Mặc dù các nhà thần bí không đề cập đến trường năng lượng và hình thái bioplasma, nhưng truyền thống của họ trong suốt 5.000 năm qua trên khắp thế giới lại nhất quán với những quan sát gần đây của giới nghiên cứu khoa học.
Truyền thống tâm linh
Những bậc thầy tinh thông thuộc mọi tôn giáo đều nhắc đến trải nghiệm quan sát thấy ánh sáng bao quanh đầu mọi người. Thông qua những lối thực hành tín ngưỡng như thiền và cầu nguyện, họ đạt đến trạng thái mở rộng ý thức, giúp họ khai mở năng lực Tri giác Cao cấp tiềm tàng bên trong họ.
Truyền thống tâm linh Ấn Độ cổ đại, vốn có bề dày lịch sử hơn 5.000 năm, có nhắc đến một dạng năng lượng vũ trụ được gọi là prana. Năng lượng vũ trụ này được xem là thành phần cơ bản và là nguồn gốc của mọi sự sống. Prana, hơi thở của sự sống, luân chuyển qua mọi hình thái và trao cho chúng sự sống. Những người luyện yoga tập kiểm soát năng lượng này bằng các kỹ thuật hô hấp, thiền và rèn luyện thể chất để duy trì trạng thái biến đổi của ý thức và luôn trẻ trung hơn nhiều so với tuổi thật của họ.
Người Trung Quốc, vào thiên niên kỷ thứ 3 trước Công nguyên, đã ghi nhận sự tồn tại của dạng năng lượng sống mà họ gọi là khí. Mọi vật chất, có sự sống cũng như vô tri, đều chứa đựng năng lượng vũ trụ này. Khí này chứa hai lực đối lập, lực âm và lực dương. Khi âm dương cân bằng, hệ thống sống khỏe mạnh về mặt thể chất; khi mất cân bằng, chúng gây ra trạng thái bệnh tật. Dương thịnh dẫn đến hoạt động quá mức của các cơ quan trong cơ thể. Âm thịnh thì lại khiến các chức năng cơ thể hoạt động thiếu đầy đủ. Thuật châm cứu cổ xưa vốn dĩ là nhằm mục đích cân bằng âm dương.
Kabbalah, giáo lý bí truyền của người Do Thái khởi nguồn từ khoảng năm 538 trước Công nguyên, cũng đề cập đến những năng lượng tương tự này và gọi đó là ánh sáng tinh tú. Những bức họa tôn giáo của người Cơ Đốc vẽ chân dung Chúa Jesus và các nhân vật tâm linh khác được bao quanh trong trường ánh sáng. Trong Kinh Cựu ước, có rất nhiều đoạn nhắc đến vầng sáng bao quanh con người và sự xuất hiện ánh sáng, thế nhưng qua nhiều thế kỷ, các hiện tượng này dần mất đi ý nghĩa nguyên thủy của chúng. Chẳng hạn, bức tượng Moses của Michelangelo thể hiệnkarnaeem là hai cái sừng trên đầu Moses thay vì hai chùm sáng theo đúng nghĩa ban đầu của từ này. Trong tiếng Hebrew, từ này vừa có nghĩa là sừng vừa có nghĩa là ánh sáng.
Trong cuốn sách Future Science (tạm dịch: Khoa học tương lai), tác giả John White nêu ra 97 nền văn hóa khác nhau có đề cập đến hiện tượng hào quang với 97 tên gọi khác nhau.
Rất nhiều giáo lý mật truyền – các bài viết trong kinh Vệ-đà của người Hindu cổ, các nhà Thông thiên học, các thành viên thuộc hội kín Rosicrucian, các thầy lang thổ dân châu Mỹ, các Phật tử Ấn Độ và Tây Tạng, các thiền sư Nhật Bản, nhà thần bí Blavatsky, triết gia Rudolph Steiner, v.v. – mô tả chi tiết về trường năng lượng con người. Gần đây, nhờ quá trình đào tạo khoa học tân tiến, nhiều người đã có thể nâng cao khả năng quan sát ở tầng vật chất.
Truyền thống khoa học: từ năm 500 trước Công nguyên cho đến thế kỷ 19
Xuyên suốt chiều dài lịch sử, ý tưởng về một loại năng lượng vũ trụ bao trùm khắp tự nhiên đã được nhiều bộ óc khoa học phương Tây củng cố. Trong các tài liệu của phương Tây, năng lượng sống này, vốn được nhận biết như là một thể phát sáng, lần đầu được những môn đệ của Pythagoras ghi chép lại vào khoảng năm 500 trước Công nguyên. Họ cho rằng ánh sáng của năng lượng này có thể tạo ra nhiều tác động khác nhau đến cơ thể người, bao gồm cả chữa lành bệnh tật.
Vào đầu thế kỷ 12, hai học giả Boirac và Liebeault nhận thấy rằng con người có một thứ năng lượng có thể tác động đến các cá nhân khác ở cách xa. Họ cho rằng nội sự hiện diện của một người cũng có thể có tác động lành mạnh hoặc không lành mạnh đến người khác. Vào thời Trung cổ, học giả Paracelsus gọi năng lượng này là Illiaster và cho rằng Illiaster được cấu thành từ cả lực sống và vật chất sống. Vào những năm 1800, nhà toán học Helmont mường tượng rằng có tồn tại một loại chất lưu phổ quát bao trùm khắp tự nhiên và không phải là một vật chất hữu hình hoặc có thể hóa đặc, mà là một thánh linh thuần khiết thâm nhập mọi cơ thể. Nhà toán học Leibnitz đã viết rằng các thành tố thiết yếu của vũ trụ là các trung tâm lực chứa đựng cội nguồn vận động của chính chúng.
Các đặc tính khác của hiện tượng năng lượng phổ quát được Helmont và Mesmer – người khởi sướng ra mesmerism (mê thuyết), tiền thân của thuật thôi miên – quan sát vào những năm 1800. Họ ghi nhận rằng các vật thể sống và vật thể vô tri có thể được nạp thứ “chất lưu” đó và các cơ thể vật chất có thể tác động lẫn nhau từ khoảng cách xa. Điều này đặt ra giả thuyết tồn tại một trường mà ở mặt nào đó tương tự với trường điện từ.
Khoảng giữa thế kỷ 18, Bá tước Wilhelm Von Reichenbach đã dành 30 năm để tiến hành thí nghiệm về trường hay lực odic theo cách gọi của ông lúc bấy giờ. Ông phát hiện ra rằng lực odic thể hiện nhiều đặc tính tương tự với trường điện từ mà James Clerk Maxwell mô tả vào đầu thế kỷ 19. Ông cũng nhận thấy lực odic có nhiều đặc tính riêng. Ông xác định rằng các cực của nam châm không chỉ thể hiện sự phân cực từ tính, mà còn thể hiện sự phân cực độc nhất liên kết với “trường odic” này. Các vật thể khác, chẳng hạn như pha lê, cũng thể hiện sự phân cực độc nhất này mặc dù bản thân chúng không có từ tính. Các cực của trường lực odic thể hiện các đặc tính chủ quan là “nóng, đỏ và khó chịu” hoặc “xanh da trời, lạnh và dễ chịu” đối với những người có khả năng quan sát nhạy. Hơn nữa, ông còn xác định rằng các cực đối lập không hút nhau như trong trường điện từ. Ông nhận thấy rằng với lực odic, các cực cùng dấu hút nhau – hay giống nhau thì hút nhau. Đây là một hiện tượng hào quang vô cùng quan trọng, như sau này chúng ta sẽ cùng tìm hiểu.
Von Reichenbach nghiên cứu mối quan hệ giữa bức xạ điện từ của mặt trời và độ cô đặc của trường odic có liên quan. Ông nhận thấy rằng độ cô đặc lớn nhất của năng lượng này nằm giữa vùng đỏ và vùng tím ngả xanh da trời của quang phổ. Von Reichenbach tuyên bố rằng các điện tích trái dấu tạo ra các cảm giác ấm và lạnh theo nhiều mức độ mạnh yếu mà ông có thể liên hệ với bảng tuần hoàn thông qua một loạt thí nghiệm mù. Mọi nguyên tố điện dương đều đem lại cảm giác chủ quan về trạng thái ấm nóng và gây khó chịu cho cơ thể; trong khi mọi nguyên tố điện âm lại tạo ra cảm giác mát lạnh và dễ chịu, với mức cường độ cảm giác tương ứng với vị trí của chúng trong bảng tuần hoàn. Các cảm giác biến đổi từ ấm nóng sang mát lạnh này tương ứng với phổ màu biến đổi từ đỏ sang chàm.
Von Reichenbach khám phá ra rằng trường odic có thể được dẫn truyền qua dây kim loại với tốc độ dẫn truyền rất chậm (xấp xỉ 4m/giây hay 13ft/giây) và tốc độ này dường như phụ thuộc vào khối lượng riêng hơn là vào tính dẫn điện của vật dẫn. Không những vậy, các vật thể có thể được nạp năng lượng này theo cách tương tự như khi nạp bằng điện trường. Các thí nghiệm khác chứng minh rằng một phần của trường này có thể được hội tụ lại bằng thấu kính giống như ánh sáng, trong khi một phần khác sẽ trôi bồng bềnh xung quanh thấu kính tương tự như ánh nến bập bùng xung quanh các vật thể được đặt trong phạm vi của nó. Phần đi chệch này của trường odic cũng có những phản ứng tương tự như của một ánh nến khi chịu tác động của các luồng khí. Điều đó đặt ra giả thuyết rằng thành phần cấu tạo của trường odic là tương tự với chất lưu thuộc thể khí. Các thí nghiệm này cho thấy trường hào quang có các đặc tính thể hiện rằng nó vừa là chất hạt trong tự nhiên giống như chất lưu vừa là năng lượng giống như sóng ánh sáng.
Von Reichenbach khám phá ra rằng lực trong cơ thể người tạo ra một cực tính tương tự như cực tính tồn tại trong các tinh thể pha lê dọc theo các trục chính của chúng. Dựa trên những bằng chứng thực nghiệm này, ông đã mô tả phía bên trái của cơ thể là cực âm còn phía bên phải cơ thể là cực dương. Đây là một quan niệm tương đồng với nguyên lý âm dương của người Trung Quốc cổ đại mà tôi đã đề cập bên trên.
Quan sát của các y bác sĩ thế kỷ 20
Từ những phần trước, chúng ta có thể thấy các nghiên cứu cho đến thế kỷ 20 đều được tiến hành để quan sát các đặc điểm khác nhau của một trường năng lượng bao quanh con người và các vật thể khác. Từ năm 1900, nhiều y bác sĩ cũng dần quan tâm đến hiện tượng này.
Năm 1911, tiến sĩ, bác sĩ William Kilner đã báo cáo trong các nghiên cứu của mình rằng trường năng lượng con người có thể được quan sát bằng màn chắn và kính lọc màu. Ông mô tả rằng có thể nhìn thấy màn sương rực rỡ bao quanh toàn bộ cơ thể tại ba vùng: a) một lớp sẫm màu gần sát bề mặt da dày ¼ inch (0,6cm), được bao bọc trong b) một lớp giống như hơi nước hơn, dày 1 inch (2,5cm), tuôn ra từ cơ thể theo hướng vuông góc và c) xa hơn chút là một lớp sáng mịn màng ở bên ngoài với đường bao quanh không rõ nét, dày khoảng 6 inch (15cm). Kilner nhận thấy rằng hình mạo của hào quang (như cách ông gọi nó) có sự thay đổi đáng kể giữa các đối tượng được quan sát, tùy thuộc vào độ tuổi, giới tính, năng lực trí tuệ và sức khỏe thể chất. Ở những người mắc một số chứng bệnh, trong hào quang của họ xuất hiện những đốm lớn hoặc bất thường. Dựa vào đó, Kilner phát triển một hệ thống chẩn đoán trên cơ sở màu sắc, kết cấu, thể tích và hình mạo tổng thể của lớp bao. Một số chứng bệnh được ông chẩn đoán theo phương pháp này là nhiễm trùng gan, u bướu, viêm ruột thừa, động kinh và các rối loạn tâm lý như chứng cuồng loạn.
Vào giữa thế kỷ 19, tiến sĩ George De La Warr đã cùng tiến sĩ Ruth Drown chế tạo các thiết bị mới để dò tìm bức xạ từ các mô sống. Ông đã phát triển Radionics, một hệ thống dò tìm, hỗ trợ chẩn đoán và chữa lành từ xa, tận dụng trường năng lượng sinh học của con người. Công trình ấn tượng nhất của ông là những bức ảnh được chụp bằng cách sử dụng tóc của bệnh nhân làm ăng-ten. Các bức ảnh này cho thấy cơ cấu bên trong của bệnh tật ở mô sống, chẳng hạn như u và nang trong gan, lao trong phổi và u não ác tính. Ông còn chụp được cả một bào thai ba tháng tuổi trong dạ con.
Tiến sĩ Wilhem Reich, một chuyên gia về tâm thần học và là bạn đồng sự của Freud hồi đầu thế kỷ 20, cũng bắt đầu quan tâm đến một loại năng lượng vũ trụ mà ông đặt tên là orgone. Ông nghiên cứu mối quan hệ giữa các nhiễu loạn của dòng chảy orgone trong cơ thể người với các chứng bệnh về thể chất và tâm lý. Reich đã phát triển một phương thức trị liệu tâm lý kết hợp các kỹ thuật phân tích của Freud nhằm hé lộ tiềm thức với các kỹ thuật vật lý nhằm giải tỏa những tắc nghẽn đối với dòng chảy tự nhiên của năng lượng orgone trong cơ thể. Bằng cách giải tỏa những tắc nghẽn năng lượng này, Reich có thể loại bỏ các trạng thái cảm xúc và tinh thần tiêu cực.
Trong giai đoạn từ thập niên 1930 đến thập niên 1950, Reich đã tiến hành thí nghiệm đối với các năng lượng này, sử dụng các thiết bị đo đạc y tế và các thiết bị điện tử tối tân nhất lúc bấy giờ. Ông quan sát được rằng năng lượng này rung động trên bầu trời và xung quanh mọi vật thể sống lẫn vật thể vô tri vô giác. Khi sử dụng kính hiển vi được thiết kế với độ phóng đại lớn đặc biệt, ông quan sát thấy rung động của năng lượng orgone phát ra từ những loài vi sinh vật.
Reich đã tạo ra nhiều dụng cụ thí nghiệm vật lý phục vụ cho nghiên cứu trường orgone. Một trong số đó là “ắc-quy” có khả năng cô đặc năng lượng orgone và ông sử dụng nó để nạp năng lượng này vào các vật thể. Ông quan sát thấy rằng sau khi được nạp một thời gian dài trong ắc-quy, ống phóng điện chân không sẽ dẫn được một dòng điện ở mức điện thế thấp hơn đáng kể so với thông thường. Hơn nữa, ông còn quả quyết rằng có thể tăng tốc độ phân rã hạt nhân của một đồng vị phóng xạ nếu đặt nó vào một ắc-quy orgone.
Trong thập niên 1930, tiến sĩ Lawrence Bendit và Phoebe Bendit đã tiến hành nhiều quan sát trên phạm vi rộng về trường năng lượng con người và liên hệ các trường này với vấn đề sức khỏe, chữa lành và phát triển tâm linh. Công trình nghiên cứu của họ nhấn mạnh tầm quan trọng của tri thức và hiểu biết về các lực tạo khuôn dĩ thái có sức mạnh lớn vốn là nền tảng của sức khỏe và sự chữa lành trong cơ thể.
Gần đây hơn, bác sĩ Schafca Karagulla đã đối chiếu những quan sát của các nhà ngoại cảm với các rối loạn thể chất. Ví dụ như một nhà thấu thị có tên là Dianne có khả năng nhìn thấy các khuôn mẫu năng lượng ở những người có bệnh và mô tả một cách rất chính xác những vấn đề về mặt y học – từ rối loạn thần kinh cho đến tắc ruột. Những quan sát về cơ thể dĩ thái này hé lộ rằng tồn tại một cơ thể hoặc trường năng lượng sống mà ở đó hình thành một ma trận thâm nhập cơ thể vật lý đậm đặc giống như một tấm mạng ánh sáng lóng lánh. Ma trận năng lượng này là khuôn mẫu cơ bản mà nhờ vào đó, vật chất tự nhiên của mô được định hình và neo lại. Các mô tồn tại chính là nhờ được trường sống này hậu thuẫn.
Bác sĩ Karagulla cũng đối chiếu rối loạn luân xa với bệnh tật. Ví dụ, nhà ngoại cảm Dianne mô tả luân xa ở cổ họng của một bệnh nhân là hoạt động quá tích cực, có màu đỏ và xám đục. Khi nhìn vào tuyến giáp, Diannne thấy kết cấu của nó quá xốp và mềm. Phần bên phải của tuyến giáp hoạt động không tốt bằng phần bên trái. Qua các kỹ thuật y khoa thông thường, bệnh nhân này được chẩn đoán là mắc bệnh Graves, chứng bệnh làm cho tuyến giáp to ra và thùy phải to hơn thùy trái.
Bác sĩ Dora Kunz, Chủ tịch Phân hội Thông thiên học Mỹ, đã nhiều năm làm công tác y học và chữa lành. Trong cuốn sách The Spiritual Aspects of the Healing Arts (tạm dịch: Khía cạnh tâm linh của nghệ thuật chữa lành) của mình, bà nhận định rằng: “Khi trường sống khỏe mạnh thì bên trong nó có một nhịp tự trị tự nhiên”, và “mỗi cơ quan trong cơ thể có nhịp năng lượng tương ứng của nó trong trường dĩ thái. Giữa phạm vi hoạt động của các cơ quan khác nhau, các nhịp khác nhau tương tác theo phương thức chuyển giao, khi cơ thể toàn vẹn và khỏe mạnh, các nhịp chuyển giao dễ dàng từ cơ quan này sang cơ quan khác. Tuy nhiên, khi cơ thể phát bệnh, các nhịp này cũng như các mức năng lượng đều bị biến đổi. Ví dụ, có thể quan sát được di chứng của phẫu thuật cắt ruột thừa trong trường. Do có những mô trước đó được ruột thừa điều chỉnh, thế nên hoạt động chuyển giao năng lượng của các mô liền sát nhau của cơ thể lúc này bị biến đổi. Trong vật lý, điều này được gọi là phối hợp trở kháng hoặc không phối hợp trở kháng. Mỗi mô liền kề đều ở trạng thái ‘phối hợp trở kháng’, tức là năng lượng có thể dễ dàng luân chuyển qua tất cả các mô. Phẫu thuật hoặc bệnh tật làm thay đổi tình trạng phối hợp trở kháng đến mức năng lượng bị tiêu hao phần nào thay vì được chuyển giao.”
Tiến sĩ John Pierrakos đã phát triển một hệ thống chẩn đoán và điều trị các rối loạn tâm lý dựa trên các quan sát trường năng lượng con người thu được bằng mắt thường và bằng con lắc. Thông tin từ các quan sát của ông về cơ thể năng lượng được kết hợp với các liệu pháp tâm lý tập trung vào cơ thể được phát triển trong ngành năng lượng sinh học cũng như với khung khái niệm do Eva Pierrakos phát triển. Phương thức này, được gọi là năng lượng bản thể, là một phương thức hợp nhất của việc chữa lành bên trong, từng bước tập trung xử lý các hệ thống phòng vệ của bản ngã và nhân cách nhằm khai thông năng lượng của cơ thể. Năng lượng bản thể hướng đến việc cân bằng tất cả các cơ thể (vật lý, dĩ thái, cảm xúc, tâm trí và tâm linh) để tạo ra sự chữa lành hài hòa tổng thể cho đối tượng được điều trị.
Từ các công trình nói trên và các công trình khác, tôi đúc rút ra rằng ánh sáng phát ra từ cơ thể con người có mối liên hệ mật thiết đến sức khỏe. Theo tôi, một điều rất quan trọng là phải tìm ra được phương thức định lượng thứ ánh sáng phát ra này bằng thiết bị đo đạc ánh sáng chuẩn hóa, đáng tin cậy, từ đó dễ dàng cung cấp thông tin này cho các chuyên gia y tế để chẩn đoán lâm sàng cũng như ứng dụng chính loại năng lượng này vào việc điều trị.
Tôi và các đồng sự đã tiến hành vô số thí nghiệm đo trường năng lượng con người. Trong một thí nghiệm, tiến sĩ Richard Dobrin, tiến sĩ John Pierrakos và tôi đã đo được mức ánh sáng ở bước sáng khoảng 350 nanômét1 trong buồng tối trước, trong và sau khi các đối tượng tham gia thí nghiệm ở đó. Các kết quả cho thấy mức ánh sáng trong buồng tối tăng nhẹ khi có người. Trong một trường hợp, mức ánh sáng thực sự giảm; đó là khi có một đối tượng nom hết sức mệt mỏi và chán chường ở trong buồng tối. Trong một thí nghiệm khác được tiến hành cùng Hội Tâm linh học Liên hợp quốc, chúng tôi đã có thể thể hiện một phần của trường hào quang trên màn ảnh vô tuyến đen trắng nhờ sử dụng một thiết bị được gọi là máy hiệu chỉnh màu. Thiết bị này có khả năng khuếch đại mạnh mẽ những thay đổi trong cường độ ánh sáng ở gần cơ thể. Trong một thí nghiệm khác được tiến hành tại trường Đại học Drexel, cùng với tiến sĩ William Eidson và Karen Gestla (một nhà ngoại cảm từng hợp tác nhiều năm với tiến sĩ Rhine tại trường Đại học Duke), chúng tôi đã tác động thành công, bẻ cong hoặc làm tắt dần, một chùm nhỏ tia laser 2 milioát bằng năng lượng hào quang. Toàn bộ các thí nghiệm này củng cố vững chắc bằng chứng về sự tồn tại của các trường năng lượng nhưng vẫn chưa được hợp thức hóa. Các kết quả được phát sóng khắp nước Mỹ trên Đài truyền hình NBC, nhưng việc nghiên cứu không được tiếp tục tiến hành do thiếu vốn.
1 1 nanômét (viết tắt là nm) là một khoảng cách bằng một phần tỉ mét. (ND)
Tại Nhật Bản, Hiroshi Motoyama đã có thể đo các mức ánh sáng yếu phát ra từ những người thực hành yoga lâu năm. Ông thực hiện thí nghiệm này trong buồng tối, sử dụng một máy quay phim có thể hoạt động ở mức ánh sáng yếu.
Bác sĩ Zheng Rongliang thuộc trường Đại học Lanzhou, Trung Quốc, đã đo năng lượng (gọi là “khí”) phát ra từ cơ thể người bằng cách sử dụng một máy dò sinh học được tạo thành từ một gân lá nối liền với một thiết bị quang lượng tử (thiết bị đo ánh sáng yếu). Ông nghiên cứu trường năng lượng phát ra từ một nhà thấu thị và một bậc thầy khí công (khí công là một hình thức rèn luyện sức khỏe cổ xưa của người Trung Quốc). Kết quả nghiên cứu của ông cho thấy hệ thống dò phản hồi lại bức xạ dưới dạng xung. Xung phát ra từ bàn tay của bậc thầy khí công khác hẳn xung của nhà thấu thị.
Tại Viện Hạt nhân nguyên tử Thượng Hải của Viện Hàn lâm Sinica, người ta thấy rằng một số lực sống phát ra từ các bậc thầy khí công dường như có một sóng âm với tần số rất thấp xuất hiện dưới dạng một sóng tải dao động với tần số thấp. Trong một số trường hợp, khí cũng được dò thấy dưới dạng một dòng vi hạt. Các hạt này có đường kính khoảng 60 micrômét1 và có vận tốc khoảng 20 ‒ 50cm/giây (hay 8 ‒ 20 inch/giây).
1 1 micrômét (viết tắt là µm) là một khoảng cách bằng một phần triệu mét. (ND)
Vài năm trước, một nhóm nhà khoa học người Liên Xô thuộc Viện Thông tin Sinh học A.S. Popov công bố phát hiện các sinh vật phát ra những dao động năng lượng có tần số trong khoảng 300 đến 2.000 nanômét2. Họ gọi năng lượng này là trường sinh học, hoặc bioplasma. Họ nhận thấy rằng những người có khả năng chuyển giao năng lượng sinh học thì có trường sinh học mạnh hơn và rộng hơn hẳn. Những phát hiện này đã được Viện Hàn lâm Y học tại Moscow phê chuẩn cũng như được xác nhận nhờ những nghiên cứu tại Vương quốc Anh, Hà Lan, Đức và Ba Lan.
2 Tại thời điểm cuốn sách này lần đầu được xuất bản (1987), Liên Xô vẫn chưa tan rã. (ND)
Nghiên cứu lý thú nhất về hào quang con người mà tôi từng được đọc là của tiến sĩ Valorie Hunt và các nhà khoa học khác tại Đại học California, Los Angeles. Trong một nghiên cứu về tác động của phương pháp rolfing3 đối với cơ thể và tinh thần (“một nghiên cứu về trường năng lượng thuộc cấu trúc thần kinh cơ và các phương pháp tiếp cận về mặt cảm xúc”), bà đã ghi lại được tần số của các tín hiệu milivôn thấp từ cơ thể người trong một loạt buổi điều trị bằng phương pháp rolfing. Để ghi lại các tín hiệu này, bà đã đặt lên bề mặt da các điện cực cơ bản bằng bạc/clorua bạc. Cũng trong khoảng thời gian này, cùng với việc ghi lại các tín hiệu điện tử, Đức Rosalyn Bruyere thuộc Trung tâm Chữa lành Ánh sáng, Glendale, California, đã quan sát thấy các hào quang của cả người thao tác phương pháp rolfing lẫn người được điều trị. Các nhận xét của bà được ghi lại trong cùng cuộn băng ghi dữ liệu điện tử. Trong đó, bà liên tục báo cáo về màu sắc, kích thước và những chuyển động năng lượng của các luân xa và đám mây hào quang có liên quan.
3 Một phương pháp massage nhằm tác động sâu vào mô liên kết của cơ cũng như các cơ quan nội tạng, giúp giải tỏa căng thẳng tinh thần và tình trạng căng cứng trong cơ thể, cải thiện tư thế, tăng cường sinh lực, v.v.. (ND)
Sau này, các mô hình sóng này được các nhà khoa học phân tích về mặt toán học bằng phương pháp giải tích Furier và giải tích tần số siêu âm. Cả hai đều thu được kết quả đáng chú ý. Các hình thái sóng và tần số nhất quán có mối tương quan rõ rệt với những màu sắc mà Đức Bruyere đã báo cáo. Nói cách khác, khi Đức Bruyere quan sát thấy màu xanh da trời trong hào quang ở bất cứ vị trí cụ thể nào thì các số đo điện tử bao giờ cũng cho thấy hình thái sóng màu xanh da trời và tần số đặc trưng ở cùng những vị trí đó. Bác sĩ Hunt lặp lại thí nghiệm này với bảy người đọc hào quang khác. Họ nhìn thấy màu sắc hào quang tương quan với cùng mô hình tần số/sóng. Các kết quả của công trình nghiên cứu được tiếp tục tiến hành vào tháng 2 năm 1988 cho thấy những tương quan về màu sắc/tần số sau đây (Hz = Hertz, hay chu kỳ mỗi giây):
Xanh da trời | 250 ‒ 275Hz, cộng thêm 1.200Hz |
Xanh lá | 250 ‒ 475Hz |
Vàng | 500 ‒ 700Hz |
Cam | 950 ‒ 1.050Hz |
Đỏ | 1.000 ‒ 1.200Hz |
Tím | 1.000 ‒ 2.000Hz, cộng thêm 300 ‒ 400; 600 ‒ 800Hz |
Trắng | 1.100 ‒ 2.000Hz |
Ngoại trừ các dải thêm tại xanh da trời và tím, các dải tần số sắp xếp theo trật tự ngược lại với trật tự màu cầu vồng. Các tần số đo được này là một dấu hiệu đặc trưng của thiết bị đo cũng như năng lượng được đo.
Bác sĩ Hunt nói rằng: “Qua hàng thế kỷ được các nhà ngoại cảm quan sát và mô tả, đây là bằng chứng điện tử khách quan đầu tiên về tần số, biên độ và thời gian xác nhận các quan sát chủ quan của họ về hiện tượng tỏa màu sắc.”
Tuy các tần số màu sắc được tìm thấy ở đây không giống hệt tần số của ánh sáng và sắc tố, nhưng điều đó không làm phát hiện này mất đi giá trị. Nếu chúng ta hiểu rõ rằng cái chúng ta nhìn thấy dưới dạng màu sắc thực chất là những tần số được mắt người thu nhận, được phân biệt và định cho một ký hiệu ngôn ngữ, thì rõ ràng là không có gì khẳng định được rằng các trung tâm xử lý của mắt và não chỉ diễn giải màu sắc ở tần số cao. Tiêu chuẩn sau cùng cho trải nghiệm màu sắc này là sự diễn giải về mặt thị giác. Tuy nhiên, nhờ các thiết bị tinh vi hơn cũng như các kỹ thuật ghi và xử lý số liệu ngày càng được cải tiến, những số liệu này (hiện nay căn bản đã lên đến 1.500Hz), có thể sẽ nhanh chóng bao gồm các tần số cao hơn nhiều.
Bác sĩ Hunt cũng khẳng định rằng “các luân xa thường mang những màu sắc đã được quy định trong các tài liệu siêu hình học, đó là đỏ – hỏa xà (kundalini), cam – hạ vị, vàng – tỳ, lục – tâm, lam – cổ họng, tím – con mắt thứ ba, trắng – đỉnh đầu. Hoạt động tại một vài luân xa dường như làm giảm hoạt động tại một số luân xa khác. Luân xa tim luôn là luân xa hoạt động tích cực nhất. Các đối tượng tham gia thí nghiệm có nhiều trải nghiệm, hình ảnh và hồi ức về mặt cảm xúc liên kết với các vùng khác nhau được tác động bằng phương pháp rolfing. Những phát hiện này củng cố niềm tin rằng các ký ức về trải nghiệm được lưu trữ trong các mô của cơ thể.”
Lấy ví dụ, trong một phiên điều trị bằng phương pháp rolfing, khi một người được tác động vào hai chân, anh ta có thể hồi tưởng lại rõ ràng những trải nghiệm ấu thơ về chuyện được dạy tự đi vệ sinh. Anh ta sẽ không chỉ nhớ lại trải nghiệm đó, mà còn hồi tưởng những cảm xúc theo kèm. Rất nhiều khi, các bậc phụ huynh cố gắng dạy trẻ tự đi vệ sinh trước khi cơ thể đứa trẻ tạo ra được những liên kết giữa cơ và não bộ nhằm thực sự kiểm soát được cơ vòng, vốn có vai trò điều hòa sự bài tiết. Bởi lẽ về mặt sinh lý, đứa trẻ không thể kiểm soát cơ vòng, thế nên nó sẽ phải bù lại bằng cách siết chặt cơ đùi. Điều này khiến cơ thể bị căng và mất nhiều sức. Nhiều khi, cơ thể duy trì trạng thái căng này một cách thường xuyên trong suốt cuộc đời, hoặc đến khi được thao tác trên cơ thể, chẳng hạn như bằng phương pháp rolfing hoặc năng lượng sinh học. Bấy giờ, khi tình trạng căng cơ được giải tỏa thì ký ức cũng được giải tỏa theo. Một ví dụ khác về việc lưu giữ tình trạng căng cơ kèm ký ức là hội chứng căng cứng vai mà rất nhiều người gặp phải. Đó là do lưu giữ sự sợ hãi hoặc lo lắng ở vai. Bạn có thể tự hỏi bản thân, điều gì khiến bạn lo sợ rằng mình sẽ không đủ khả năng thực hiện, hoặc bạn nghĩ điều gì sẽ xảy ra nếu bạn không thành công?
Kết luận
Nếu định nghĩa trường năng lượng con người là toàn bộ những trường hoặc hào quang phát ra từ cơ thể người, thì có thể thấy rằng nhiều thành phần được biết đến của trường năng lượng con người đã được đo trong phòng thí nghiệm. Đó là những thành phần tĩnh điện, từ tính, điện từ, âm thanh, nhiệt và thị giác của trường năng lượng con người. Tất cả những số liệu đo này phù hợp với các quá trình sinh lý bình thường của cơ thể, thậm chí còn vượt ra ngoài các quá trình này và cung cấp phương tiện để tìm hiểu chức năng tâm thể.
Các số liệu đo của bác sĩ Hunt cho thấy những tần số xác định của các màu thuộc hào quang. Những tần số này có thể có âm sắc cao hơn mà chúng ta không ghi nhận được do hạn chế của dụng cụ thí nghiệm.
Những số liệu đo kể trên cũng cho thấy trường năng lượng con người tham gia quá trình vận hành của tự nhiên và có chuyển động giống với chuyển động của chất lưu, kiểu như không khí hoặc dòng nước. Những hạt này rất bé, thậm chí một số nhà nghiên cứu xem chúng là hạ nguyên tử. Khi mang điện tích, các hạt nhỏ xíu này chuyển động đồng thời trong những đám mây mà các nhà vật lý thường gọi là plasma. Do các plasma tuân theo một số định luật vật lý nhất định, thế nên các nhà vật lý xem chúng là một trạng thái giữa năng lượng và vật chất. Nhiều thuộc tính của trường năng lượng con người đo được trong phòng thí nghiệm đặt ra giả thuyết tồn tại một trạng thái thứ năm của vật chất mà một số nhà khoa học gọi là “bioplasma”.
Những nghiên cứu này cho thấy rằng mô hình thông thường của cơ thể gồm các hệ thống (chẳng hạn như hệ tiêu hóa) là không đầy đủ. Chúng ta cần phát triển một mô hình bổ sung dựa trên khái niệm trường năng lượng có tổ chức. Mô hình của một trường điện từ phức tạp (electromagnetic field – EMF) không đáp ứng được hoàn toàn mục đích này. Nhiều hiện tượng tâm linh gắn liền với trường năng lượng con người, như tiên tri hoặc lĩnh hội được thông tin về tiền kiếp, không thể được lý giải bằng mô hình trường điện từ.
Theo tiến sĩ Valorie Hunt, cơ thể có thể được “xem xét theo một quan niệm lượng tử là năng lượng phát xuất từ bản chất tế bào nguyên tử của cơ thể chức năng, đi qua mọi mô và mọi cơ quan nội tạng”. Bà đề xuất rằng quan điểm toàn ảnh về trường năng lượng con người là một quan điểm thích hợp. “Sự xuất hiện của khái niệm toàn ảnh trong vật lý và các nghiên cứu não bộ xem ra đã cung cấp một cái nhìn thống nhất thật sự về thực tại, điều này đòi hỏi chúng ta phải diễn giải lại mọi phát kiến sinh học trên một bình diện khác.”
Trong Brain Mind Bulletin (tạm dịch: Tập san Tâm trí não bộ), Marilyn Ferguson bày tỏ rằng: “Mô hình toàn thể đã được mô tả là ‘hình mẫu mới mẻ’, một lý thuyết tổng thể sẽ nắm bắt được toàn bộ thế giới hữu sinh của khoa học và tâm linh. Cuối cùng chúng ta cũng có một lý thuyết kết hợp nhuần nhuyễn sinh vật học với vật lý học trong một hệ thống mở.”
Điểm lại Chương 5
1. Trường năng lượng con người đã được đo như thế nào?
2. Lần đầu con người biết đến hiện tượng hào quang là khi nào?
3. Hào quang lần đầu được quan sát vào thời điểm nào của thế kỷ 19 và do ai?
4. Hiện tượng trường năng lượng con người vượt ngoài những hiểu biết của khoa học ngày nay như thế nào?
5. Từ quan điểm của khoa học lý thuyết và thực nghiệm ngày nay, mô hình nào thích hợp để giải thích hiện tượng trường năng lượng con người?