Con người thường nghĩ rằng y đang nắm quyền kiểm soát khi thực tế thì y đang bị kiểm soát, và trong khi tâm trí y đang muốn đi theo một hướng thì y lại không nhận ra con tim đang lôi y đi theo hướng khác.
—La Rochefoucauld
Nguồn gốc của những ham muốn của chúng ta là gì? Hãy nghĩ lại về cậu sinh viên được nói đến ở chương trước. Cậu muốn ăn bánh rán, và đồng thời cậu mong mình đừng ham muốn chúng. Vì những ham muốn của một người có thể xung đột với nhau nên có lý do để tin rằng chúng ta có nhiều nguồn ham muốn trong mình và chúng có thể bất đồng về mức độ thích đáng.
Vậy suối nguồn của ham muốn này là gì? Điều này rất khó để trình bày nhưng hãy để tôi đưa ra một lý thuyết về sự hình thành ham muốn, dựa trên những tác phẩm của triết gia David Hume. Lý thuyết được đề cập ở đây khá cơ bản, và các triết gia đồng nghiệp của tôi chắc chắn sẽ đặt ra nghi vấn với nó. (Quả thật, hoàn toàn có khả năng rằng ngay cả Hume cũng sẽ thấy lý thuyết này chưa trọn vẹn). Tuy nhiên, lý thuyết mà tôi sắp mô tả xứng đáng để chúng ta chú ý vì một số lý do: nó rất dễ hiểu và có thể giải thích được phần nhiều, dù không phải là tất cả, về cách mà chúng ta hình thành ham muốn.
Một trong số những nguồn đó là những cảm xúc của chúng ta – Hume gọi chúng là những đam mê. Tôi cũng đã đề cập tới nguồn gốc của những ham muốn cuối cùng khoái lạc của chúng ta – ham muốn được cảm thấy tốt và tránh cảm giác tồi tệ. (Một lần nữa, tôi đang dùng cụm từ “cảm thấy tốt” và “cảm thấy tệ” theo nghĩa rộng, để bao gồm không chỉ khoái lạc và đau đớn thể xác mà còn là những niềm vui tinh thần như cảm giác vui vẻ hoặc sự khó chịu tinh thần như cảm giác lo âu hay bị bẽ mặt). Những thứ mà cảm thấy tốt thì vốn đã là điều đáng khao khát; bằng không thì chúng ta sẽ không mô tả chúng là cảm thấy tốt. Tương tự, những thứ mà cảm thấy tệ thì vốn chẳng ai mong đợi. Điều này có nghĩa là khi được hỏi tại sao họ muốn thứ mà họ muốn thì cảm xúc luôn có một câu trả lời: “Nó đáng khao khát vì ta cảm thấy tốt.” hoặc “Nó không đáng khao khát vì ta cảm thấy tệ.” Điều này cũng có nghĩa là những ham muốn được hình thành bởi cảm xúc sẽ là những ham muốn cuối cùng: cảm xúc muốn cảm thấy tốt vì chính cảm giác cảm thấy tốt, chứ không phải để chúng có thể thỏa mãn những ham muốn khác.
Dù chúng là chuyên gia trong việc hình thành những ham muốn cuối cùng, cảm xúc khá ngốc nghếch khi nói đến việc hình thành những ham muốn phương tiện, mà sự thỏa mãn ham muốn phương tiện sẽ cho phép chúng ta thỏa mãn ham muốn cuối cùng. May cho chúng ta, tồn tại trong ta là một nguồn gốc thứ hai của ham muốn: trí tuệ của ta (Hume gọi nó là lý trí). Trí tuệ rất giỏi trong việc hình thành ham muốn phương tiện. Đây là điều đã xảy ra khi cậu sinh viên được nói đến ở chương trước được thông báo rằng cậu cần tham gia lớp logic của tôi để được tốt nghiệp. Cậu nhanh chóng hình thành một ham muốn phương tiện để dự lớp học của tôi. Nó là một ham muốn mà trí tuệ của cậu ta chẳng gặp khó khăn gì để biện minh. Tại sao cậu ta lại muốn học lớp logic của tôi? Vì cậu muốn tốt nghiệp.
Giờ hãy xét đến cơn thèm bánh rán bất chợt của cậu sinh viên kia. Theo lý thuyết về sự hình thành ham muốn của tôi thì một việc gì đó giống như thế này đã xảy ra. Cảm xúc của cậu sinh viên đã hình thành nên một ham muốn cuối cùng khoái lạc là muốn có trải nghiệm cảm giác ngon miệng khi ăn món gì đó ngọt và béo ngậy. Trí tuệ của cậu không chỉ đồng tình với tính đáng khao khát của chuyện này mà còn nhanh chóng chỉ ra rằng bánh rán đang có sẵn ở dưới bếp; quả thực, trí tuệ phản ứng lại cảm xúc nhanh lẹ tới nỗi tưởng chừng như hai ham muốn mà tôi vừa mô tả là một. Tuy nhiên, những ham muốn ấy rõ ràng là tách biệt nhau. Nếu cảm xúc không hình thành nên một ham muốn trải nghiệm lạc thú thì chưa chắc trí tuệ của cậu sinh viên sẽ hình thành một ham muốn vào bếp và ăn bánh. (Nên nhớ là cậu sinh viên vừa mới ăn trưa xong và đang nằm nghỉ thì cơn thèm ăn bánh rán ập đến, do đó cậu ấy không có lý do gì để ăn bánh rán). Tương tự vậy, nếu trí tuệ của cậu sinh viên không biết rằng ở dưới bếp có bánh rán thì chưa chắc ham muốn khoái lạc đối với chiếc rán được kích hoạt trong cậu.
Những độc giả còn nghi ngờ về câu chuyện làm thế nào mà cậu sinh viên lại đi đến mong muốn ăn bánh rán thì hãy chú ý hơn đến những ham muốn của mình. Lần tới, khi bạn đột nhiên nảy sinh cảm giác ham muốn nào đó, hãy nghĩ về những chuyện vừa xảy ra. Bạn sẽ nhận thấy sự hiện diện của một điều gì đó bên trong cứ chốc chốc lại dụ dỗ bạn, bằng một tiếng thì thầm nhỏ, về những khả năng có được khoái lạc: “Chẳng phải bây giờ mà làm tình thì sẽ rất sướng hay sao? Chẳng phải say rượu thì rất khoái hay sao?” Đôi lúc, bạn làm theo những gợi ý đó. Những lần khác thì bạn gạt đi lời gợi ý hoặc bạn hành động theo nó, mặc dù ở mức độ nào đó bạn không muốn như vậy. Những gì bạn chứng kiến trong hai trường hợp đó là trận chiến giữa những cảm xúc của bạn – mà tôi cho là nguồn gốc của những lời gợi ý thầm thì này – và trí tuệ của bạn. Kết quả là trí tuệ thường chịu thua trong những trận chiến này, trừ khi bạn là một con người phi thường.
Tuy sở trường của trí tuệ là hình thành những ham muốn phương tiện nhưng nó cũng có thể hình thành những ham muốn cuối cùng. Tôi cho rằng trí tuệ của tôi là nguồn cơn của ham muốn cuối cùng phi khoái lạc như là ham muốn tặc lưỡi. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng trí tuệ của tôi sẽ gặp khó khăn trong việc biện minh cho những ham muốn cuối cùng mà nó hình thành. Cụ thể là, nó không thể bảo rằng nó tạo ra ham muốn tặc lưỡi vì làm vậy sẽ cảm thấy tốt. Trí tuệ của tôi sẽ không thể nghĩ ra bất cứ điều gì sâu sắc để qua đó biện minh cho ham muốn tặc lưỡi của tôi, ngoài một câu yếu ớt: “Tôi chỉ muốn làm vậy thôi.” Quả thực, trí tuệ của tôi có thể dễ dàng hình thành ham muốn ngược lại – khiến tôi ngậm miệng lại/dừng tặc lưỡi và nó biết điều đó. Bởi lý do này mà những ham muốn cuối cùng phi khoái lạc có xu hướng là những thứ nhạt nhòa, mong manh. Trái lại, những ham muốn được hình thành bởi cảm xúc có động lực thúc đẩy rất mạnh. (Từ cảm xúc và động lực bắt nguồn từ tiếng Latin – movere, nghĩa là “chuyển động”). Nếu không thỏa mãn được những ham muốn này thì ta sẽ phải trả một cái giá: cảm thấy tệ hoặc bỏ qua cơ hội để được cảm thấy tốt. Do đó, chúng ta thường thấy thôi thúc phải thỏa mãn những ham muốn được hình thành bởi cảm xúc của chúng ta.
Sau đó, những chuỗi ham muốn được hình thành nhờ sự hợp tác của cảm xúc và trí tuệ. Chúng phân chia công việc hình thành ham muốn, cảm xúc thì chuyên về hình thành những ham muốn cuối cùng, còn trí tuệ thì chuyên về hình thành những ham muốn phương tiện; và khi hình thành ham muốn cuối cùng, cảm xúc quan tâm đến cảm giác tốt và tránh cảm giác tồi tệ. Một điều gì tương tự như vậy có thể tìm thấy ở Hume, người nói với chúng ta rằng: “Chính từ viễn cảnh về đau khổ hay lạc thú mà khởi lên lòng ghét bỏ hay ưa thích đối với bất kỳ đối tượng nào. Và những cảm xúc ấy mở rộng ra đến mối quan hệ nhân quả của đối tượng đó, khi chúng được chỉ ra cho chúng ta bằng lý trí và kinh nghiệm.”1
1. Hume, Luận thuyết, quyển 2, phần 3, đoạn 3.
Trí tuệ và cảm xúc của tôi thường hoạt động song hành với nhau. Nhìn chung, khi cảm xúc của tôi hình thành một ham muốn cuối cùng như muốn chấm dứt cơn đói thì trí tuệ sẽ nhanh chóng tạo ra một ham muốn phương tiện là đi ăn trưa để thỏa mãn điều đó. Và khi trí tuệ của tôi đã hình thành ham muốn phương tiện này, cảm xúc thường sẽ tán thành điều đó. Vì thế, tôi sẽ cảm thấy khá thất vọng (thất vọng là một trạng thái cảm xúc) nếu có chuyện gì đó hay ai đó cản trở nỗ lực của tôi nhằm thỏa mãn ham muốn phương tiện mà tôi đã tạo ra.
Trong những trường hợp khác, cảm xúc tạo ra một ham muốn cuối cùng nhờ những gợi ý của trí tuệ. Cảm xúc của tôi không cần trí tuệ trợ giúp để nhận ra cơn đói bụng mang lại cảm giác tồi tệ và hệ quả là hình thành một ham muốn chấm dứt cơn đói. Nhưng giả sử có người lại gần tôi và nói gì đó, cảm xúc của tôi sẽ bình lặng cho đến khi trí tuệ chỉ ra rằng những lời nói mà người này thốt ra ở đây được xem như một lời nhục mạ. Ngay sau đó, tôi sẽ trải qua một cảm giác bị sỉ nhục đau đớn, theo sau là cơn giận dữ, với các cảm xúc là nguồn cơn của cả hai cảm giác đó. Lưu ý rằng nếu những lời tương tự đó hay thậm chí là một lời xúc phạm tệ hại được chuyển tải bằng một thứ ngôn ngữ mà trí tuệ của tôi không hiểu được, thì những cảm xúc sẽ không được khơi dậy.
Sự hợp tác giữa cảm xúc và trí tuệ, dù khá nhiều, nhưng lại không hoàn hảo. Như chúng ta thấy, chúng đôi lúc bất đồng với nhau về tính đáng khao khát của mọi việc. Mối quan hệ giữa trí tuệ và cảm xúc có thể được xem là một liên minh miễn cưỡng. Để hiểu rõ mối quan hệ này, sẽ hữu ích khi nghĩ về việc các đạo luật được đưa ra như thế nào trong một cơ quan lập pháp lưỡng viện. Các đạo luật bắt nguồn từ một nghị viện có thể sau đó được nghị viện kia chấp thuận hoặc không. Tương tự thế, cảm xúc có thể ủng hộ hoặc từ chối những ham muốn do trí tuệ tạo ra, và ngược lại.
Hãy xem xét những trường hợp đầu tiên khi trí tuệ của tôi muốn điều gì đó, nhưng cảm xúc lại phản đối. Ví dụ, trí tuệ của tôi có thể muốn đi dọc đất nước bằng máy bay vì đó là cách di chuyển an toàn và tiện lợi nhất. Nhưng nếu tôi sợ đi máy bay thì cảm xúc sẽ phản đối, và nếu chúng phản đối một cách kịch liệt thì tôi sẽ thấy mình không tài nào đặt chân lên máy bay.
Bởi vì cảm xúc của tôi có thể bác bỏ chúng nên những ham muốn cuối cùng mà trí tuệ tạo ra và hành động theo có xu hướng kém quan trọng. Ví dụ, cảm xúc của tôi sẽ khoanh tay đứng nhìn và để cho trí tuệ hình thành và hành động theo ham muốn tặc lưỡi. Nhưng chúng sẽ không đứng yên nếu trí tuệ của tôi tạo ra một ham muốn làm thủng lưỡi bằng một cái đinh bấm (vì làm vậy sẽ khiến tôi bị đau) hoặc ham muốn nói lời kích động gã đàn ông cơ bắp cuồn cuộn, dáng vẻ hung tợn đang cưỡi xe mô tô (vì làm thế có lẽ sẽ khiến tôi bị đau đớn nhiều hơn).
Có một thí nghiệm đơn giản bạn có thể làm nếu muốn chứng kiến sức mạnh phủ quyết do cảm xúc của bạn nắm giữ là hãy nín thở. Trong những tình huống này, ham muốn nín thở của bạn là một ham muốn cuối cùng phi khoái lạc do trí tuệ tạo ra. Lúc đầu, cảm xúc của bạn sẽ đứng yên và để bạn hành động theo mong muốn này. Nhưng sau 30 giây, chúng sẽ bắt đầu phản đối, và sau một phút nữa, chúng sẽ quát tháo bạn để chấm dứt cảm giác nóng rát mà bạn cảm nhận trong phổi. Chẳng bao lâu sau, cảm xúc của bạn sẽ chiến thắng, còn trí tuệ sẽ đầu hàng, và bạn sẽ thở trở lại.
Trong những trường hợp khác, dù cảm xúc không bác bỏ một ham muốn do trí tuệ hình thành thì chúng cũng không giúp đỡ và do đó ngầm phá hoại nó. Về mặt lý trí, chúng ta biết những việc mình cần làm với cuộc đời của ta, và theo đó mà ta đặt ra các mục tiêu như đi mười dặm mỗi tuần, mỗi ngày viết được một trang, học chơi đàn banjo, chấm dứt một mối quan hệ khiến ta đau khổ. Nhưng trừ khi cảm xúc của ta hợp tác, trừ khi chúng cam kết với các mục tiêu do trí tuệ của ta đề ra, bằng không chúng ta chưa chắc sẽ đạt được những mục tiêu này – con tim ta không đặt vào đó và một khối óc hoạt động mà thiếu sự hỗ trợ của con tim thì thật bất lực. Và xin lưu ý rằng trí tuệ không thể ra lệnh cho cảm xúc. Cam kết cảm xúc có một đời sống của riêng nó: hoặc là có, hoặc là không. Ở các chương trước, tôi cho rằng chúng ta có xu hướng ít quyền kiểm soát nhất đối với những ham muốn có tác động lớn nhất đến cuộc đời của chúng ta. Chúng ta có thể chọn loại ngũ cốc cho bữa sáng, nhưng không thể chọn được chuyện yêu hay không, và yêu ai. Điều này là do cảm xúc của chúng ta khá thờ ơ trước thực đơn bữa ăn sáng của mình nhưng lại rất quan tâm đến việc chúng ta có quan hệ tình dục hay không và với ai. (Và ngay cả khi đưa ra một quyết định vặt vãnh như ăn ngũ cốc loại gì cho bữa sáng thì cảm xúc của ta cũng tham gia vào. Loại ngũ cốc mà tôi chọn sẽ được quyết định, ở một mức độ đáng kể, bởi những thứ mà tôi không có quyền kiểm soát, chẳng hạn như hứng thú của tôi. Tôi không chọn việc có hứng thú với ngũ cốc, tôi cũng không chọn việc yêu thích một thương hiệu ngũ cốc nào đó, tôi chỉ đơn giản là thích thôi).
Như vậy cảm xúc có thể phủ quyết những ham muốn do trí tuệ tạo ra. Tương tự thế, liệu trí tuệ cũng có quyền lực phủ quyết đối với những ham muốn do cảm xúc tạo ra hay không? Thường thì không – hãy nghĩ về ai đó đang hành động trong cơn nóng giận mù quáng. Nhưng đôi lúc nếu ý chí của ta đủ mạnh thì trí tuệ của ta có thể gạt bỏ những ham muốn do cảm xúc tạo ra đó. Chiến lược tốt nhất của trí tuệ để đối phó với cảm xúc là dùng cảm xúc để đấu với cảm xúc. Chẳng hạn, trí tuệ có thể chỉ ra những gì mà cảm xúc mong muốn trên thực tế lại mang đến cảm giác tồi tệ, rằng thứ mà chúng muốn có thể bây giờ thì cảm thấy tốt nhưng sau này lại cảm thấy tệ; hoặc mặc dù điều chúng muốn có thể cảm thấy tốt, nhưng điều khác sẽ còn tốt hơn. Trí tuệ cũng có thể giúp sắp xếp những cảm xúc mâu thuẫn nhau và quyết định nên hay không nên hành động theo cảm xúc nào. Cảm xúc rất sẵn sàng lắng nghe trí tuệ chừng nào trí tuệ không tìm cách áp đặt quan điểm của nó mà chỉ đơn thuần cố giúp cảm xúc có được thứ mà chúng muốn. Trí tuệ cũng có thể dùng cảm xúc không chỉ để đấu với cảm xúc mà còn khuấy động chúng. Ví dụ, nhà nghiên cứu về trí tuệ nhân tạo Marvin Minsky mô tả một tình huống mà ông gặp khó khăn với việc tập trung vào bài nghiên cứu của ông. Để giữ cho mình tập trung, ông hình dung có một nhà nghiên cứu cạnh tranh với ông đang sắp giải quyết xong vấn đề mà Minsky đang cố xử lý. Cách làm này có hiệu quả – Minsky giữ được sự tập trung ngay cả khi trí tuệ của ông biết rằng nhà nghiên cứu kia chưa chắc đã giải quyết được vấn đề, vì ông ta chưa từng tỏ ra hứng thú với nó.1 Vì vậy, dù trí tuệ không thể ra lệnh cho cảm xúc cam kết với một trong các dự án của nó, nhưng nó có thể đánh lừa để cảm xúc tham dự vào.
1. Minsky, 42.
Trí tuệ có sức mạnh lớn nhất lên cảm xúc khi nó chịu trách nhiệm cho việc kích hoạt một cảm xúc nào đó. Hãy xét lại trường hợp mà trí tuệ của tôi thông báo cho cảm xúc biết rằng tôi vừa bị người ta sỉ nhục, và sau đó tôi sẽ nổi giận. Vì trí tuệ đóng một vai trò then chốt trong việc hình thành ham muốn nên nó giữ được khả năng dập tắt nó. Ví dụ, giả sử tôi nghe thấy ai đó nói rằng: “Irvine là một nhà triết học tồi.” Tôi có thể cảm thấy bị nhục mạ và tổn thương, nhưng nếu sau đó tôi phát hiện ra cô ấy không nói rằng tôi là nhà triết học tồi, mà tôi là một triết gia baaad – theo tiếng lóng, có nghĩa là một triết gia giỏi thì cơn giận của tôi sẽ mau chóng lắng xuống. Tương tự, hãy xét đến trường hợp mà trí tuệ của tôi tạo ra một ham muốn phương tiện, còn cảm xúc sau đó sẽ cam kết với ham muốn đó, ví dụ, vì đang đói bụng nên trí tuệ của tôi tạo ra một ham muốn phương tiện là đến nhà hàng nào đó, và cảm xúc nhanh chóng tán thành tính đáng khao khát của việc đi đến nơi đó. Nhưng sau đó nếu trí tuệ phát hiện ra nó đã thông báo sai ham muốn này – hôm nay là thứ Hai, mà nhà hàng đang nói tới lại đóng cửa vào thứ Hai – trí tuệ sẽ từ bỏ ham muốn và cảm xúc sẽ ưng thuận.
(Tôi đã đề cập ở trên rằng lý thuyết về sự hình thành ham muốn của tôi dựa trên lý thuyết của David Hume. Quan điểm riêng của Hume thì rất phức tạp và thậm chí có thể mâu thuẫn. Một mặt, ông nói với chúng ta rằng một mình lý trí “không bao giờ có thể chống đối lại đam mê”.1 Tuy nhiên có vẻ ông cũng nhận ra rằng khi cảm xúc cam kết với một ham muốn do trí tuệ tạo ra thì chúng sẽ từ bỏ ham muốn đó nếu trí tuệ cũng làm vậy: “Giây phút chúng ta nhận ra sự sai lầm của bất kỳ giả thuyết nào, hoặc chưa đủ phương tiện thì những đam mê của chúng ta sẽ tuân phục theo lý trí mà không hề chống đối”).2
1. Hume, Luận thuyết, quyển 2, phần 3, đoạn 3.
2. Hume, Luận thuyết, quyển 2, phần 3, đoạn 3.
Do đó mối quan hệ giữa trí tuệ và cảm xúc là bất cân xứng. Dù cảm xúc có quyền năng phủ quyết đối với trí tuệ, nhưng trong hầu hết trường hợp, trí tuệ có thể thuyết phục cảm xúc nếu nó khơi gợi được một cảm xúc mạnh mẽ hơn cảm xúc mà nó đang muốn đè nén. Ngược lại, trí tuệ có thể tạo ra một ham muốn, nhưng nếu cảm xúc không cam kết thì ham muốn đó sẽ rất mong manh, yếu ớt. Còn nếu cảm xúc phản đối thì ham muốn đó sẽ chết yểu.
Tại sao trí tuệ lại chạy theo cảm xúc như thế? Tại sao trong trận chiến giữa cảm xúc và trí tuệ thì cảm xúc thường giành chiến thắng? Vì lý do đơn giản là chúng từ chối tranh đấu một cách công bằng. Khi thỏa thuận với trí tuệ, cảm xúc không dùng lý lẽ để hợp tác. Thay vào đó, chúng làm trí tuệ mệt mỏi bằng những lời nài nỉ. Chúng cầu xin, than vãn và bắt nạt. Chúng sẽ không chấp nhận lời từ chối, sẽ không cho trí tuệ một giây phút yên bình. Trong hầu hết trường hợp, điều tốt nhất mà trí tuệ có thể hy vọng là chịu đựng những lời nài nỉ này trong một thời gian. Và rồi nó phải chịu thua.
Cảm xúc cũng có khả năng làm vô hiệu hóa trí tuệ của chúng ta bằng cách làm tắc nghẽn tâm trí với những ý nghĩ quấy rầy. Ví dụ, cảm xúc của chúng ta có thể lấp đầy tâm trí bằng hình ảnh cứ trở đi trở lại của người mà chúng ta đang thương nhớ, hoặc nếu không thì sẽ là nỗi lo âu hoặc một cơn thèm đồ uống có cồn lặp đi lặp lại. Chính vì những ý nghĩ quấy rầy này mà trí tuệ của chúng ta bị phân tâm đến nỗi không thể xâu chuỗi một lập luận chặt chẽ, chắc chắn nhằm chống lại ham muốn do cảm xúc tạo ra – chúng ta không còn suy nghĩ thấu đáo được nữa. Nếu nó muốn lấy đi khả năng hoạt động của trí tuệ thì trí tuệ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc giơ tay xin hàng.
Mối quan hệ giữa trí tuệ và cảm xúc cũng giống như mối quan hệ giữa cha mẹ và đứa con 5 tuổi cứng đầu của họ. Một đứa bé như vậy biết nó muốn gì, và nó sẽ đòi, sẽ rên rỉ và thút thít cho đến khi nào nó có được thứ đó. Cảm xúc của chúng ta cũng y như thế. Khi chúng ta đang cố giảm cân, nó sẽ gào lên: “Tôi không quan tâm chế độ ăn kiêng nào hết. Tôi muốn ăn sô-cô-la!” Nếu trí tuệ từ chối yêu cầu của chúng thì cảm xúc có thể bắt đầu rên rỉ và có thể rên suốt hàng tiếng đồng hồ. Tương tự, khi chúng ta bị sỉ nhục một cách công khai trước mọi người thì trí tuệ của ta có thể nhún vai cho qua, nhưng cảm xúc của chúng ta, giống như đứa bé 5 tuổi cứng đầu, sẽ than phiền rằng ai đó đã chửi rủa chúng ta. Nếu trí tuệ tìm cách vỗ về cảm xúc bằng lập luận của Chủ nghĩa Khắc kỷ rằng: “Gậy gộc và gạch đá có thể làm gãy xương anh, chứ lời nói thì chẳng bao giờ làm tổn thương được anh”, thì cảm xúc của chúng ta có thể ngắt lời nó bằng một cơn thịnh nộ.
Trên thực tế, đối phó với cảm xúc của chúng ta thậm chí còn tồi tệ hơn đối phó với một đứa trẻ 5 tuổi cứng đầu. Để tránh nghe tiếng rên rỉ của đứa trẻ, chúng ta có thể bịt lỗ tai hoặc nhốt nó trong phòng ngủ, chúng ta có thể trừng phạt đứa bé với hy vọng sửa đổi được hành vi của nó, và trong trường hợp xấu, chúng ta có thể cho đứa bé làm con nuôi. Song chúng ta không thể làm những điều này với cảm xúc của mình. (Đặc biệt là, chúng ta không thể tránh được tiếng rên rỉ của cảm xúc bằng cách bịt lỗ tai, vì chúng rên rỉ trong đầu chúng ta). Và trong khi đứa trẻ 5 tuổi sẽ thấy mệt mỏi vì rên rỉ sau một giờ hoặc lâu hơn, thì cảm xúc của chúng ta có thể rên rỉ trong suốt nhiều ngày, nhiều tháng, và thậm chí là nhiều năm.
Lưu ý rằng sự hiện diện của một đứa trẻ 5 tuổi hay rên rỉ không tước đi quyền tự do của cha mẹ chúng. Họ có thể từ chối lời yêu cầu của đứa trẻ. Quả thực, họ có thể hoàn toàn không cho đứa bé thứ mà nó muốn. Họ có thể làm vậy, nhưng họ sẽ phải trả một cái giá nhất định. Do đó, cha mẹ của một đứa trẻ 5 tuổi cứng đầu vẫn được tự do, nhưng rõ ràng là họ sử dụng tự do của mình để dỗ dành đứa trẻ. Điều này cũng tương tự như mối quan hệ của trí tuệ và cảm xúc.
Bây giờ, hãy tưởng tượng có một đứa trẻ 5 tuổi cực kỳ cứng đầu, mè nheo, than vãn không biết mệt, cha mẹ không thể né tránh lời than vãn của trẻ, và không thể sửa đổi hành vi của nó. Cha mẹ của một đứa trẻ như vậy sẽ sớm nhận ra sự vô ích khi chống lại lời nài nỉ của trẻ. Họ nhận ra về lâu về dài, cuộc sống của họ sẽ chỉ dễ thở nếu luôn cho đứa trẻ thứ nó muốn và để dành sức lực cho một vài “trận chiến” được lựa chọn cẩn thận. Những bậc cha mẹ này sẽ nhanh chóng tập thói quen đồng ý với đòi hỏi của đứa trẻ. Họ mau chóng nói đồng ý đến nỗi có thể quên mất rằng họ có quyền từ chối.
Những điều tương tự cũng xảy ra với trí tuệ. Nó không thể tránh được tiếng rên rỉ của cảm xúc và chẳng có hy vọng gì để sửa đổi hành vi của chúng. Trí tuệ nhanh chóng nhận ra cách khôn ngoan duy nhất – quả thực, một cách lý trí – để đối phó với cảm xúc là không chút ngần ngại, cho luôn chúng thứ mà chúng muốn. Nhờ đó, trí tuệ bảo toàn được sức mạnh để có thể chiến đấu và giành chiến thắng trong những trận chiến thực sự quan trọng – đó là vượt qua những ham muốn bất hảo nhất trong những ham muốn do cảm xúc tạo ra.
Đây là một minh họa tương tự khác cho mối quan hệ giữa trí tuệ và cảm xúc. Những cảm xúc giống như một kẻ ham thích khoái lạc suy đồi, với một cơ thể béo phì và bộ não đã mụ mẫm sau nhiều năm tháng sống buông thả. Anh ta không biết nhiều, nhưng anh ta biết mình muốn điều gì – đó là muốn cảm thấy tốt và tránh cảm thấy tồi tệ. Ngược lại, trí tuệ đóng vai trò tay sai cho kẻ mê khoái lạc này. Kẻ mê khoái lạc ngồi cả ngày để tạo ra một dòng ham muốn liên tục không ngớt: “Tôi muốn đàn bà. Tôi muốn uống whiskey.” Tên tay sai thờ ơ trước những thứ đó song lại rất giỏi đưa ra những chiến lược mà bằng cách đó, anh ta có thể giúp kẻ ham khoái lạc có được chúng. Nếu kẻ ham khoái lạc ngủ gật thì tên tay sai không biết mình phải làm gì. Dù anh ta rất giỏi trong việc thực hiện những ước muốn của kẻ ham khoái lạc – đó là lý do mà anh tồn tại – thì anh ta lại gặp khó khăn trong việc tìm ra những thứ mà anh ta muốn cho bản thân mình, nếu có. Tên tay sai ngồi đó cố gắng nghĩ ra thứ mà anh ta muốn, nhưng trước khi anh ta đi đến kết luận thì kẻ ham khoái lạc đã tỉnh dậy và bắt đầu gào thét những yêu cầu mới. Tên tay sai thở phào nhẹ nhõm.
Đôi lúc tên tay sai sẽ cố gắng nói lý với kẻ ham khoái lạc và thuyết phục anh ta đừng chạy theo những thứ mà anh ta muốn nữa. Ví dụ, giả sử kẻ ham khoái lạc đòi rượu whiskey. Nếu tên tay sai đáp lại rằng kẻ ham khoái lạc đã uống nhiều rượu rồi, kẻ ham khoái lạc sẽ không nao núng: anh ta sẽ nhìn chằm chằm vào tên tay sai bằng đôi mắt buồn rầu và lặp lại yêu cầu. Nếu tên tay sai phớt lờ anh ta thì kẻ ham khoái lạc có thể bắt đầu tụng chữ: “Whiskey! Whiskey!” cho tới khi nào tên tay sai không chịu được nữa. Một chiến lược hay hơn cho tên tay sai nếu anh ta muốn kẻ ham khoái lạc bỏ rượu whiskey là chỉ ra rằng nếu anh ta còn uống nữa thì anh ta sẽ không thể vui vẻ với những người đàn bà sau này sẽ đến mua vui cho anh ta. Lời nhắc nhở này có thể khiến kẻ ham khoái lạc từ bỏ yêu cầu uống rượu whiskey.
Bức tranh vừa trình bày chắc chắn là một tranh biếm họa vì đa số chúng ta không phải là kẻ ham khoái lạc đồi bại. Một số người thì cho rằng điều này chứng tỏ chúng ta không bị điều khiển bởi ham muốn cuối cùng khoái lạc do cảm xúc tạo ra. Trái lại, tôi cho rằng nó không hề chứng minh cho điều đó. Suy cho cùng, xin hãy lưu ý rằng bản thân ham muốn về địa vị xã hội của chúng ta là một ham muốn khoái lạc do cảm xúc tạo ra. Chúng ta tìm kiếm địa vị xã hội vì cảm giác sung sướng khi người khác ngưỡng mộ chúng ta và cảm thấy tồi tệ khi họ khinh khi ta. Ngoài ra, chúng ta không sống cuộc đời buông thả vì chúng ta vẫn có ham muốn này trong mình, đó là hàng xóm sẽ nghĩ gì nếu tháng ngày của chúng ta chỉ biết sống trong khoái lạc vô độ?
Mặc dù cảm xúc chi phối trí tuệ của chúng ta, nhưng với người quan sát hời hợt thì có vẻ như trí tuệ của chúng ta giành thế thượng phong. Xét cho cùng thì phần lớn ham muốn của chúng ta là ham muốn phương tiện, và bởi vì ham muốn phương tiện được trí tuệ tạo ra nên suy ra hầu hết ham muốn được hình thành bởi trí tuệ. Ai đó có thể viện dẫn điều này như là bằng chứng cho thấy sự thống trị của trí tuệ nhưng trong trường hợp này, họ đã bị vẻ bề ngoài đánh lừa.
Nếu xem xét những ham muốn phương tiện của mình thì ta sẽ thấy, như đã đề cập ở chương trước, phần lớn trong số chúng thuộc về các chuỗi ham muốn, mà ham muốn cuối cùng của chuỗi là một ham muốn được hình thành bởi cảm xúc. Những ham muốn phương tiện trong các chuỗi đó quả thực có thể được tạo ra bởi trí tuệ, nhưng trí tuệ đang tuân theo mệnh lệnh của cảm xúc khi tạo ra những ham muốn đó – nó đang giúp cảm xúc thỏa mãn một vài ham muốn cuối cùng khoái lạc. Nếu cảm xúc không hình thành ham muốn cuối cùng mà ta đang bàn đến thì không có ham muốn phương tiện gắn kết nào sẽ được trí tuệ tạo ra.
Vai trò hỗ trợ của trí tuệ trở nên rõ ràng khi một người rơi vào tình trạng trầm cảm. Những ai rơi vào tình trạng trầm cảm thì vẫn thông minh như trước kia. (Nếu điểm số của họ bị giảm trong bài kiểm tra IQ thì đó là vì họ không có động lực để thực hiện bài kiểm tra chứ chẳng phải vì họ bớt thông minh). Nhưng vì trầm cảm nên dòng chảy của ham muốn cuối cùng do cảm xúc tạo ra bị chậm hẳn lại. Họ không còn cảm giác thèm ăn, thích làm tình, nghe nhạc hay tham gia tiệc tùng. Trong những trường hợp như vậy, trí tuệ không tạo ra ham muốn cuối cùng để giúp đỡ. Thay vào đó, nó chỉ ngồi chơi không. Nếu cảm xúc hình thành các ham muốn cuối cùng thì trí tuệ sẽ vui vẻ hình thành những ham muốn phương tiện thích hợp; nhưng trong trường hợp không có một dòng chảy liên tục của những ham muốn cuối cùng do cảm xúc sinh ra thì trí tuệ, giống như tên tay sai đã mô tả ở trên, không biết nên làm gì.
Những người trầm cảm hiếm khi đáp lại với lý lẽ, logic. Chúng ta cho rằng họ cần phải ăn uống hay rời khỏi giường, và họ có thể đồng tình với chúng ta rằng làm như vậy sẽ có lợi cho họ, nhưng vì cảm xúc đã bị vô hiệu hóa nên họ không còn cảm thấy thôi thúc phải làm những việc mang lại lợi lạc cho bản thân nữa. Một người trầm cảm vẫn có khả năng hình thành những ham muốn cuối cùng phi khoái lạc (chẳng hạn như ham muốn tặc lưỡi của tôi), nhưng tôi đã lưu ý rằng, những ham muốn đó là những điều nhạt nhòa, kém quan trọng nếu so với những ham muốn mãnh liệt do cảm xúc tạo ra. Những ham muốn được trình bày dưới đây thì đủ mạnh để khiến chúng ta bật dậy khỏi giường và làm tất cả những việc cần thiết để tồn tại và phát triển; trong khi, những ham muốn cuối cùng được hình thành bởi trí tuệ nhìn chung là không đủ mạnh đến vậy.
Hãy xem xét lại trường hợp cậu sinh viên dự bị trường luật ở chương trước, người muốn mua một chiếc xe Dodge Viper. Giả sử, vào sáng sớm nọ, khi cậu sinh viên này đang nằm trên giường để quyết định xem nên đi học hay là ngủ tiếp, nhiều ý nghĩ lướt qua đầu cậu ấy. Cậu biết là mình thích lái chiếc xe Viper, nhưng phải mất nhiều năm nữa kể từ giờ cậu mới có được thú vui này, và nếu ngày đó tới thì không có gì đảm bảo rằng tham vọng nghề nghiệp của cậu sẽ thành công. Ngủ không chỉ làm cậu cảm thấy tốt mà còn có được cảm giác thoải mái ngay bây giờ và là một “điều chắc chắn.” Cậu sinh viên có thể chiều theo những suy nghĩ ấy nếu như những suy nghĩ trái ngược khác không lướt qua tâm trí cậu: “Ừ, nằm đây thì sướng thật, nhưng hậu quả của việc không đi học là gì? Có thể Giáo sư Irvine sẽ nhận thấy mình vắng mặt và không dành thiện cảm cho mình. Có lẽ mình sẽ bỏ lỡ nội dung quan trọng và gặp rắc rối trong bài kiểm tra sắp tới, do đó có thể ảnh hưởng đến điểm số khóa học của mình. Có lẽ bị ăn một con điểm thấp trong môn học này sẽ làm giảm cơ hội vào trường luật của mình, cũng như thư giới thiệu mà Giáo sư Irvine viết có thể khá sơ sài vì mình vắng mặt nhiều lần.” Cậu sinh viên sẽ có lo lắng đó và những băn khoăn khác khi cậu đang nằm trên giường. Cậu biết rằng cậu có thể xoa dịu những cảm giác khó chịu này bằng cách đứng dậy và đi đến lớp học, và cậu đã làm vậy.
(Nhân đây, tôi muốn nói rằng cảm xúc chính là nguồn gốc của những băn khoăn, lo lắng đó. Bên cạnh việc cám dỗ chúng ta bằng những khả năng về lạc thú như: “Chẳng phải làm tình bây giờ sẽ rất sướng hay sao?” thì cảm xúc cũng có khả năng lo sợ trước những tiếng thầm thì: “Hãy nghĩ xem mi sẽ cảm thấy tồi tệ thế nào nếu lỡ chuyến bay”)!
Khi cảm xúc của chúng ta hình thành một ham muốn cuối cùng, chúng ta cảm thấy thôi thúc phải thỏa mãn nó. Làm vậy sẽ khiến ta cảm thấy tốt, hoặc dù sao đi nữa cũng sẽ cảm thấy tốt hơn so với không thỏa mãn nó. Nhưng còn đối với những ham muốn phương tiện mà trí tuệ của ta tạo ra để có thể thỏa mãn được ham muốn cuối cùng này thì sao? Thỏa mãn những ham muốn phương tiện sẽ không làm ta cảm thấy tốt; quả thực, đối với cậu sinh viên dự bị trường luật phải lôi mình ra khỏi giường sẽ cảm thấy rất tệ. Nói chung, dù đối tượng của ham muốn cuối cùng do cảm xúc tạo ra vốn đã đáng thèm muốn, thì đối tượng của ham muốn phương tiện do trí tuệ hình thành thì không. Vậy khi đó, cái gì sẽ thúc đẩy chúng ta thỏa mãn ham muốn phương tiện?
Như chúng ta thấy, trí tuệ không thể ra lệnh cho cảm xúc, nhưng nó có thể điều hướng nguồn năng lượng cảm xúc hiện đang tồn tại. Chẳng hạn, nếu cảm xúc muốn X, trí tuệ có thể thuyết phục cảm xúc muốn làm Y bằng cách chỉ ra rằng làm Y sẽ giúp chúng có X. Ngay khi cảm xúc tin rằng làm Y sẽ giúp chúng có được X thì nỗi lo lắng mà chúng cảm nhận đối với X sẽ chuyển sang Y. Sau đó trí tuệ có thể chỉ cho cảm xúc thấy bằng cách làm Z, chúng có thể đạt được Y; một lần nữa, nỗi lo sẽ chuyển sang Z. Theo cách này, nỗi lo âu trút xuống những chuỗi ham muốn được hình thành bởi trí tuệ. Do đó, chúng ta có động lực để thỏa mãn những ham muốn phương tiện trong những chuỗi ham muốn ấy, dù làm điều đó tự thân nó không làm ta cảm thấy tốt, quả thực, ngay cả khi làm những việc ấy sẽ khiến ta cảm thấy tệ.
Chúng ta đã gặp một ví dụ về quá trình dịch chuyển lo lắng này. Vì tôi đang đói bụng nên tôi tạo ra một ham muốn phương tiện là lái xe đến nhà hàng. Nỗi lo về việc chấm dứt cơn đói của tôi dịch chuyển: Tôi trở nên lo lắng về việc lái xe đến nhà hàng. Và bởi vì tôi muốn lái xe đến nhà hàng nên tôi tạo ra một ham muốn là tìm chìa khóa xe, và một lần nữa nỗi lo lắng của tôi lại dịch chuyển. Nỗi lo lắng cuối cùng này gần như ở mức dưới ngưỡng trừ khi tôi không tìm được chìa khóa xe. Sau đó, nó sẽ tăng đột biến và tôi có thể lật tung căn nhà lên để cố tìm chìa khóa.
Tôi đã nói ở trên về những cảm xúc “cam kết với” một ham muốn do trí tuệ tạo ra. Sự cam kết mà ta đang xét đến thường ở dạng gắn kết của cảm xúc lo lắng với ham muốn đó. Cảm xúc sẵn sàng làm điều này nếu ham muốn do trí tuệ tạo ra là một ham muốn phương tiện mà sẽ cho phép chúng thỏa mãn một số ham muốn cuối cùng do cảm xúc tạo ra, nhưng cảm xúc sẽ ít sẵn lòng nếu ham muốn là một ham muốn cuối cùng phi khoái lạc do trí tuệ hình thành. Hãy xét lại ham muốn tặc lưỡi của tôi. Khi tôi hình thành ham muốn làm việc này thì chưa chắc tôi sẽ trải nghiệm bất kỳ nỗi lo nào liên quan đến việc đó. Dù sao đi nữa, nỗi lo lắng sẽ không đáng kể so với nỗi lo mà tôi cảm nhận khi tôi đang đói bụng và không thể tìm ra chìa khóa xe.
Để hiểu rõ động lực thúc đẩy của nỗi lo mạnh mẽ như thế nào, hãy xem xét những người mà cảm giác lo lắng đã vượt khỏi tầm kiểm soát của họ – những người đang mắc chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế. Những cá nhân này bị thúc đẩy bởi cảm giác lo lắng và có thể dành cả ngày lặp đi lặp lại chuyện rửa tay. Cuộc đời họ bị nỗi lo lắng điều khiển.
Một người quen mắc phải chứng ám ảnh cưỡng chế với hành động rửa tay sẽ mô tả điều đó như sau: nếu không rửa tay trong vài phút, anh ấy sẽ có cảm giác căng thẳng hay âu lo rất khó chịu. Anh ấy biết rằng mình có thể xua đi cảm giác này bằng cách rửa tay. Anh cũng biết rằng sau khi rửa tay, cảm giác đó sẽ quay lại. Những người phát hiện ra thôi thúc cưỡng chế của anh hỏi rằng tại sao anh không thể quyết định mình sẽ không rửa tay nữa. Câu hỏi này không nắm được điểm cốt yếu của vấn đề. Về lý trí, anh ấy hiểu chẳng có lý do chính đáng nào để cứ rửa tay thường xuyên như vậy. Nhưng anh cũng biết rằng lý trí của anh bất lực trước cảm xúc lo lắng của mình. Quả thực, điều lý trí mà anh có thể làm, khi xét đến việc anh đang phải chịu đựng nỗi lo lắng này và có thể làm nó biến đi bằng cách rửa tay, chính là rửa tay. Đối với anh ấy thì việc đó cũng hợp lý giống như khi đói thì ăn.
Chúng ta có thể cảm thấy thương hại người mắc phải chứng ám ảnh cưỡng chế với việc rửa tay, nhưng ít ra thì có thứ gì đó mà anh ta có thể làm để xua đi nỗi lo lắng của mình, dù chỉ trong chốc lát. Còn những người mắc phải nỗi lo lắng vô định thì không được may mắn như thế. Vì nỗi lo thường gắn với những ham muốn cụ thể nào đó nên họ biết cần phải làm gì để dập tắt chúng – đó là thỏa mãn những ham muốn mà chúng gắn vào. (Điều này đúng ngay cả trong trường hợp về người mắc chứng ám ảnh cưỡng chế với việc rửa tay). Tuy nhiên, những lo lắng vô hình không gắn với bất kỳ ham muốn cụ thể nào, do đó, người đang trải nghiệm dạng lo lắng này không biết hành động thế nào sẽ chế ngự được cảm xúc âu lo của mình.
Khi những nỗi lo gắn vào ham muốn trong một chuỗi ham muốn, chúng đóng một vai trò rất hữu dụng vì đã thúc đẩy chúng ta leo lên chuỗi ham muốn đó. Nhưng khi nỗi lo lắng gắn vào những ham muốn mà chúng ta ước mình đừng có, chẳng hạn như một ham muốn rửa tay, thì chúng trở nên khó chịu, hoặc khi không gắn với bất kỳ ham muốn nào thì chúng trở thành nguồn cơn của nỗi thống khổ.
Nếu lo lắng là điều thúc đẩy chúng ta đạt được mục tiêu của mình, và nếu như ta có nhiều mục tiêu, giống như phần lớn mọi người thì có lẽ chúng ta phải sống trong tình trạng lo âu không ngớt. Nhưng chúng ta lại hiếm khi ở tình trạng như thế và hầu hết chúng ta hoàn toàn điềm tĩnh. Làm sao mà ta có thể giải quyết được nghịch lý này?
Như chúng ta thấy, con người có xu hướng tạo ra những ham muốn dài hạn mà họ có lẽ sẽ chẳng bao giờ thỏa mãn được, ví dụ chúng ta muốn giàu có và nổi tiếng, mặc dù xác suất thành công chống lại ta. Nhưng mặc dù những ham muốn dài hạn của chúng ta có thể xa rời thực tế, thì những ham muốn ngắn hạn mà chúng ta hình thành có xu hướng hoàn toàn thực dụng. Những thứ ta muốn trong cuộc sống hằng ngày đa phần là những thứ dễ dàng đạt được trong khả năng của chúng ta. Khi muốn kiểm tra email: chúng ta bật máy tính, tin chắc rằng màn hình sẽ hiển thị toàn bộ thư đến và thư rác hằng ngày. Khi muốn ăn sáng: chúng ta mở tủ lạnh, tin chắc rằng bánh vòng ta mua sẽ ở trong đó. Khi muốn lái xe đi làm: chúng ta vặn chìa khóa xe, tin rằng xe sẽ khởi động và con đường đi thì ở phía trước.
Trong những trường hợp mà, vì hoàn cảnh vượt khỏi tầm kiểm soát nên chúng ta không thể tự tin sẽ đạt được điều mình muốn, chúng ta thường xây dựng một kế hoạch dự phòng cho phép ta đạt được, nếu không chính xác là thứ mà ta muốn, thì cũng là thứ gì đó gần giống thế. Ví dụ, một phụ nữ muốn làm đám cưới ngoài trời có thể lập một kế hoạch dự phòng trong trường hợp có mưa bão vào ngày cưới. Cô ấy có thể không tự tin rằng lễ cưới sẽ diễn ra ngoài trời, nhưng nhờ kế hoạch dự phòng mà cô có thể tin chắc rằng lễ cưới vẫn sẽ diễn ra.
Chúng ta thường đạt được thứ mình muốn bởi lý do đơn giản: bất chấp sự thèm khát vô độ của chúng ta đối với những thứ to tát trong cuộc đời, như giàu sang và danh tiếng, chúng ta khá hài lòng với những điều nhỏ bé, chẳng hạn như ăn sáng. Chúng ta tự hạn chế bản thân, trong cuộc sống thường ngày, muốn những thứ mà ta có thể tự tin lấy được. Chúng ta làm điều này phần lớn vì nhận ra sự thèm muốn vô độ với những điều to lớn trong đời – liên tục ham muốn những thứ mà chúng ta không chắc sẽ đạt được đồng nghĩa với việc sẽ rất đau đớn, vì nó kéo theo nỗi thất vọng triền miên. Bằng cách hạn chế bản thân chỉ muốn những thứ trong khả năng đạt được của mình, chúng ta giữ cho mức độ thất vọng hằng ngày chỉ ở mức tối thiểu.
Một lý do khác mà chúng ta thường đạt được những gì ta muốn trong cuộc sống hằng ngày là vì công việc của trí tuệ là đưa ra các chiến lược hiệu quả, ít rủi ro để lấy được thứ ta muốn. Nhiều người thấy cuộc sống hằng ngày là một nguồn thất vọng liên miên và lâm vào tình cảnh khó khăn như vậy bởi vì họ thiếu năng lực trí tuệ hoặc sở hữu nó nhưng không biết tận dụng nó.
Bằng cách tránh né rủi ro trong việc hình thành những ham muốn ngắn hạn, chúng ta tránh được nỗi lo lắng đáng kể. Nhưng ngay cả trong những trường hợp mà chúng ta tự tin đạt được điều mình muốn, thì sự lo lắng vẫn luôn rình rập, khi ta nhận ra điều đó thì ta sẵn sàng hành động ngay. Sự lo lắng lộ diện khi chúng ta bất ngờ bị ngăn cản không có được thứ mà chúng ta tự tin lấy được. Ví dụ, giả sử khi tôi bật máy tính của mình lên để kiểm tra email, tôi nhận được một thông báo lỗi: máy tính không cho tôi truy cập bất kỳ file hay trình duyệt nào trong ổ cứng. Tôi sẽ thất vọng – tức là tôi sẽ thấy tức giận cùng với một cơn lo âu đột ngột tăng vọt. Vợ tôi có thể chứng kiến sự thay đổi lạ lùng này. Trước khi ngồi xuống bật máy vi tính, tôi đang bình thản và thoải mái; sau khi tìm cách bật máy lên thì tôi bắt đầu cáu kỉnh và mất trí. Thậm chí tôi có thể tuôn ra một tràng những lời lẽ tục tĩu.
Nỗi đau khổ gắn liền với sự thất vọng thường bất cân xứng với tầm quan trọng của thất bại làm chúng ta hụt hẫng. Những kẻ bắt nạt học đường ở khắp mọi nơi đều hiểu điều này. Chúng có thể đấm nạn nhân, nhưng làm thế thì có nguy cơ bị phát hiện và trừng phạt. Thay vì vậy, bọn chúng có thể làm nạn nhân cảm thấy thất vọng – ví dụ như chặn cửa hoặc không đưa cho nạn nhân thứ mà anh ta muốn, và bằng cách đó, chúng gây ra rất nhiều khổ sở cho nạn nhân mà không cần động một ngón tay lên người anh ta. Nhưng khi cố làm nạn nhân thất vọng thì chúng cũng rất cẩn thận để không làm họ thất vọng quá nhiều. Vì con người có thể chịu đựng sự thất vọng chỉ khi nào họ kỳ vọng lấy được thứ mà họ muốn. Nếu kẻ bắt nạt gây ra cho ai đó cảm giác rằng mọi cố gắng của anh chắc chắn sẽ thất bại thì mức độ thất vọng của anh ta sẽ suy giảm, và bản thân những nỗ lực của kẻ bắt nạt nhằm gây thất vọng cho nạn nhân cũng đưa đến cảm giác thất vọng. (Những kẻ bắt nạt cũng hiểu được nỗi đau đớn gắn liền với nỗi lo lắng. Bằng cách khiến cho ai đó lo sợ rằng bọn chúng sẽ đấm anh ta, chúng có thể gây ra nhiều đau khổ cho nạn nhân như thể chúng thực sự đã đấm anh ta, nhưng ít có khả năng vướng vào rắc rối).
Khi chúng ta hình thành một chuỗi ham muốn thì luôn có khả năng một số mắt xích trong chuỗi bị đứt gãy khiến chúng ta sẽ phát hiện ra mình không thể thỏa mãn được chúng để từ đó leo lên tới đỉnh chuỗi ham muốn. Khi điều này xảy ra, chúng ta thấy thất vọng, và cảm giác thất vọng thúc đẩy chúng ta tìm đường vòng đi qua mắt xích bị hỏng. Chúng ta làm điều này bằng cách dùng trí tuệ của mình để tôi luyện những mắt xích mới trong chuỗi ham muốn của ta – tức là, chúng ta tạo ra những ham muốn phương tiện mới, mà việc thỏa mãn chúng sẽ cho ta vô hiệu hóa mắt xích bị hỏng và một lần nữa lại cho phép chúng ta leo lên chuỗi ham muốn mà ta đã hình thành. Vì vậy, nỗi thất vọng vì máy tính bị hỏng sẽ thúc đẩy tôi nghĩ đến những cách khác mà tôi có thể truy cập được các tập tin của mình – tôi có thể sẽ dành hàng giờ, hàng ngày hay thậm chí nhiều tuần vắt óc tìm cách vô hiệu hóa mắt xích bị hỏng trong chuỗi ham muốn của mình.
Nếu cảm giác lo lắng là cây gậy đẩy chúng ta lên chuỗi ham muốn thì cảm giác thành công là củ cà rốt đang đợi chúng ta ở đỉnh của chuỗi ham muốn. Hãy xem xét lại trường hợp cậu sinh viên dự bị trường luật. Giả sử, mặc cho việc gặp nhiều thất bại, cậu ấy đã leo được lên chuỗi ham muốn của mình: cuối cùng cậu cũng mua được chiếc xe Viper và lái nó ra khỏi phòng trưng bày. Cậu ấy có khả năng trải nghiệm một niềm vui nhân đôi. Trước tiên, cậu ta sẽ có được niềm vui khi lái chiếc xe này, bao gồm niềm vui đến từ việc tăng tốc khi đèn giao thông chuyển sang màu xanh và việc trở thành nhân vật được ngưỡng mộ. Cậu cũng sẽ có được cảm giác sung sướng vì đạt được mục tiêu của mình – một cảm giác thành công. Cảm giác này có thể mãnh liệt hơn nhiều so với niềm vui cậu nhận được từ việc chiếc xe tăng tốc rất nhanh và được ngưỡng mộ.
Khi chúng ta đạt được một mục tiêu lâu dài và có ý nghĩa quan trọng về mặt cá nhân, chúng ta trải nghiệm một cơn lũ của thành công. Nó vừa có cả yếu tố tinh thần (một niềm vui sâu sắc đến ngất ngây) và một yếu tố thể lý (cảm giác thắt lại hoặc căng đầy lồng ngực). Vì thành công ấy mà lòng tự trọng của ta cũng tăng lên, và do đó chúng ta sẽ đạt được sự tự tin ngoài xã hội. Bây giờ, chúng ta có thể xem thường những người mà ngày xưa ta từng khúm núm.
Thành công thường rất giống với chất gây nghiện – nó làm bạn cảm thấy tốt, bạn không biết mình đang bỏ lỡ điều gì cho đến khi trải nghiệm được nó; một khi bạn trải nghiệm được nó thì bạn muốn có nhiều thêm; và khi bạn cố gắng để giành lại cảm giác ngây ngất đầu tiên đó, bạn sẽ phải dùng đến những “liều thuốc” lớn hơn. Và nếu thành công giống như chất gây nghiện thì một số loại chất gây nghiện/ma túy khá giống với sự thành công. Tôi được nghe kể rằng cảm giác sau khi dùng cocaine rất giống với sự hưng phấn, kích thích của thành công.
Khi con người trải nghiệm sự thành công thì một chuyện kỳ lạ xảy ra. Họ nhận ra thành công mang lại cảm giác rất, rất tốt – nó có thể không mãnh liệt như một cơn cực khoái, nhưng nó lâu dài hơn và, không giống như một cơn cực khoái, nó khiến ta cảm thấy tốt theo cách đa chiều. Khi nhận ra điều này, con người bèn tạo ra một mục tiêu mới cho bản thân – đạt được cảm giác thành công vì chính nó.
Tổ tiên tiến hóa của chúng ta, những người đã hình thành và leo lên được tới đỉnh của chuỗi ham muốn dài dằng dặc thì có nhiều khả năng tồn tại và sinh sản hơn những ai không được như vậy. Nhưng trong việc hình thành những chuỗi ham muốn như thế, họ có thể bị chán nản và có nguy cơ gặp thất bại. Có lẽ cơn hưng phấn vì thành công là một đối trọng về mặt tiến hóa đối với những thứ tiêu cực này – chính củ cà rốt đã khiến họ phải lên kế hoạch cho hạnh phúc tương lai của họ bằng cách hình thành và cố gắng leo lên tới đỉnh của chuỗi ham muốn dài dằng dặc.
Theo lý thuyết hình thành ham muốn ở trên, chúng ta có hai nguồn ham muốn: cảm xúc và trí tuệ. Mặc dù cảm xúc và trí tuệ có thể bất đồng về tính đáng khao khát của một thứ gì đó, nhưng nhìn chung thì chúng hoạt động song hành với nhau: cảm xúc tạo ra những ham muốn khoái lạc cuối cùng, còn trí tuệ thì tạo ra ham muốn phương tiện, thỏa mãn chúng sẽ cho phép cảm xúc đạt được thứ nó muốn. Và để cho những ham muốn phương tiện được hình thành bởi trí tuệ không phải là những điều mong manh như ham muốn tặc lưỡi của tôi, cảm xúc gắn cảm giác lo âu vào chúng. Khi nhấn mạnh cuộc chiến giữa cảm xúc và trí tuệ thì lý thuyết trên có vẻ đúng: tất cả chúng ta đều chứng kiến trong bản thân trận chiến giữa con tim và khối óc của ta.
Bây giờ chúng ta hãy xem xét những điều mà khoa học đã phát hiện được về quá trình hình thành ham muốn. Nghiên cứu tâm lý học cho rằng quả thực là có nhiều nguồn gốc của ham muốn trong chúng ta, rằng nhiều ham muốn nảy sinh từ vô thức của chúng ta, rằng quá trình hình thành ham muốn ít hợp lý hơn ta tưởng, và khi cảm xúc của chúng ta dừng hoạt động thì trí tuệ thấy khó mà tạo ra ham muốn. Và như sẽ thấy ở chương tới, nghiên cứu tương tự này cho thấy những nguồn cơn của ham muốn quả thực là rất bí ẩn.