thường ngày, thế nên chúng ta rất dễ xem bản thân là những cỗ máy cơ học và không nhìn ra những trải nghiệm nhân tính sâu bên trong. Giả như hỏi ai đó rằng cái gì cấu thành nên vũ trụ, nhiều khả năng là họ sẽ miêu tả mô hình vật lý học Newton về nguyên tử (các electron quay quanh một hạt nhân gồm các proton và neutron). Tuy nhiên nếu suy rộng ra theo đúng nghĩa đen, lý thuyết này đặt chúng ta vào vị thế có phần rối rắm khi quan niệm bản thân là những sinh thể được cấu thành từ những quả bóng bàn bé tí tẹo xoay tít mù quanh nhau.
Lý thuyết trường
Vào đầu thế kỷ 19, nhiều hiện tượng vật lý mới được khám phá mà vật lý học Newton không thể mô tả được. Từ những khám phá và nghiên cứu về các hiện tượng điện từ, khái niệm trường ra đời. Trường được định nghĩa là một trạng thái trong không gian có khả năng tạo ra lực. Cơ học Newton cổ điển đơn thuần lý giải tương tác giữa các hạt mạng điện tích dương và các hạt mang điện tích âm như proton và electron hút nhau như hai hạt mang khối lượng. Tuy nhiên, Micheal Faraday và James Clerk Maxwell lại thấy trong trường hợp này, sử dụng khái niệm trường thì thỏa đáng hơn. Họ cho rằng mỗi điện tích tạo ra một “tình trạng nhiễu” hoặc một “điều kiện” trong không gian bao quanh nó, thế nên nó làm cho các điện tích khác cảm thấy một lực tác động. Theo đó, khái niệm về một vũ trụ chứa đầy những trường tạo ra các lực tương tác lẫn nhau ra đời. Cuối cùng, chúng ta đã có một khung lý thuyết khoa học mà dựa vào đó có thể bắt đầu lý giải tại sao chúng ta có khả năng tác động lên nhau từ xa thông qua những phương tiện khác ngoài lời nói và ánh mắt. Ắt hẳn chúng ta đều từng có lần nhấc máy điện thoại lên và biết ngay đầu dây bên kia là ai mà chưa cần nói gì cả. Các bà mẹ thường biết khi nào con mình gặp rắc rối, bất kể chúng đang ở đâu. Điều này giờ đây có thể được lý giải bằng lý thuyết trường.
Trong mười lăm đến hai mươi năm qua (100 năm sau các nhà vật lý), đa số chúng ta mới bắt đầu sử dụng những khái niệm trên để mô tả những tương tác cá nhân của mình. Chúng ta chỉ mới đang bắt đầu thừa nhận rằng bản thân được cấu thành từ các trường. Chúng ta cảm nhận được sự có mặt của người khác trong phòng mà không cần nhìn thấy hoặc nghe thấy họ (tương tác trường); chúng ta nói về rung cảm tốt hoặc xấu, về việc truyền năng lượng đến người khác hoặc việc đọc suy nghĩ của nhau. Chúng ta ngay lập tức biết được liệu mình có thích ai đó hay không, liệu mình sẽ có tiến triển tốt hay xung khắc với họ. Cái “biết” này có thể được lý giải bằng sự hòa hợp hoặc không hòa hợp trong tương tác trường của chúng ta.
Thuyết tương đối
Năm 1905, Albert Einstein công bố Thuyết tương đối đặc biệt và đánh sập toàn bộ những khái niệm căn bản của vật lý học Newton về thế giới. Theo thuyết tương đối, không gian không phải ba chiều và thời gian không phải là một thứ tồn tại độc lập. Cả hai liên kết mật thiết với nhau và tạo thành một thể liên tục bốn chiều, “không – thời gian”. Vì thế, chúng ta không bao giờ có thể đề cập đến không gian riêng lẻ mà không đưa thời gian vào, và ngược lại. Hơn thế nữa, không tồn tại một dòng chảy đồng nhất của thời gian; nói cách khác, thời gian không tuyến tính và cũng không tuyệt đối. Thời gian có tính tương đối. Tức là, hai chủ thể quan sát sẽ sắp xếp các sự kiện xảy ra theo thứ tự thời gian khác nhau nếu họ chuyển động với các vận tốc khác nhau trong mối quan hệ tương đối với sự kiện được quan sát. Thành thử, mọi sự đo lường về không gian và thời gian đều mất đi tính tuyệt đối. Không gian và thời gian chỉ còn là những yếu tố để mô tả các hiện tượng.
Theo thuyết tương đối của Einstein, trong những điều kiện nhất định, hai chủ thể quan sát thậm chí có thể nhìn thấy hai sự kiện diễn ra đảo ngược; tức là, với chủ thể quan sát 1, sự kiện A sẽ xảy ra trước sự kiện B, trong khi với chủ thể quan sát 2, sự kiện B sẽ xảy ra trước sự kiện A.
Trong cách chúng ta mô tả về bản thân và các hiện tượng tự nhiên, thời gian và không gian là những khái niệm quá căn bản đến nỗi sự biến đổi của chúng kéo theo sự biến đổi của toàn bộ khung lý thuyết mà chúng ta sử dụng để mô tả bản thân và tự nhiên. Chúng ta vẫn chưa đưa phần nội dung về thuyết tương đối này của Einstein vào đời sống cá nhân. Lấy ví dụ, khi ta chợt lóe lên linh cảm rằng một người bạn của mình đang bị đau, chẳng hạn như họ bị ngã cầu thang, ta nhìn đồng hồ và gọi cho người đó sớm nhất có thể để xem thử họ có ổn không; đồng thời cũng muốn biết xem liệu có chuyện gì đó không may xảy ra không để xác thực linh tính của mình. Chúng ta gọi điện và hóa ra họ chẳng gặp phải chuyện gì cả, và liền kết luận là mình bị trí tưởng tượng đánh lừa rồi phủ nhận trải nghiệm đó. Đây là lối tư duy theo vật lý học Newton.
Chúng ta phải nhìn ra rằng bản thân đang trải nghiệm một hiện tượng không thể được lý giải bằng cơ học Newton, thế nhưng lại sử dụng cơ học Newton để xác thực trải nghiệm siêu giác quan của mình. Nói cách khác, những gì chúng ta nhìn thấy là một trải nghiệm thực sự. Bởi lẽ thời gian không tuyến tính thế nên chuyện đó có thể đã xảy ra rồi. Chuyện đó có thể xảy ra vào thời điểm bạn nhìn thấy nó, hoặc nó có thể xảy ra trong tương lai. Nó thậm chí có thể là một biến cố có khả năng xảy ra nhưng không bao giờ trở thành hiện thực. Chỉ vì nó không xảy ra vào thời điểm chúng ta cố gắng tìm ra mối liên hệ, không có nghĩa là linh tính của chúng ta sai lầm về khả năng chuyện đó có thể xảy ra. Tuy vậy, nếu trong linh tính của chúng ta về người bạn nọ, ta cũng nhìn thấy một cái lịch và một cái đồng hồ hiển thị thời gian Newton, linh tính của chúng ta hẳn sẽ bao gồm cả thông tin về thể liên tục không – thời gian của biến cố đó. Như vậy thì sẽ dễ xác thực biến cố đó hơn trong thực tại vật lý Newton.
Nói chung, đã đến lúc chúng ta ngừng phủ nhận giá trị của những trải nghiệm nằm ngoài lối tư duy theo vật lý học Newton và mở rộng khung lý thuyết của chúng ta về thực tại. Chúng ta đều từng trải nghiệm thời gian trôi nhanh hơn hoặc có những lúc không để ý đến thời gian trôi qua. Nếu biết quan sát tâm trạng của bản thân, chúng ta có thể nhận thấy thời gian của riêng cá nhân ta biến đổi tùy theo tâm trạng và tùy theo những trải nghiệm mà bản thân đang có. Chẳng hạn, chúng ta nhận thấy thời gian mang tính tương đối khi trải nghiệm một khoảng thời gian kinh hãi kéo dài ngay trước lúc xe của mình đâm hoặc suýt đâm vào một chiếc xe đối diện. Nếu tính theo đồng hồ, khoảng thời gian này chỉ vỏn vẹn vài giây; thế nhưng, đối với bản thân ta, thời gian dường như trôi chậm hơn. Khoảng thời gian được trải nghiệm này không thể tính bằng đồng hồ vì đồng hồ là một thiết bị cơ học được thiết kế để đo lường thời gian tuyến tính theo định nghĩa của cơ học Newton.
Trải nghiệm của chúng ta tồn tại bên ngoài hệ thống vật lý học Newton. Lắm lúc, ta hội ngộ ai đó sau vài năm xa cách thế nhưng lại cảm tưởng như vừa mới gặp họ ngày hôm qua vậy. Trong liệu pháp hồi quy, rất nhiều người đã trải nghiệm những sự việc hồi bé như thể chúng đang diễn ra ở hiện tại. Đồng thời, chúng ta nhận thấy ký ức sắp xếp các sự việc theo trình tự không giống với trình tự của một ai đó khác cũng từng trải nghiệm các sự việc này. (Hãy thử so sánh các ký ức hồi bé của bạn với anh chị em của bạn mà xem).
Nền văn hóa thổ dân châu Mỹ, vốn không có đồng hồ để hình thành thời gian tuyến tính, phân thời gian làm hai: khoảnh khắc hiện tại và toàn bộ những khoảnh khắc khác. Thổ dân châu Úc cũng có hai loại thời gian: thời gian trôi và thời gian kỳ vĩ. Những gì xảy ra trong thời gian kỳ vĩ có trình tự nhưng không thể định rõ ngày tháng.
Từ những nghiên cứu kiểm tra các nhà thấu thị, Lawrence Le Shan định ra hai loại thời gian: thời gian tuyến tính thông thường và thời gian thấu thị. Thời gian thấu thị là đặc tính của thời gian được các nhà thấu thị trải nghiệm khi họ sử dụng khả năng của mình. Loại thời gian này tương đồng với thời gian kỳ vĩ. Những gì xảy ra đều có trình tự nhưng chỉ có thể được nhìn thấy khi nhà thấu thị hòa mình vào hoặc trải nghiệm dòng chảy liên tục đó. Nếu nhà thấu thị chủ động tìm cách can thiệp vào chuỗi sự kiện mà họ đang chứng kiến, họ lập tức bị quăng trở lại dòng thời gian tuyến tính và sẽ không còn chứng kiến được những sự kiện nằm ngoài khung thời gian hiện tại thông thường. Bấy giờ, họ phải tập trung chú tâm lại vào thời gian thấu thị. Những quy luật chi phối sự dịch chuyển từ khung thời gian này sang khung thời gian khác vẫn chưa được nắm rõ. Hầu hết các nhà thấu thị sẽ được dẫn dắt để “đọc” một khung thời gian cụ thể trong kiếp sống hiện tại hoặc tiền kiếp của một người tùy theo nhu cầu của người đó. Một số nhà thấu thị đơn giản là có khả năng tập trung vào bất kỳ khung thời gian nào được yêu cầu.
Thể liên tục không – thời gian của Einstein cho thấy rõ rằng tính chất tuyến tính biểu kiến của các sự kiện tùy thuộc vào chủ thể quan sát. Tất cả chúng ta đều quá đỗi sẵn lòng chấp nhận rằng tiền kiếp là các kiếp sống vật lý đơn thuần đã xảy ra trong quá khứ với một môi trường vật lý giống như kiếp sống hiện tại. Các tiền kiếp của chúng ta có thể đang diễn ra ngay lúc này trong một thể liên tục không – thời gian khác. Nhiều người trong chúng ta đã trải nghiệm “các tiền kiếp” và cảm nhận được tác động của chúng như thể chúng mới chỉ diễn ra cách đó ít lâu. Thế nhưng, chúng ta hiếm khi nói đến chuyện các kiếp sống tương lai đang có ảnh hưởng như thế nào đến kiếp sống mà chúng ta đang trải nghiệm ở ngay khoảnh khắc hiện tại. Bởi lẽ chúng ta sống cuộc đời mình NGAY LÚC NÀY, thế nên nhiều khả năng là chúng ta đang viết lại lịch sử của cá nhân chúng ta, cả quá khứ lẫn tương lai.
Một hệ quả quan trọng nữa từ thuyết tương đối của Einstein là chúng ta nhận ra rằng vật chất và năng lượng có thể hoán đổi cho nhau. Khối lượng chẳng qua là một hình thái của năng lượng. Vật chất đơn thuần là năng lượng chuyển động chậm hoặc kết tụ lại. Cơ thể chúng ta là năng lượng. Đó là chủ đề chính của toàn bộ cuốn sách này! Tôi đã giới thiệu khái niệm về các cơ thể năng lượng trong cuốn sách này nhưng chưa nhấn mạnh rằng cơ thể vật lý của chúng ta cũng là năng lượng.
Nghịch lý
Vào những năm 1920, vật lý học bước vào một thực tại mới lạ và không ngờ tới của thế giới hạ nguyên tử. Mỗi khi các nhà vật lý tìm kiếm thông tin từ tự nhiên cho một câu hỏi thông qua thí nghiệm, tự nhiên đáp lại bằng một nghịch lý. Họ càng tìm cách làm cho mọi sự trở nên sáng sủa hơn thì các nghịch lý lại càng rõ nét. Đến cuối cùng, các nhà vật lý nhận ra rằng nghịch lý là một phần bản chất tự nhiên của thế giới hạ nguyên tử mà toàn bộ thực tại vật lý của chúng ta tồn tại dựa trên đó.
Chẳng hạn, các nhà vật lý có thể bố trí một thí nghiệm nhằm chứng minh ánh sáng là hạt. Thế nhưng, một thay đổi nhỏ trong thí nghiệm này sẽ chứng minh được ánh sáng là sóng. Bởi vậy, để mô tả hiện tượng ánh sáng, các nhà vật lý cần sử dụng cả hai khái niệm sóng và hạt. Theo đó, giờ đây chúng ta bước vào một vũ trụ được xây dựng dựa trên khái niệm “cả cái này lẫn cái kia”. Các nhà vật lý gọi đó tính chất bổ sung. Tức là để mô tả một hiện tượng (nếu chúng ta tiếp tục tư duy bằng những thuật ngữ như hạt và sóng), người ta phải sử dụng cả hai loại mô tả. Các loại mô tả này bổ sung cho nhau thay vì đối lập nhau nếu xét theo khái niệm cũ kiểu “hoặc cái này hoặc cái kia”.
Lấy ví dụ, Max Planck đã khám phá rằng năng lượng của bức xạ nhiệt (chẳng hạn như lò sưởi trong nhà bạn) không tỏa ra liên tục mà tồn tại dưới dạng những “bó năng lượng” riêng biệt được gọi là lượng tử (quantum). Einstein đã đưa ra định đề rằng mọi hình thái của bức xạ điện từ đều không những chỉ là sóng, mà còn có thể xuất hiện dưới dạng lượng tử. Những lượng tử ánh sáng hay những bó năng lượng này đã được thừa nhận là những hạt nguyên tử thứ thiệt. Tại giai đoạn này của cuộc chơi, một nguyên tử, định nghĩa gần sát nhất của một “sự vật”, là một bó năng lượng!
Khi nghiên cứu sâu hơn về vật chất, chúng ta khám phá ra rằng không hề có “những khối cấu trúc cơ bản” riêng rẽ trong tự nhiên như những gì mà vật lý học Newton đề ra. Cuộc truy tìm những khối cấu trúc cơ bản của vật chất buộc phải bị bỏ dở khi các nhà vật lý tìm ra rất nhiều hạt cơ bản mà khó có thể được gọi là cơ bản. Nhờ vào những thí nghiệm trong vài thập kỷ qua, các nhà vật lý đã khám phá ra rằng vật chất hoàn toàn có thể bị biến đổi, và ở bình diện hạ nguyên tử, vật chất không tồn tại một cách chắc chắn tại những vị trí nhất định, mà đúng hơn là chúng chỉ thể hiện những “khuynh hướng” tồn tại. Mọi hạt đều có thể được chuyển hóa thành những hạt khác. Chúng có thể được tạo thành từ năng lượng và được chuyển hóa thành những hạt khác. Chúng có thể được tạo thành từ năng lượng và tiêu biến thành năng lượng. Chúng ta không thể xác định chính xác vị trí và thời điểm chuyện này diễn ra, nhưng chúng ta biết rằng nó đang tiếp diễn liên tục.
Ở bình diện cá nhân, bởi lẽ chúng ta đi sâu hơn vào thế giới tâm lý học hiện đại và phát triển tâm linh, chúng ta nhận thấy những hình thái cũ kiểu “hoặc cái này hoặc cái kia” cũng bị thay thế bằng hình thái “cả cái này lẫn cái kia”. Chúng ta không còn là xấu hoặc tốt; chúng ta không còn chỉ căm ghét hoặc yêu thương một ai đó. Bên trong mình, chúng ta tìm thấy nhiều khả năng rộng lớn hơn. Chúng ta có thể cảm thấy cả yêu thương lẫn căm ghét, và mọi cảm xúc nằm giữa hai thái cực đó, đối với cùng một đối tượng. Chúng ta hành xử một cách có trách nhiệm. Chúng ta nhận thấy thuyết nhị nguyên cũ về Thượng đế/quỷ dữ tan biến thành một toàn thể mà ở đó chúng ta tìm thấy Thượng đế bên trong hợp nhất với Thượng đế bên ngoài. Không có cái ác nào là đối nghịch với Thượng đế mà chỉ là đang kháng cự lại lực của Thượng đế. Tất cả đều được cấu thành từ cùng một loại năng lượng. Lực của Thượng đế là cả đen lẫn trắng, cả tính nam lẫn tính nữ. Nó chứa đựng cả hai, ánh sáng trắng và khoảng không nhung đen.
Như bạn đọc có thể thấy, chúng ta vẫn đang sử dụng các khái niệm mang nặng tính nhị nguyên, nhưng đây là một thế giới của những thứ “nhìn bên ngoài” là đối nghịch nhưng lại bổ sung lẫn nhau và không phải là đối nghịch “thực sự”. Trong hệ thống đó, tính nhị nguyên được sử dụng nhằm thúc đẩy chúng ta tiến tới hợp nhất.
Vượt khỏi tính nhị nguyên – nguyên lý toàn ảnh (hologram)
Các nhà vật lý đã khám phá ra rằng các loại hạt cũng có thể đồng thời là sóng bởi chúng không phải là sóng vật lý thật trong không gian ba chiều giống như sóng âm hay sóng nước, mà là sóng xác suất. Sóng xác suất không thể hiện xác suất tồn tại của sự vật mà là xác suất của những mối liên hệ. Đây là một khái niệm rất khó hiểu, nhưng về cơ bản, các nhà vật lý tuyên bố rằng không hề tồn tại “sự vật” nào cả. Những gì mà chúng ta thường gọi là “sự vật” thực chất là những “sự kiện” hoặc quá trình có thể trở thành những sự kiện.
Giờ đây, thế giới vật chất rắn xưa cũ của chúng ta và những quy luật tất định của tự nhiên tan rã thành một thế giới của những mô hình liên hệ dạng sóng. Những khái niệm như “hạt cơ bản”, “tự tính vật chất” hay “vật thể độc lập” mất đi ý nghĩa. Toàn bộ vũ trụ hiện ra là một mạng lưới năng động của các mô hình năng lượng không thể chia chẻ. Theo đó, vũ trụ được định nghĩa là một thể thống nhất năng động, không thể phân tách và luôn bao gồm chủ thể quan sát như một nhân tố thiết yếu.
Nếu vũ trụ này quả thực được tạo thành từ một mạng lưới như vậy thì (về lý mà nói) chẳng có thứ gì là một bộ phận cả. Do đó, chúng ta không phải là những bộ phận riêng biệt của một thể thống nhất. Chúng ta là toàn thể.
Gần đây, nhà vật lý, tiến sĩ David Bohm nêu ra trong cuốn sách The Implicate Order (tạm dịch: Trật tự tiềm ẩn) rằng một nền khoa học luôn tìm cách chia chẻ thế giới thành các bộ phận thì không thể tìm ra được các quy luật vật lý cơ bản. Trong cuốn sách, ông đưa ra khái niệm trật tự tiềm ẩn (cuộn lại) ‒ thứ tồn tại trong trạng thái phi hiển lộ và là cơ sở để mọi thực tại hiển lộ dựa vào. Ông gọi cái thực tại hiển lộ này là trật tự tường minh (mở ra). “Các bộ phận được nhìn thấy trong một mối liên hệ trực tiếp, trong đó các mối quan hệ năng động của chúng tùy thuộc một cách bất biến vào trạng thái của toàn bộ hệ thống… Theo đó, chúng ta đi đến một ý niệm mới về tính toàn vẹn không thể bị phá vỡ, điều này bác bỏ ý tưởng cổ điển rằng thế giới có thể được phân tích thành những bộ phận riêng biệt và tồn tại độc lập.”
Tiến sĩ Bohm tuyên bố rằng quan điểm vũ trụ toàn ảnh là bước nhảy vọt để bắt đầu tìm hiểu trật tự tiềm ẩn và trật tự tường minh. Khái niệm toàn ảnh phát biểu rằng trong một mô hình toàn ảnh (hologram), mỗi điểm là một sự biểu trưng chính xác cho toàn bộ và có thể được sử dụng để dựng lại đầy đủ mô hình toàn ảnh đó.
Năm 1971, Dennis Gabor nhận được giải Nobel khi là người đầu tiên dựng được một mô hình toàn ảnh. Đây là một tấm ảnh được chụp mà không cần sử dụng thấu kính, trong đó, một trường sóng ánh sáng bị một vật thể làm phân tán được ghi lại dưới dạng một mô hình giao thoa trên tấm kính ảnh. Khi tấm toàn ảnh này được đặt dưới tia laser hoặc chùm ánh sáng mạch lạc, mô hình sóng ban đầu được tái tạo lại thành một hình ảnh ba chiều. Mọi điểm của tấm toàn ảnh đều chứa đựng chính xác toàn bộ thông tin tổng thể và sẽ tái dựng được toàn bộ tấm ảnh.
Tiến sĩ Karl Pribram, một nhà nghiên cứu nổi tiếng về não bộ, đã thu thập bằng chứng suốt hơn một thập kỷ nhằm xác nhận rằng về cơ bản, cấu trúc sâu của não bộ mang tính toàn ảnh. Ông khẳng định rằng dựa trên nghiên cứu phân tích tinh vi về các tần số thời gian và/hoặc tần số không gian từ nhiều phòng thí nghiệm, chúng ta có thể chứng minh các cấu trúc não bộ nhìn, nghe, nếm, ngửi và chạm theo nguyên lý toàn ảnh. Thông tin được phân bổ khắp hệ thống, thế nên mỗi cấu phần đều có thể đưa ra thông tin về toàn não bộ. Tiến sĩ Pribam sử dụng mô hình toàn ảnh để mô tả không chỉ riêng não bộ, mà là cả vũ trụ. Ông tuyên bố rằng não bộ vận dụng một quy trình toàn ảnh để rút thông tin từ một vùng toàn ảnh vốn vượt ngoài thời gian và không gian. Trước giờ, các nhà tâm linh học vẫn đi tìm kiếm thứ năng lượng có thể truyền năng lực thần giao cách cảm, ngoại cảm và chữa lành. Từ quan niệm vũ trụ toàn ảnh, những sự kiện này xuất hiện từ các tần số vượt ngoài thời gian và không gian; chúng không cần phải được truyền đi. Chúng có tiềm năng xảy ra đồng thời và ở khắp mọi nơi.
Khi bàn về các trường năng lượng của hào quang trong cuốn sách này, tôi sẽ sử dụng những thuật ngữ rất cổ xuất phát từ quan niệm của những nhà vật lý trên. Hiện tượng hào quang rõ ràng là thuộc bên trong và bên ngoài thời gian tuyến tính và không gian ba chiều. Như trong những trường hợp điển hình mà tôi đã mô tả, tôi “nhìn thấy” những sự kiện hồi Ed dậy thì, thời điểm anh bị gãy xương cụt, bởi anh lưu giữ trải nghiệm đó trong trường năng lượng của mình. “Mũi tên tình ái” của người đang yêu có thể được quan sát trong trường năng lượng hiện tại của người đó, và nhà thấu thị dường như có thể quay về quá khứ và chứng kiến sự kiện đó xảy ra. Rất nhiều trải nghiệm tương tự trong cuốn sách này cần tới nhiều hơn ba chiều để giải thích; rất nhiều trong số đó dường như xảy đến tức thời. Khả năng quan sát bên trong cơ thể ở bất kỳ mức độ nào, đi cùng một cách giải quyết linh hoạt, có thể đưa đến việc sử dụng thêm các chiều không gian. Khả năng tiếp nhận những sự kiện quá khứ bằng cách thỉnh cầu thông tin, hoặc nhìn thấy một sự kiện có khả năng xảy ra và rồi thay đổi sự kiện đó bằng cách can thiệp thông qua quá trình chữa lành, có thể đưa đến thời gian phi tuyến tính. Khả năng nhìn thấy một sự kiện sẽ xảy ra trong tương lai nằm ngoài thời gian tuyến tính.
Khi sử dụng khái niệm trường để mô tả hào quang, chúng ta sẽ lún sâu vào thuyết nhị nguyên; tức là sẽ tách rời trường khỏi chúng ta và quan sát “nó” như một hiện tượng tồn tại dưới dạng một “bộ phận” của chúng ta. Chúng ta sẽ sử dụng những thuật ngữ như “trường của tôi” và “hào quang của cô ấy”, v.v.. Đó là tính nhị nguyên. Tôi buộc lòng phải xin thứ lỗi về chuyện đó và thành thật mà nói, ở thời điểm hiện tại, tôi không thể nào truyền tải được những trải nghiệm này nếu không sử dụng những khung lý thuyết cũ.
Từ khung lý thuyết về thực tại toàn ảnh, mỗi mảnh của hào quang không chỉ đại diện mà còn chứa đựng cái toàn thể. Do đó, chúng ta chỉ có thể mô tả trải nghiệm của mình bằng một hiện tượng mà chúng ta vừa quan sát vừa tạo ra cùng một lúc. Mỗi quan sát đều có tác động đến mô hình được quan sát. Chúng ta không chỉ là một bộ phận của mô hình; chúng ta chính là mô hình. Nó là chúng ta và chúng ta là nó; chỉ là thuật ngữ “nó” lúc này cần được gạt bỏ và thay thế bằng thuật ngữ khác thích hợp hơn để giải phóng những khối cản trở mà chúng ta trải nghiệm trong đầu mình khi tìm cách truyền tải.
Các nhà vật lý sử dụng những khái niệm như “xác suất liên thông” hoặc “mạng lưới năng động của các mô hình năng lượng không thể tách rời”. Nếu chúng ta bắt đầu tư duy về một mạng lưới năng động của các mô hình năng lượng không thể tách rời thì toàn bộ những hiện tượng hào quang được mô tả trong cuốn sách này sẽ không còn có vẻ khác thường hoặc kỳ lạ nữa.
Mọi trải nghiệm đều có mối liên hệ với nhau. Thế nên, nếu dần nhận biết được điều đó và cho phép tính liên thông này đi vào các quá trình nhận thức của mình, chúng ta có thể nhận biết được mọi sự kiện độc lập trong toàn bộ thời gian. Nhưng ngay khi nói “chúng ta”, chúng ta rơi trở lại thế giới nhị nguyên. Rất khó để trải nghiệm tính liên thông này khi trải nghiệm căn bản của chúng ta về cuộc sống vốn mang tính nhị nguyên. Nhận thức mang tính toàn thể sẽ nằm ngoài thời gian tuyến tính và không gian ba chiều, do đó sẽ không dễ để được nhận ra. Chúng ta phải thực hành cách trải nghiệm toàn thể để có khả năng nhận ra nó.
Thiền là một cách vượt thoát khỏi những giới hạn của tâm trí tuyến tính và cho phép tính liên thông của vạn vật trở thành một thực tại có thể trải nghiệm được. Thực tại này rất khó để truyền tải bằng ngôn ngữ, bởi lẽ chúng ta sử dụng ngôn ngữ theo lối tuyến tính. Chúng ta cần phát triển từ vựng để dựa vào đó có thể dẫn dắt nhau đi đến những trải nghiệm này. Trong phái Thiền của Nhật Bản, các vị thầy đưa ra cho học trò một đoạn văn ngắn để chiêm nghiệm. Đoạn văn ngắn này, còn gọi là công án, được tạo ra để giúp các học trò vượt thoát khỏi tư duy tuyến tính. Dưới đây là một công án ưa thích của tôi:
Tiếng vỗ của một bàn tay là gì?
Khi đọc được công án nổi tiếng này, tôi thấy mình như giãn tan vào trong vũ trụ theo nhịp điệu của thứ âm thanh không ai nghe thấy được mà dường như trôi chảy đến vô tận.
Sự liên thông siêu sáng
Hiện nay, các nhà khoa học đang tìm kiếm bằng chứng về mối liên thông trực tiếp và phổ quát bên trong khung lý thuyết của khoa học, cả về mặt toán học lẫn thực nghiệm.
Năm 1964, nhà vật lý J.S. Bell công bố một bằng chứng toán học được gọi là Định lý Bell. Về mặt toán học, Định lý Bell củng cố quan niệm rằng các “hạt” hạ nguyên tử được liên kết theo một cách nào đó vượt ngoài không gian và thời gian, do vậy bất kể điều gì xảy ra với một hạt thì đều tác động đến các hạt khác. Hiệu ứng này là tức thì và không cần đến “thời gian” để truyền đi. Thuyết tương đối của Einstein nêu rõ rằng một hạt không thể nào di chuyển nhanh hơn tốc độ ánh sáng. Trong định lý của Bell, hiệu ứng này có thể mang tính “siêu sáng”, hoặc nhanh hơn tốc độ ánh sáng. Đến nay, Định lý Bell đã được xác nhận bằng thực nghiệm. Chúng ta đang nói đến một hiện tượng nằm ngoài thuyết tương đối của Einstein. Chúng ta đang cố gắng vượt ra khỏi tính nhị nguyên về sóng/hạt.
Vậy là một lần nữa, khi điều kiện của các thiết bị khoa học ngày càng tân tiến, chúng ta có thể thăm dò sâu hơn vào vật chất với độ nhạy lớn hơn, chúng ta tìm ra những hiện tượng không thể được giải thích bằng những lý thuyết hiện hành. Khi sự thăm dò kiểu này xảy đến vào cuối những năm 1800, việc phát minh ra điện đã cách mạng hóa cả thế giới và còn thúc đẩy chúng ta suy nghĩ sâu xa hơn về bản chất con người. Khi chuyện đó lại xảy đến vào những năm 1940, năng lượng nguyên tử cách mạng hóa cả thế giới. Có vẻ như chúng ta lại đang hướng đến một thời kỳ thay đổi lớn. Nếu các nhà vật lý biết được cơ chế vận hành của sự liên thông tức thời này, chúng ta có thể nắm bắt được cách nhận biết có ý thức về mối liên thông tức thời của chúng ta với nhau và với thế giới. Rõ ràng là điều này sẽ cách mạng hóa phương thức truyền đạt thông tin. Nó cũng sẽ thay đổi triệt để cách chúng ta tương tác với nhau. Mối liên thông tức thời này có thể cho chúng ta khả năng đọc tâm trí của nhau bất cứ khi nào chúng ta muốn; có thể biết chuyện gì đang diễn ra trong lòng đối phương và thực sự thấu hiểu nhau một cách sâu sắc; cũng có thể thấy rõ hơn cách mà suy nghĩ, cảm giác (trường năng lượng) và hành động của chúng ta ảnh hưởng đến thế giới so với trước đây.
Các trường tạo hình
Trong cuốn sách của mình, A New Sciene of Life (tạm dịch: Khoa học mới về sự sống), Rupert Sheldrake đề xuất rằng mọi hệ thống đều chịu sự điều chỉnh của không chỉ các yếu tố vật chất và năng lượng đã được biết đến, mà còn của những trường vô hình có tổ chức. Các trường này có tính khởi phát bởi chúng đóng vai trò như những bản thiết kế cho hình thái và hành vi. Các trường này không có năng lượng theo nghĩa thông dụng của từ này bởi tác động của chúng vượt ra khỏi những giới hạn thời gian và không gian vốn thường được áp lên năng lượng. Có nghĩa là tác động của chúng có độ mạnh tương đương bất kể khoảng cách xa hay gần.
Theo giả thuyết này, bất cứ khi nào một thành viên của một chủng loài học một hành vi mới, trường khởi phát của chủng loài này sẽ bị biến đổi, mặc dù ở mức độ không đáng kể. Nếu hành vi này được lặp lại đủ lâu thì “sự cộng hưởng hình thái” của hành vi đó sẽ tác động đến toàn bộ chủng loài. Sheldrake gọi ma trận vô hình này là “trường tạo hình” (morphogenetic field – bắt nguồn từ morph: “kiểu hình thái”, và genesis: “tạo thành”). Tác động của trường này liên quan đến “tác động ở khoảng cách” trong cả không gian lẫn thời gian. Không phải hình thái được xác định theo các định luật vật lý bên ngoài thời gian mà nó tùy thuộc vào sự cộng hưởng hình thái trải khắp thời gian. Điều này có nghĩa là các trường tạo hình có thể truyền khắp không gian và thời gian, cũng như các sự kiện quá khứ có thể ảnh hưởng đến các sự kiện khác ở khắp mọi nơi. Một ví dụ minh họa cho giả thuyết này được Lyall Watson trình bày trong cuốn Lifetide: The Biology of Consciousness (tạm dịch: Sóng đời: Tính sinh học của tâm thức), trong đó ông mô tả nguyên lý mà hiện nay được nhiều người biết đến với tên gọi Nguyên lý con khỉ thứ một trăm. Watson nhận thấy rằng sau khi một nhóm khỉ học được một hành vi mới thì đột nhiên, các con khỉ khác trên đảo vốn không thể có các phương tiện trao đổi thông tin “thông thường” cũng học được hành vi đó.
Tiến sĩ David Bohm trong tập san Revisions tuyên bố rằng điều tương tự cũng đúng đối với vật lý lượng tử. Ông nói rằng thí nghiệm Einstein-Podolsky-Rosen cho thấy tồn tại những mối liên thông không định xứ, hay những mối liên thông vi tế của các hạt ở xa nhau. Thế nên, hệ thống này hẳn có một tính toàn vẹn đến nỗi trường tạo hình không thể chỉ được quy cho riêng một hạt nguyên tử đó. Nó chỉ có thể được quy cho cả toàn thể. Do đó, một điều xảy ra với các hạt cách ở xa có thể tác động đến trường tạo hình của các hạt khác. Bohm nói thêm rằng “khái niệm về những định luật không chịu ảnh hưởng của thời gian vốn chi phối vũ trụ có vẻ như không còn đứng vững, bởi lẽ bản thân thời gian là một phần thiết yếu của sự phát triển”.
Thực tại đa chiều
Trong tạp chí Psychoenergetic System, một nhà vật lý khác là Jack Sarfatti đặt ra giả thuyết rằng mối liên thông siêu sáng có thể tồn tại là nhờ một cõi thực tại cao hơn. Ông đề xuất rằng “sự vật” có liên kết chặt chẽ hơn hay các sự kiện có “tương quan” rõ rệt hơn ở một cõi thực tại “cao hơn” thực tại của chúng ta, và “sự vật” trong cõi đó được kết nối với một cõi còn cao hơn. Do đó, nếu đạt tới được một cõi cao hơn, chúng ta có thể hiểu được cơ chế vận hành của mối liên thông tức thời này.
Kết luận
Các nhà vật lý khẳng định rằng không tồn tại các khối cấu trúc cơ bản của vật chất, mà đúng hơn thì vũ trụ là một toàn thể không thể phân tách; một mạng lưới mênh mông của những xác suất tương tác bện chặt lẫn nhau. Công trình của Bohms cho thấy vũ trụ hiển lộ này khởi phát từ cái toàn thể đó. Theo tôi, bởi lẽ chúng ta là những bộ phận không thể phân tách của cái toàn thể đó, thế nên chúng ta có thể bước vào trạng thái toàn cục của hiện hữu, trở thành cái toàn thể, và tận dụng những sức mạnh sáng tạo của vũ trụ để chữa lành tức thời bất cứ ai ở bất cứ đâu. Một số người chữa lành có thể làm được điều này ở một phạm vi nhất định nhờ kết hợp và trở thành một thể với Thượng đế và bệnh nhân.
Trở thành một người chữa lành có nghĩa là hướng đến năng lượng sáng tạo phổ quát này, thứ mà chúng ta trải nghiệm dưới dạng tình yêu thương bằng cách đồng nhất hóa bản thân và trở thành chính vũ trụ; trở thành một với Thượng đế. Bước đệm để chúng ta tiến vào cái toàn thể này là buông bỏ những định nghĩa giới hạn về bản thân dựa trên vật lý học Newton trong quá khứ vốn phân tách các bộ phận, đồng thời nhận diện bản thân chính là các trường năng lượng. Nếu có thể đưa thực tại này vào cuộc sống của mình một cách thực tiễn và tường minh, chúng ta có thể tách rời ảo vọng khỏi một thực tại rộng lớn hơn. Một khi chúng ta liên kết bản thân với các trường năng lượng, tâm thức bậc cao hơn sẽ liên kết với tần số cao hơn và sáng rõ hơn.
Vận dụng mô hình của Sarfatti, chúng ta bắt đầu nhìn thấy một thế giới rất giống với thế giới sẽ được mô tả ở phần sau cuốn sách này: thế giới của hào quang và trường năng lượng vũ trụ. Ở đó, chúng ta tồn tại trong nhiều hơn một thế giới. Các cơ thể bậc cao (tần số hào quang bậc cao) của chúng ta thuộc về một trật tự bậc cao và liên kết chặt chẽ hơn với các cơ thể bậc cao của người khác so với cơ thể vật lý của chúng ta. Khi nhận thức của chúng ta tiến tới các tần số và cơ thể bậc cao, chúng ta ngày càng liên kết hơn cho tới khi chúng ta cuối cùng là một với vũ trụ. Chiểu theo quan điểm của Sarfatti, trải nghiệm thiền lúc này có thể được định nghĩa là một trải nghiệm nâng cao tâm thức đến một tần số cao hơn, tới mức sau đó nó có thể trải nghiệm thực tại của các cơ thể bậc cao, tâm thức bậc cao của chúng ta cũng như các thế giới bậc cao mà chúng ta tồn tại trong đó.
Thế nên, bây giờ, chúng ta hãy cùng tìm hiểu sâu hơn về các hiện tượng trường năng lượng để xem thử khoa học thực nghiệm có thể chỉ ra cho chúng ta được những gì.
Điểm lại Chương 4
1. Các quan điểm khoa học đã có ảnh hưởng như thế nào đến các khái niệm của chúng ta về bản thân?
2. Tại sao quan điểm về một thế giới vật chất cố định hiện không còn thực tế đối với chúng ta?
3. Các công trình của Faraday và Maxwell có đóng góp quan trọng như thế nào đối với những quan niệm về cơ chế vận hành của thế giới?
4. Sự liên thông siêu sáng là gì và ý nghĩa quan trọng của nó trong cuộc sống thường ngày của chúng ta là như thế nào?
5. Quan niệm về thực tại đa chiều có thể giúp chúng ta mô tả trường năng lượng con người như thế nào?
Suy ngẫm
6. Hãy tưởng tượng bạn là một toàn ảnh. Điều này phá vỡ những giới hạn nào trong bạn?