Khi đưa ra một quyết định ít quan trọng, tôi luôn thấy có lợi khi cân nhắc đến mọi ưu nhược điểm. Tuy nhiên, trong những vấn đề quan trọng, chẳng hạn như chọn lựa một người bạn đời hay một nghề nghiệp, quyết định ấy nên xuất phát từ vô thức, từ nơi nào đó bên trong chúng ta.
—Sigmund Freud
Những lựa chọn mà chúng ta đưa ra thường phản ánh ham muốn của chúng ta. Chúng ta chọn thứ mà ta muốn, khi đã xem xét mọi khía cạnh. Theo quan điểm truyền thống, quá trình đưa ra lựa chọn là lý trí. Chúng ta cân nhắc ưu và nhược điểm của một lựa chọn nào đó hay thậm chí có thể làm một bản phân tích ưu nhược một cách chính thống hơn. Sau khi cân nhắc các tùy chọn thì chúng ta đưa ra lựa chọn. Đa phần thì đó là một quá trình được thực hiện trên tư duy ý thức của chúng ta.
Tuy nhiên, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy nhiều lựa chọn của chúng ta không được thực hiện theo cách này. Chúng ta không đưa ra lựa chọn, nếu khi dùng từ “chúng ta”, ý bạn muốn nói đến tư duy ý thức của mình. Trái lại, những lựa chọn được đưa ra trong vô thức, và chỉ sau khi những lựa chọn được đưa ra “cho chúng ta” thì ta mới được thông báo về chúng, và lúc đó, ta sẵn sàng đóng dấu chấp thuận.
Để tìm bằng chứng ủng hộ cho tuyên bố này, chúng ta có thể chuyển sang nghiên cứu của các nhà thần kinh học thực nghiệm. Ví dụ, Joaquim Brasil-Neto và các đồng nghiệp của ông dường như đã tạo ra ham muốn ở mọi người.1 Phần đầu của các đối tượng được đặt trong một chiếc máy kích thích từ trường xuyên sọ, phát ra tiếng lách cách và kích thích ngẫu nhiên vùng vận động ở bên này hoặc bên kia của bộ não người tham gia. Các đối tượng được yêu cầu di chuyển, theo ý của họ, ngón trỏ trái hoặc phải khi họ nghe thấy tiếng lách cách. Các đối tượng nghĩ rằng họ đang quyết định nên di chuyển ngón tay nào, nhưng 80% số lần họ di chuyển ngón tay trái ngược với phần não bị kích thích. Điều này có nghĩa là các nhà khoa học có thể dự đoán ngón tay nào sẽ là ngón mà đối tượng “chọn” để giơ lên với độ chính xác đến 80%. Trong thực nghiệm này, kích thích từ rõ ràng đã ảnh hưởng đến các quá trình não bộ mà đối tượng không ý thức được và do đó, khiến họ muốn di chuyển một ngón tay cụ thể. Nói cách khác, các nhà nghiên cứu đã tác động đến sự lựa chọn của một đối tượng mà không làm gián đoạn cảm giác của đối tượng rằng sự lựa chọn là tự nguyện.
1. Brasil-Neto và cộng sự, 964f.
Để tìm thêm bằng chứng ấn tượng hơn về sự kiểm soát của vô thức đối với sự lựa chọn có ý thức, hãy xem xét nghiên cứu của nhà khoa học thần kinh Benjamin Libet. Ông đã kết nối con người với các thiết bị để phát hiện hoạt động điện trong não bộ của họ và đề nghị họ thực hiện một chuyển động tự nguyện – một cái búng cổ tay – vào thời điểm họ chọn. Libet đã ghi lại những gì diễn ra trong bộ não của họ trước, trong và sau khi đưa ra quyết định chuyển động. Chúng ta dĩ nhiên là mong đợi quyết định búng cổ tay của một ai đó sẽ đến trước hành động búng, vì cần thời gian để tín hiệu truyền từ não đến cổ tay và để cơ co lại. Và đây là điều Libet phát hiện ra: trung bình, cổ tay của một người bị búng 200 mili giây sau khi người đó quyết định búng cổ tay. Điểm đáng chú ý là Libet phát hiện ra một sự tăng sinh của hoạt động trong não bộ một người từ 350-400 mili giây trước khi người đó “quyết định” búng cổ tay – tức là, trước khi người đó ý thức được rằng anh ta sắp búng cổ tay. Điều này làm cho ham muốn búng cổ tay có vẻ bắt đầu từ trong bộ não vô thức, bắt đầu chuẩn bị cho hành động và, sau khoảng một phần ba giây, thông báo cho bộ não ý thức về quyết định của nó. Nói cách khác, không phải quyết định có ý thức gây ra hành động búng; mà thay vào đó, trước tiên là một sự kiện tinh thần sâu xa đã khiến người đó “chọn” búng cổ tay và sau đó mới gây ra hành động búng cổ tay. Theo lời của Libet: “Sự khởi đầu của hành động tự nguyện dường như bắt đầu trong phần não vô thức, trước khi người đó ý thức được rằng anh ta muốn hành động!”1 Tôi xin nói thêm rằng, nghiên cứu của Libet gây nhiều tranh cãi và các kết quả của ông ấy sẵn sàng chấp nhận nhiều cách giải thích khác nhau.2 Tuy nhiên, công trình thực nghiệm của những người khác dường như xác nhận điểm cốt lõi trong các phát hiện của Libet.3
1. Libet, 47–51.
2. Xem, ví dụ, cuộc thảo luận của Daniel Dennett về công trình của Libet trong Lý giải về Ý thức, 162–165.
3. Xem, ví dụ, Haggard và Eimer.
Những thí nghiệm như thế này cho thấy rằng những lựa chọn của chúng ta không được hình thành một cách có ý thức và lý trí. Thay vào đó, chúng nổi lên từ vô thức của ta, và khi chúng chạm đến bề mặt ý thức thì chúng ta trở thành chủ sở hữu của chúng. Nhà tâm lý Daniel M. Wegner còn đi xa đến mức cho rằng: lý chí, ý thức là một sự suy diễn – bỏ qua vẻ bề ngoài, điều khiến cho ngón tay của tôi giơ lên không phải là do ý muốn của tôi mà là một thứ khác.1
1. Wegner, 2.
Khi mới nghe qua, những tuyên bố như vậy có vẻ vô lý. Suy cho cùng, việc tôi có ý định giơ một ngón tay thì đều có mối tương quan mạnh mẽ với việc giơ ngón tay: các ngón tay của tôi hầu như luôn giơ lên khi tôi muốn và không giơ khi tôi không muốn. Nhưng tất nhiên, chỉ riêng mối tương quan thì không có gì chứng minh đó là quan hệ nhân quả. Hoàn toàn có khả năng là sự kiện B luôn theo sau sự kiện A mà không phải A là nguyên nhân của B. Ví dụ, giả sử có một sự kiện thứ ba là C, mà chúng ta chưa biết đến, gây ra A và, một lúc sau gây ra B. Trong trường hợp đó, nhìn thì có vẻ như A gây ra B, nhưng đây chỉ là một sự suy diễn.
Để minh họa, hãy xem sự khởi phát của chứng cảm lạnh. Đầu tiên là cổ họng bị ngứa. Một ngày sau thì sổ mũi. Có vẻ như cổ họng ngứa gây ra sổ mũi, nhưng đây là một sự suy diễn – cả cổ họng ngứa và sau đó đến sổ mũi đều do một loại vi-rút mà ta không nhìn thấy gây ra. Hoặc hãy xem xét phần mềm mô phỏng trò chơi bi-a trên màn hình máy tính. Một quả bóng đi ngang qua màn hình và tiếp xúc với một quả bóng thứ hai, làm nó rơi xuống lỗ. Như thể chắc chắn là quả bóng đầu tiên là nguyên nhân làm quả bóng thứ hai chuyển động, nhưng một lần nữa điều này là suy diễn. Nguyên nhân thực sự khiến hai quả bóng chuyển động là phần mềm mà ta không nhìn thấy.
Wegner và các nhà tâm lý khác cho rằng một điều gì đó tương tự như vậy xảy ra khi chúng ta có ý định cử động một ngón tay. Trông thì có vẻ như hành động của ý định mới là nguyên nhân khiến ngón tay cử động, nhưng trên thực tế, có một sự kiện thứ ba “mà ta không nhìn thấy” mới gây ra trải nghiệm của ý định/ý chí và một tích tắc sau, khiến cho ngón tay cử động. Sự kiện mà ta đang nói đến diễn ra trong vô thức của chúng ta.
Thật đáng lo ngại khi cho rằng “những lựa chọn” của chúng ta thực sự chỉ là những phản ánh về các quá trình tinh thần sâu kín hơn, đang bị ẩn giấu khỏi chúng ta và bản ngã có ý thức của chúng ta ít hoặc không có quyền kiểm soát. Nhiều dữ liệu nghiên cứu cũng cho thấy điều đáng lo ngại hơn là các quá trình nội tại này thường xung đột với nhau. Chúng ta không có một bản ngã bên trong mà ta có nhiều bản ngã, và chúng có thể đưa ra những lựa chọn trái ngược.
Bản ngã của chúng ta không phải là một thực thể đơn độc, điều này trở nên sáng tỏ khi chúng ta xem xét những trường hợp được gọi là hội chứng “bàn tay kỳ quặc”. Ví dụ, trường hợp một người đàn ông 40 tuổi bị xuất huyết não gây cản trở hoạt động giao tiếp bên trong não – một bán cầu não của ông ấy không thể giao tiếp với bán cầu còn lại. Hệ quả là bàn tay trái của ông ấy hoạt động dưới sự điều khiển của tâm trí của riêng nó, một tâm trí giống như đứa bé 2 tuổi bướng bỉnh. Trong bữa ăn tối, tay trái của ông ấy từ chối đưa dĩa cho tay phải. Trong trò chơi cờ đam, tay trái sẽ thực hiện một nước đi mà ông ấy không muốn. Ông ấy sửa lại nước đi bằng tay phải của mình, để rồi tay trái sẽ đi lại nước đó. Khi ông đang đọc sách, một tay sẽ lật lật trang sách còn tay kia thì cố gập cuốn sách lại. Đôi chân của ông ấy cũng bị ảnh hưởng phần nào, có một lần ông phát hiện thấy một chân đang cố bước xuống cầu thang trong khi chân kia thì cố bước lên.1
1. Banks, 457–458.
Trong một trường hợp khác của hội chứng bàn tay kỳ quặc, một phụ nữ 39 tuổi là nạn nhân của một vết thương do súng bắn vào đầu. Tổn thương này đã cắt rời một phần thể chai của não bộ, chức năng của nó là cho phép hai bán cầu não giao tiếp với nhau. Kết quả là, tay trái của bà có ý chí của riêng nó. Nó có một xu hướng đáng sợ là bóp cổ bà trong lúc đang ngủ, và để ngăn chuyện này, bà đã phải trói tay trái của mình lại khi nằm ngủ trên giường.1 Ở trường hợp khác của hội chứng này, tay trái của một phụ nữ tìm cách ngăn tay phải của cô hút thuốc.2
1. Banks, 456.
2. Feinberg, 98.
Những trường hợp như vậy cho thấy bộ não của chúng ta không có một trung tâm kiểm soát, không chỉ có một phần não bộ tạo ra ý định/ý chí, mà là nhiều trung tâm ra quyết định, chúng độc lập đưa ra những quyết định về những việc mà chúng ta nên làm với bản thân. Chúng giống như những viên tướng quân đội, mỗi người có ý kiến của riêng mình về kế hoạch tác chiến. Trong quân đội, tổng tư lệnh lắng nghe ý kiến của các tướng lĩnh và quyết định những việc nên làm, từ đó điều phối hoạt động của họ. Nhưng nếu một vị tướng không thể giao tiếp với tổng tư lệnh, anh ta có thể tự mình phát động một hành động tác chiến – một hành động có thể đi ngược lại với hành động của các tướng lĩnh khác cũng như kế hoạch chiến đấu do tổng tư lệnh đề ra. Trường hợp của người mắc hội chứng bàn tay kỳ quặc cũng giống như thể một vị tướng bị ngắt kết nối với trụ sở chính và đang thực hiện các hành động theo thẩm quyền của mình.
Chứng bệnh tâm thần phân liệt là một trường hợp cực đoan về một tâm trí bị chia rẽ. Những người mắc chứng tâm thần phân liệt thỉnh thoảng nghe được giọng nói bảo họ làm những việc mà “họ” không muốn làm. Bằng chứng cho thấy những giọng nói đó được sinh ra bởi một phần não bộ của người bị tâm thần phân liệt và được nghe bởi một phần não khác, không theo cách bình thường – nói bằng miệng và nghe bằng tai – mà là thông qua mạch liên lạc nội bộ của bộ não. Bởi thế, người bị tâm thần phân liệt nghe được những giọng nói mà không ai nghe thấy. Họ trải qua những ngày sống trong trạng thái tự xung đột, với ý thức – phần não bộ lắng nghe đang cố chống lại những lời đề nghị của vô thức tạo ra – tức là phần phát ra giọng nói.
Đây không phải là bằng chứng duy nhất về sự tồn tại của nhiều nguồn ham muốn trong não bộ. Các nhà khoa học thần kinh Michael Gazzaniga và Joseph LeDoux đã nghiên cứu về những hậu quả của phẫu thuật corpus callosotomies1, những phẫu thuật mà thể chai của bộ não bị cắt, do đó ngăn bán cầu này giao tiếp với bán cầu kia. Họ phát hiện thấy hai bán cầu não xử lý thông tin theo cách khác nhau và do đó có thể đi tới những kết luận khác nhau về những gì nên làm để đáp lại thông tin đang đề cập tới. Gazzaniga và LeDoux tìm ra cách dùng một thiết bị chiếu các chữ lên một màn hình mà các đối tượng tách não đang nhìn chằm chằm. Các chữ nhấp nháy ở bên trái của màn hình sẽ đi vào bán cầu não phải của đối tượng (các dây thần kinh thị giác “vắt chéo nhau” trên đường đi tới não bộ), và các chữ nhấp nháy ở bên phải sẽ đi vào bán cầu não trái. Khi Gazzaniga và LeDoux chiếu mệnh lệnh cười ở bên trái màn hình – mệnh lệnh được gửi đến bán cầu não phải của đối tượng – người này sẽ bật cười. Khi họ hỏi đối tượng tại sao anh ta cười, bộ não của đối tượng hướng câu hỏi đến khu vực xử lý giọng nói nằm ở bán cầu trái. Bởi vì sự giao tiếp giữa các bán cầu não của đối tượng đã bị tổn thương nên bán cầu não trái không biết bán cầu não phải đã nhìn thấy gì.
1. Mục tiêu trong phẫu thuật như vậy là ngăn chặn cơn động kinh phát tán từ bán cầu này sang bán cầu khác. Những cuộc phẫu thuật này dù cấp tiến nhưng kém triệt để so với phương pháp điều trị cơn động kinh bằng cách phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ một trong hai bán cầu não. (ND)
Người ta có thể kỳ vọng bệnh nhân nói rằng anh ta không biết tại sao mình lại cười, nhưng điều này đã không xảy ra. Thay vào đó, bán cầu não trái của bệnh nhân đã bịa ra một lý do để cười – chẳng hạn như bệnh nhân thấy thực nghiệm này rất khôi hài.1 Tương tự vậy, khi bán cầu não phải được trình chiếu từ “vẫy tay” thì bệnh nhân sẽ vẫy tay; khi được hỏi tại sao anh ta vẫy tay thì anh ta sẽ hợp lý hóa cho hành vi của mình và nói rằng đã nhìn thấy ai đó mà anh ta quen biết.2 LeDoux và Gazzaniga kết luận rằng mọi người thường không biết tại sao họ làm những việc họ đang làm, vì hành vi xét đến được gây ra bởi các hệ thống não bộ vận hành ngoài tầm ý thức của họ. Họ cho rằng một trong những nhiệm vụ chính của ý thức là tán phét – để tạo ra một câu chuyện mạch lạc gắn kết các hoạt động của các hệ thống não bộ khác nhau, và một cách để tạo ra câu chuyện này là đánh bạo phỏng đoán rằng lý do tại sao một hệ thống não bộ nào đó lại làm chuyện gì đó.3 Tóm lại, chúng ta dò ra những ham muốn của mình theo cách mà chúng ta dò ra những ham muốn của người khác – bằng cách quan sát hành vi của chúng ta và rút ra kết luận từ đó. Và cũng giống như việc có thể hoàn toàn nhầm lẫn về động cơ của người khác, chúng ta có thể sai lầm về động cơ của chính mình: suy luận mà chúng ta rút ra về hành vi của mình có thể chẳng liên quan gì đến thực tế.
1. Gazzaniga và LeDoux, 146–147.
2. LeDoux, 32.
3. LeDoux, 33.
Độc giả có thể thừa nhận rằng những người bị tâm thần phân liệt, những người mắc hội chứng bàn tay kỳ quặc thì ý chí của họ có thể bị phân chia. Nhưng còn những người có thể chất và tinh thần khỏe mạnh, bình thường thì sao? Có bằng chứng nào cho thấy các quá trình não bộ của chúng ta đang xung đột với nhau không?
Trừ khi chúng ta là những cá nhân phi thường, hằng ngày được nhìn thấy bằng chứng về việc ý chí bị chia rẽ. Chúng ta trải nghiệm điều mà các triết gia gọi là thiếu ý chí – tức cảm xúc cám dỗ lý trí của chúng ta. Chúng ta thấy mình muốn làm những chuyện như say xỉn, làm tình hay bộc phát cơn giận, đó là điều mà ở cấp độ cao hơn và lý trí hơn, chúng ta không muốn làm. Vào đêm giao thừa, chúng ta có thể quyết tâm bỏ rượu, một quyết tâm dường như đã bị phá vỡ ngay khi chưa hết tuần đầu tiên của tháng Một. Những quyết tâm ấy nhanh chóng bị phá vỡ cho thấy chúng ta không kiểm soát được – những thế lực có sức mạnh siêu phàm bên trong chúng ta làm nảy sinh những ham muốn, mà về mặt ý thức, chúng ta muốn đừng có chúng nhưng không có khả năng để chống lại. Quả thật, việc đặt ra quyết tâm đã cho thấy chúng ta không kiểm soát được những ham muốn của mình. Khi đặt ra quyết tâm, chúng ta đang thông báo với nhiều nguồn của ham muốn trong não bộ rằng chúng ta, chứ không phải chúng, mới là người đang nắm quyền kiểm soát. Nếu chúng ta thực sự nắm quyền thì ta chẳng cần thông báo điều ấy. (Tương tự như thế, một người trưởng thành thực sự kiểm soát được một nhóm trẻ em sẽ không cần phải thông báo rằng anh ta đang kiểm soát chúng, và anh ta càng có cảm giác thôi thúc phải thông báo điều đó thì anh ta càng ít có khả năng nắm được quyền kiểm soát).
Gazzaniga và LeDoux đã minh họa cho hiện tượng về những ham muốn trái ngược với nhau qua trường hợp tưởng tượng sau đây. George, một người đàn ông đã lập gia đình, tin rằng đàn ông nên chung thủy với vợ nhưng lại thấy bản thân vướng vào một cuộc tình vụng trộm. Lúc đầu anh ta chỉ coi mối tình vụng trộm này như một cuộc chơi bời, nhưng khi tiếp tục, anh thấy nó gây ra nhiều khổ sở tinh thần. Anh nhận ra hành vi của mình đi ngược lại với những giá trị mà anh tuyên bố và điều này làm anh phiền muộn. Nỗi khổ của George vẫn cứ tiếp tục cho đến khi anh chấm dứt cuộc tình hoặc thay đổi các giá trị của anh, ví dụ anh tiếp tục ngoại tình và giữ niềm tin rằng đàn ông đã kết hôn nên chung thủy với những cô tình nhân của họ và lựa chọn ly dị vợ.
Tình cảnh của George nêu lên hai câu hỏi: Tại sao những ham muốn trái ngược với nhau lại nảy sinh, và tại sao George lại thấy tình cảnh này quá ư khổ sở? Để trả lời câu hỏi đầu tiên, Gazzaniga và LeDoux đưa ra một lý thuyết, dựa trên nghiên cứu của họ với các bệnh nhân có bộ não bị phân tách. Họ cho rằng các hệ thống não bộ sinh ra ham muốn khác nhau (hay “các tiêu chuẩn chức năng”) đang hoạt động trong não bộ. Một số hệ thống này hoạt động cùng nhau và nằm dưới sự kiểm soát của hệ thống ngôn ngữ đang nắm quyền thống trị não bộ và do đó làm nảy sinh những ham muốn “lý trí”, có ý thức. Những hệ thống tạo ra ham muốn khác thì vận hành ngoài sự nhận biết của hệ thống ngôn ngữ não bộ và vì vậy nằm ngoài tầm kiểm soát của nó. Chúng ta chỉ trở nên ý thức được sự tồn tại của những hệ thống đó khi chúng làm phát sinh những ham muốn và chúng ta – đúng hơn là hệ thống ngôn ngữ của não bộ – nhận thấy cần phản đối chúng.1 Trong trường hợp của George, ham muốn ngoại tình được sinh ra bởi một trong những hệ thống khác đó.
1. Gazzaniga và LeDoux, 157.
Đôi khi, hệ thống ngôn ngữ nắm quyền thống trị không chống lại những ham muốn mà nó tạo ra, thay vào đó là tìm cách bao biện cho chúng. Khi nhận thấy chúng ta đang tham gia thực hiện hành vi nào đó, nó đưa ra một lý do nghe có vẻ hợp lý rằng tại sao chúng ta nên hành xử theo như thế. Đây là những gì mà LeDoux và Gazzaniga quan sát được trong nghiên cứu về bộ não phân tách và Gazzaniga cho rằng: điều này cũng xảy ra ở những ai có thể chai trong não bộ còn nguyên vẹn.1
1. Xem “Brain Modularity” của Gazzaniga.
Hãy xét lại về ví dụ tương tự về tướng lĩnh quân đội được trình bày trong cuộc thảo luận của chúng ta về hội chứng bàn tay kỳ quặc. Trong một thế giới hoàn hảo thì quân đội làm theo lý trí: tư lệnh tối cao quyết định nên làm việc gì, và các tướng lĩnh thực thi mệnh lệnh của ông ta. Tuy nhiên, trong trường hợp của bộ não, “tư lệnh tối cao” – theo LeDoux và Gazzaniga là nằm ở bên trái của bộ não và kết nối với khu vực xử lý lời nói của não bộ – không đưa ra nhiều mệnh lệnh mà lại làm công việc biện hộ cho hành động của những viên tướng đang làm. Vị tư lệnh tối cao này sẽ quan sát một trong những tướng lĩnh cấp dưới đang cố gắng tấn công trực diện vào một pháo đài bất khả xâm phạm và đáp lại không phải bằng cách bày tỏ sự ngạc nhiên mà bằng cách bình thản lẩm bẩm: “Một ý tưởng hay. Đó hẳn là việc mà mình muốn anh ta làm.”
Để trả lời cho câu hỏi khác của chúng ta về George – tại sao anh ấy khổ sở vì những ham muốn trái ngược nhau của mình – chúng ta có thể viện dẫn tới tâm lý học tiến hóa. Khi những ham muốn của ta xung đột, chúng ta trên thực tế đang xung đột với bản thân mình và điều này khiến ta khó mà ứng phó với thế giới xung quanh. Một phe trong chúng ta sẽ tìm cách hủy hoại những gì mà phe kia đạt được. Tổ tiên tiến hóa của chúng ta, những người tự chiến đấu với chính mình thì không có khả năng tồn tại. Vì lý do này mà sự tiến hóa đã trao cho chúng ta một động lực để né tránh những bất hòa nội tâm – chúng ta trải nghiệm cảm giác khổ sở mà các nhà tâm lý gọi là sự bất hòa về nhận thức. Cách duy nhất để xóa bỏ cảm giác này là tuyên bố một người chiến thắng trong cuộc tranh cãi nội tâm và tiếp tục cuộc sống.
Nhà tâm lý học tiến hóa Leda Cosmides và John Tooby cho rằng các hệ thống của tâm trí ta hay các mô-đun được thiết kế bởi sự tiến hóa thích nghi cho các mục đích cụ thể. Tâm trí tựa như một con dao quân dụng Thụy Sỹ. Tương tự như con dao có các lưỡi dao và công cụ khác nhau để thực hiện những chức năng khác nhau, tâm trí được cấu tạo bởi các mô-đun khác nhau, mỗi mô-đun thực hiện một chức năng tinh thần khác nhau mà trong quá khứ tiến hóa của chúng ta đã chứng minh là có lợi cho sự tồn tại và sinh sản.1
1. Badcock, 22
Nhà tâm lý học Timothy Wilson gọi tập hợp các mô-đun tâm lý vận hành ngoài sự nhận biết của chúng ta là cái vô thức thích nghi.2 Wilson xác nhận rằng, một chức năng của vô thức mang tính thích nghi là đặt ra mục tiêu và khởi phát hành động. Một chức năng khác là giải thích về thế giới xung quanh chúng ta. Cụ thể là, khi vô thức thích nghi phát hiện ra mối nguy hiểm, nó sẽ cảnh báo chúng ta. Và theo Wilson, vô thức thích nghi không chỉ giải thích, mà còn cảm nhận. Theo ông, những gì đang diễn ra trong tâm trí ý thức của chúng ta chỉ là một phần nhỏ của những gì đang diễn ra trong đầu óc ta tại bất kỳ thời điểm nào. Thay vào đó, nhiều “ý nghĩ” của chúng ta diễn ra trong vô thức thích nghi.
2. Wilson, vii.
Theo Wilson, ý thức đẩy nhiều quá trình suy nghĩ vào vô thức thích nghi, như cái cách mà phi công của một máy bay phản lực đẩy hoạt động của nhiều chức năng trên máy bay cho các hệ thống máy tính “vô hình”. Vô thức thích nghi xử lý thông tin theo cách “nhanh chóng, vô thức và ngoài tầm kiểm soát”1, vì nếu không chúng ta sẽ bị quá tải bởi thông tin, như vậy cũng là một điều tốt. Wilson cho rằng, khá hợp lý, vô thức thích nghi đã có đầy đủ chức năng ở động vật trước khi chúng có được ý thức.
1. Wilson, 88–89.
Mặc dù vô thức thích nghi là một phần của tâm trí chúng ta, nhưng chúng ta khó mà tiếp cận được nó. Chúng ta chỉ có thể biết đến nó nhờ suy luận bằng cách quan sát hành vi của bản thân rồi sau đó đưa ra phỏng đoán về những gì hẳn là phải xảy ra trong vô thức thích nghi của chúng ta để giải thích cho hành vi đó. Kết quả là, Wilson viết: “Có rất nhiều thứ về bản thân mà ta không thể biết được trực tiếp, ngay cả với sự tự xem xét nội tâm một cách cẩn thận nhất.”2 Do đó, câu châm ngôn “Hãy hiểu chính mình” có thể khó làm theo hơn người ta muốn.
2. Wilson, vii.
Khi ra quyết định, chúng ta thường dễ bị ảnh hưởng bởi “chúng ta” – tức bản ngã có ý thức – mà không hề hay biết, nhưng bản ngã vô thức của chúng ta phản ứng lại. Timothy Wilson, cùng với nhà tâm lý học Richard Nisbett, đã nghĩ ra một số thực nghiệm để tiết lộ về hiện tượng này. Ở một trong những thực nghiệm này, các sinh viên đại học ghi nhớ danh sách các cặp từ và sau đó được yêu cầu đặt tên cho một chất tẩy rửa. Những sinh viên có danh sách cặp từ bao gồm cặp “đại dương – mặt trăng” có khả năng đặt tên Tide cho chất tẩy rửa cao gấp hai lần so với những sinh viên không có cặp từ ấy. Khi Nisbett và Wilson hỏi sinh viên tại sao họ lại đặt tên là Tide, họ hầu như không bao giờ nói là tại vì họ đã tiếp xúc với cặp từ “đại dương – mặt trăng”. Thay vào đó họ có thể nói rằng Tide là loại bột giặt nổi tiếng nhất, rằng Tide là loại bột giặt mà mẹ họ đã dùng hoặc họ thích hộp Tide. Rõ ràng là họ đã bị ảnh hưởng bởi việc tiếp xúc với cặp từ “đại dương – mặt trăng”, nhưng lại không biết việc tiếp xúc đã ảnh hưởng tới họ như thế nào.1
1. Nisbett và Wilson, 243.
Trong thực nghiệm khác, Nisbett và Wilson, dưới danh nghĩa thực hiện một cuộc khảo sát tiêu dùng, đã yêu cầu mọi người đánh giá bốn đôi tất sợi nylon với câu hỏi: Họ nghĩ đôi nào trong bốn đôi có chất lượng tốt nhất? Thực ra thì bốn đôi tất này giống hệt nhau, vì vậy người ta có thể mong đợi rằng họ sẽ nói chúng có chất lượng tương đương. Tuy nhiên, các đối tượng trong thử nghiệm nói rằng họ có thể phát hiện ra sự khác biệt đáng kể về chất lượng. (Thật lạ lùng, họ có xu hướng nghĩ rằng những đôi tất nằm bên phải màn hình có chất lượng tốt nhất, trong khi những đôi nằm bên trái màn hình có chất lượng thấp nhất; quả thực, số người ưa chuộng những đôi tất ngoài cùng bên phải nhiều gấp bốn lần số người ưa chuộng những đôi bên trái). Các đối tượng có thể đưa ra lý do cho sự lựa chọn của họ, mặc dù sự lựa chọn của họ là vô lý khi các đôi tất đều giống hệt nhau.2
2. Nisbett và Wilson, 243–244.
Người ta có thể tin rằng sẽ có khá nhiều và cũng thật đầy đủ kiến thức về cách mà chúng ta đi đến quyết định nào đó. Suy cho cùng, chúng ta có thể tiếp cận trực tiếp vào tâm trí của mình, và tâm trí chính là nơi đưa ra các quyết định. Tuy nhiên, các thực nghiệm được mô tả ở trên cho thấy một chiều hướng quan trọng, rằng chúng ta không hiểu được tâm trí của chính mình – chúng ta hoàn toàn có thể đưa ra quyết định mà không hiểu đầy đủ lý do tại sao lại đưa ra quyết định đó. Quả thực, theo Nisbett và Wilson, hiểu biết của chúng ta về lý do tại sao lại đưa ra quyết định nào đó có thể chẳng khá khẩm gì hơn hiểu biết của ta về lý do tại sao người khác, người mà ta thiếu sự tiếp cận trực tiếp với tâm trí họ, đưa ra quyết định. Tóm lại, hiểu biết của bạn về lý do tại sao tôi đưa ra một quyết định nào đó có thể tốt bằng, hay thậm chí tốt hơn cả hiểu biết của chính tôi về lý do tại sao tôi lại đưa ra một quyết định.
Nghiên cứu được mô tả ở trên có những ứng dụng rõ ràng trong thương mại. Với vai trò là người tiêu dùng, khi chúng ta quyết định mua một sản phẩm cụ thể thì quyết định đó thường hợp lý một nửa. Ham muốn mua một thứ gì đó nảy sinh từ sâu bên trong chúng ta và một khi nhận ra sự tồn tại của ham muốn này, chúng ta bắt đầu dựng lên những lý do giải thích tại sao đó là một ham muốn chính đáng và ta nên làm theo ham muốn đó. Tất nhiên là các nhà quảng cáo nhận ra điều này. Họ thiết kế những mẫu quảng cáo sẽ kích hoạt quá trình hình thành ham muốn trong vô thức của chúng ta và sau đó giúp chúng ta hợp lý hóa ham muốn do quảng cáo tạo ra.
Chúng ta dành những tháng ngày làm việc để đạt được những thứ mà ta ham muốn và nghĩ rằng chỉ khi nào ta có được thứ mình muốn thì ta sẽ tìm được hạnh phúc lâu dài. Những nỗ lực của chúng ta được đền đáp và chúng ta có được thứ mình muốn, nhưng năm lần bảy lượt, chúng ta thấy việc giành được thứ mình muốn chỉ mang lại hạnh phúc tạm thời hoặc chẳng hề hạnh phúc. Tại sao khi giành được thứ mình muốn, chúng ta lại không thể có được hạnh phúc mãi mãi? Tại sao chúng ta lại không biết thỏa mãn với những gì mình có? Nghiên cứu tâm lý đưa ra một phần đáp án cho những câu hỏi này.
Theo các nhà tâm lý Daniel Gilbert và Timothy Wilson, chúng ta có một xu hướng đáng buồn là “miswant” (ham muốn sai lầm) – muốn những thứ mà ta sẽ không thích một khi có được chúng. Họ nhận định rằng: “Trong một thế giới hoàn hảo, ham muốn sẽ khiến con người cố gắng, cố gắng sẽ giúp con người lấy được, [và] lấy được sẽ khiến con người thích thú.”1 Nhưng thế giới của chúng ta không hoàn hảo. Cụ thể là, những dự đoán của chúng ta về thứ mà ta sẽ thích có xu hướng sai lầm, thành thử, chúng ta có xu hướng muốn những thứ mà, khi ta có được chúng, sẽ chẳng tạo ra mấy khác biệt đối với mức độ hạnh phúc hiện tại của chúng ta. (Gilbert ngụ ý rằng: vấn đề không ở chỗ là bạn không phải lúc nào cũng có được thứ mình muốn, mà vấn đề là bạn không phải lúc nào cũng biết mình muốn gì).2
1. Gilbert và Wilson, 179.
2. Gertner, 46.
Đôi lúc chúng ta ham muốn sai lầm vì ham muốn mà ta tạo ra được dựa trên một giả thuyết sai lầm về những thứ sẽ làm chúng ta hạnh phúc. Ví dụ, vì làm việc quá sức nên ta có thể mơ tưởng về một kỳ nghỉ được nằm dài trên bãi biển mà không phải làm gì, nhưng đến khi thực sự đang nằm trên bãi biển thì ta lại cảm thấy buồn chán. Hoặc chúng ta có thể ham muốn sai lầm vì những cảm xúc được kích hoạt bởi các sự kiện trong cuộc đời chúng ta “làm vấy bẩn” những ham muốn mà ta hình thành sau đó. Giả sử, vào khoảnh khắc sau khi nghe tin mình đã giành được một giải thưởng danh giá nào đó thì có người gọi điện để hỏi liệu chúng ta có thể làm việc tại một hiệu súp địa phương trong bốn ngày cuối tuần tới được không. Cơn phấn khích của chúng ta về chuyện thắng giải có thể ảnh hưởng đến những suy nghĩ về chuyện làm việc tại hiệu súp địa phương – chúng ta có thể tưởng tượng ra cảnh làm việc ở đó và cũng sẽ cảm thấy hào hứng như cảm giác của ta trong hiện tại. Trong trạng thái tâm lý này, chúng ta có thể nhận lời làm việc tại hiệu súp, nhưng lúc làm ở đó, ta có thể cảm nhận thấy bất cứ điều gì, ngoại trừ niềm phấn khích, để rồi tự hỏi làm sao mà ta lại đưa mình vào tình cảnh khó chịu này.1
1. Gilbert và Wilson, 179–183.
Bên cạnh việc đánh giá sai việc đạt được hoặc không đạt được thứ ta muốn sẽ tác động ra sao, theo Gilbert và Wilson, chúng ta cũng có xu hướng đánh giá sai về khoảng thời gian và điều đó sẽ ảnh hưởng tới chúng ta: “Con người có khuynh hướng đánh giá quá cao khoảng thời gian của những phản ứng cảm xúc của họ trước những sự kiện trong tương lai – đặc biệt là những sự kiện tiêu cực, và điều này có thể khiến họ có ham muốn sai lầm về lâu dài.” Khi hỏi một người trợ lý giáo sư về việc không được vào biên chế sẽ ảnh hưởng đến anh ta như thế nào, anh ta có lẽ sẽ nói rằng: “Đúng là việc đó sẽ khiến anh ta vô cùng đau khổ và nỗi đau khổ tột cùng ấy sẽ kéo dài rất lâu”. Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ ra rằng người trợ lý giáo sư không được vào biên chế ấy sẽ phục hồi khá nhanh và chẳng bao lâu sau, anh ta cũng hạnh phúc chẳng kém những người trợ lý giáo sư được vào biên chế.2
2. Gilbert và Wilson, 186.
Ai đó có thể cho rằng việc các trợ lý giáo sư dự đoán không chính xác về vấn đề trên là điều bình thường vì đa số các trợ lý giáo sư chưa từng bị rơi vào hoàn cảnh thất bại trong việc được nhận vào làm giáo viên chính thức, và do đó đưa ra dự đoán của họ trên cơ sở của dữ liệu chưa đầy đủ. Nhưng ngay cả khi chúng ta chuyển sự chú ý sang những sự kiện mà mọi người thường trải qua, họ vẫn đưa ra những dự đoán sai lầm về việc những sự kiện được đề cập sẽ ảnh hưởng đến họ như thế nào trong tương lai. Giả sử, chúng ta có thể hỏi những người hâm mộ thể thao việc đội tuyển yêu thích của họ thua cuộc trong trận đấu lớn hoặc hỏi những cử tri khi ứng viên yêu thích của họ thua trong cuộc bầu cử sẽ ảnh hưởng đến cảm xúc của họ ra sao. Mặc dù từng trải qua những kiểu mất mát như thế này trong quá khứ, họ sẽ có xu hướng đánh giá sai về ảnh hưởng của trận thua này đến bản thân: họ tin rằng nỗi đau khổ của thất bại sẽ mãnh liệt và kéo dài lâu hơn hơn so với thực tế.1
1. Gilbert và Wilson, 186–187.
Giả sử chúng ta có thể tránh được ước muốn sai lầm và tự nhủ bản thân chỉ ham muốn những thứ mà khi có được chúng ta sẽ thích thú. Dù vậy, sự ham muốn vô độ của chúng ta vẫn không được chữa khỏi. Nguyên nhân là do hiện tượng tâm lý “sự thích nghi” – chúng ta có xu hướng quen thuộc với những thứ ta đã có và do đó ít thích nó hơn theo thời gian.2 Chúng ta ngày càng thờ ơ với người bạn đời, ngôi nhà hay chiếc xe mà ta từng yêu thích và tự hào, và bởi vì ta không còn thỏa mãn với những thứ mình có nên chúng ta lại hình thành những ham muốn mới với niềm tin rằng khi thỏa mãn chúng – không giống như khi chúng ta thỏa mãn những ham muốn trước đây của mình – sẽ mang lại hạnh phúc dài lâu.
2. Xem Frederick và Lowenstein.
Hai hiện tượng tâm lý này, ham muốn sai lầm và sự thích nghi, nằm ở trung tâm của sự ham muốn vô độ của con người. Chúng ta làm việc chăm chỉ để thỏa mãn những ham muốn mà ta tìm thấy trong mình với niềm tin rằng làm thế sẽ mang lại cho ta sự mãn nguyện. Trong một số trường hợp, chúng ta có được điều mình muốn để rồi phát hiện ra, nhờ ước muốn sai lầm, chúng ta thực lòng chẳng muốn nó. Do đó, chúng ta chỉ trải nghiệm sự thỏa mãn nhất thời mà thôi. Trong những trường hợp khác, khi có được điều mình muốn, chúng ta thấy điều đó rất đáng khao khát, nhưng tính đáng khao khát của nó giảm dần theo thời gian, vì chúng ta đã thích nghi với sự hiện diện của nó trong cuộc đời mình. Không lâu sau, cảm giác bất mãn cũ của ta quay trở lại. Nhờ ước muốn sai lầm và sự thích nghi, hầu hết mọi người dành cả cuộc đời của họ cho cái mà nhà tâm lý học kinh tế Daniel Kahneman gọi là vòng xoáy thỏa mãn (satisfaction treadmill).1
1. Kahneman, 14.
Làm sao ta có thể thoát khỏi vòng xoáy thỏa mãn? Làm sao chúng ta có thể tận hưởng sự bình thản khi mà điều đó dường như bất khả thi nếu cứ chạy theo việc thỏa mãn chuỗi ham muốn không có hồi kết? Trước tiên, chúng ta có thể thực hiện các biện pháp nhằm tránh ham muốn sai lầm: chúng ta có thể nghiên cứu cách thức mà ta hình thành ham muốn và học cách phân biệt những thứ nào thật sự đáng khao khát, lập kế hoạch cho cuộc đời và tránh với những thứ có vẻ đáng mơ ước ở hoàn cảnh hiện tại hoặc trạng thái tâm lý hiện tại của chúng ta thôi. Chúng ta cũng có thể tiến hành các bước nhằm ngăn cản quá trình thích nghi. Đặc biệt, chúng ta có thể chủ ý cố gắng tiếp tục muốn những thứ mà ta đã có. Như sẽ thấy ở Phần 3 của cuốn sách này, mặc dù các thuật ngữ ham muốn sai lầm và sự thích nghi là của thời hiện đại, các trí giả đã hiểu từ hàng ngàn năm qua rằng các hiện tượng đó là nguyên nhân gốc rễ của nhiều nỗi bất mãn ở con người.
Nhà tâm lý Arthur S. Reber đã đưa ra tóm tắt các nghiên cứu tâm lý về việc ra quyết định: “Trong những năm 1970, các bằng chứng cho thấy mọi người thường không xử lý vấn đề, đưa ra quyết định hay đi đến kết luận nhờ việc áp dụng các kiểu quy trình hợp lý, có ý thức và theo tiêu chuẩn – những công cụ mà họ cho rằng mình đang sử dụng.” Trái lại, có thể mô tả đúng nhất về con người, trong phần lớn quá trình ra quyết định của họ, là “không có lý trí”: “Khi quan sát con người đưa ra sự lựa chọn và giải quyết những vấn đề phức tạp đầy thú vị thì những yếu tố như logic và lý trí thường mất tích.”1
1. Reber, 13.
Nhà tâm lý học Robert Zajonc đưa tuyên bố này tiến thêm một bước: “Đối với phần lớn các quyết định, rất khó để chứng minh rằng thực sự đã có bất kỳ quá trình nhận thức nào diễn ra trước đó.”2 Không phải các quyết định mà con người đưa ra là phi lý trí mà là quá trình đưa ra quyết định hoàn toàn không giống như quá trình từng bước hợp lý như giải một bài toán. Các quyết định thường được đưa ra trong vô thức, bởi một số quá trình còn là ẩn số. Quả thật, theo Reber, con người không chỉ không biết quá trình ra quyết định của họ hoạt động như thế nào, mà thậm chí còn không biết nó tiếp nhận thông tin đầu vào nào.3
2. Zajonc, “Feeling and Thinking: Preferences Need No Inferences,” 155.
3. Reber, 13.
Daniel Wegner đồng tình rằng quá trình ra quyết định thường kém lý trí: “Chúng ta thường không suy nghĩ trước một cách có ý thức về tất cả những thứ ta làm, mặc dù chúng ta cố gắng duy trì vẻ bề ngoài như vậy. Dường như sự không rõ ràng của những ý muốn chẳng khiến chúng ta bận lòng, chúng ta tiếp tục hành động và chỉ biết được mình đang làm gì vào lúc ta làm hoặc sau đó. Và khá ấn tượng, sau đó, ý thức về ham muốn cho những hành động vốn không có kế hoạch hình thành trước, và nó thậm chí còn tiếp tục khăng khăng cho rằng chúng ta đã dự tính cả rồi.”4
4. Wegner, 145.
Theo Wegner, con người có “một lý tưởng về quyền tự quyết có ý thức”.5 Chúng ta tin chắc rằng mình chủ ý kiểm soát được những hành động của bản thân, rằng chúng ta chịu trách nhiệm cho bản thân mình. Khi đi lệch lý tưởng này – chúng ta thấy mình đang làm việc gì đó mà ta không lựa chọn để làm – chúng ta che giấu sự thật này với bản thân bằng cách sáng tạo, chỉnh sửa niềm tin của ta về những điều mà ta mong muốn.6 Theo Wegner, chiến lược này cuối cùng lại “đưa chúng ta đến một tình thế kỳ lạ, khiến ta phải luôn cho rằng mình hoàn toàn ý thức được ham muốn trong những hành động mà ta chẳng hề hiểu hay thậm chí nhớ được. Điều này chỉ để giữ vỏ bọc rằng bản thân ta chính là tác nhân có ý chí”.7
5. Wegner, 146.
6. Wegner, 171.
7. Wegner, 147.
Ý tôi không phải là việc ra quyết định của chúng ta hoàn toàn là phi lý trí. Hãy xét lại về ham muốn phương tiện tôi đã đề cập. Giả sử, tôi muốn X và biết rằng làm Y sẽ mang lại X cho tôi. Trong những trường hợp này, tôi có lẽ sẽ quyết định làm Y. Quyết định này hoàn toàn lý trí, khi xét đến việc tôi muốn X. Và bởi vì đa số ham muốn của chúng ta là ham muốn phương tiện, nên suy ra đa số ham muốn của chúng ta là lý trí, tùy từng tình huống. Chính sự thật này, cũng như những điều khác, làm phát sinh quan điểm phổ biến cho rằng những ham muốn của chúng ta là lý trí.
Nhưng như ta đã thấy, ham muốn làm nảy sinh những ham muốn phương tiện, bản thân nó có thể là không lý trí. Cụ thể là, ham muốn về X của tôi có thể không lý trí: Tôi có thể không đưa ra quyết định rằng tôi muốn X; trái lại, ham muốn này chỉ đơn giản chợt lóe lên trong đầu tôi. Trong trường hợp này, ham muốn làm Y của tôi là một phương pháp lý trí để theo đuổi một mục tiêu phi lý trí, và do đó bản thân ham muốn làm Y của tôi theo nghĩa nào đó là phi lý trí. Ví dụ, giả sử tôi thích bánh burrito (một món bánh truyền thống của Mexico), và để ăn bánh, tôi lái xe đến một nhà hàng. Ham muốn lái xe đến nhà hàng của tôi là hoàn toàn hợp lý, khi xét đến việc tôi thích ăn bánh burrito. Ngược lại, sở thích ăn bánh burrito của tôi lại không thể biện minh một cách hợp lý: Tôi thích chúng, chỉ thế thôi. Vì lý do này mà ham muốn lái xe đến nhà hàng của tôi, trong phân tích cuối cùng, được biện minh một cách hợp lý là một ham muốn phi lý trí.
Về phương diện này, Zajonc cho rằng nhiều quyết định của chúng ta chỉ đơn giản là sự phản ánh cho những điều yêu và ghét của ta: “Rất nhiều lần, việc ‘Tôi quyết định ủng hộ X’ cũng chẳng khác nào ‘Tôi thích X’.” Thường thì, thông tin thu thập được về những lựa chọn sẽ phục vụ việc biện minh về sau cho những ham muốn hơn là giúp chúng ta đưa ra quyết định. Chúng ta tậu chiếc xe hơi mà ta “thích”, chọn công việc và ngôi nhà mà ta thấy “hấp dẫn” và sau đó biện minh cho những lựa chọn đó bởi nhiều lý do mà có vẻ như thuyết phục được người khác.”1 Nhưng các thực nghiệm được tiến hành bởi Zajonc và những người khác cho thấy những sự yêu và ghét của chúng ta thường được hình thành trong tiềm thức: “Những sở thích có thể được phát triển mà người tham gia không hề ý thức được nguồn gốc của những sở thích đó.”2 Ông kết luận rằng những sự yêu và ghét của chúng ta không chỉ được hình thành theo cách phi lý trí mà còn thường xuyên diễn ra: “Sở thích chẳng cần đến lý luận.”3 Nhưng nếu những điều yêu thích của chúng ta là phi lý trí, thì những ham muốn mà chúng ta tạo ra dựa trên những điều yêu thích ấy cũng như vậy.
1. Zajonc, “Feeling and Thinking: Preferences Need No Inferences,” 155.
2. Zajonc, “Feeling and Thinking: Closing the Debate over the Independence of Affect,” 44.
3. Zajonc, “Feeling and Thinking: Closing the Debate over the Independence of Af- fect,” 31.
Zajonc chắc chắn không phải là người đầu tiên nhận ra việc chúng ta hình thành những sở thích của mình theo cách phi lý trí và thuộc về tiềm thức. Nhà tâm lý học William Carpenter ở thế kỷ 19 từng bình luận về cách mà “cảm xúc của chúng ta đối với con người và sự vật có thể trải qua những thay đổi quan trọng nhất, nhưng ta gần như không nhận ra, cho đến khi chúng ta chú ý đến trạng thái tinh thần của chính mình, về sự thay đổi đã diễn ra trong chúng”. Quả thực, ông chỉ ra rằng khi chúng ta phải lòng ai đó, chúng ta thường là người cuối cùng nhận ra điều đó: “Sự tồn tại của một mối quan hệ đôi lứa thường bị phát hiện bởi một người ngoài cuộc (đặc biệt, nếu sự nhận biết này được mài giũa bởi lòng ghen tuông thì những khoảnh khắc nhỏ mà người bình thường không chú ý cũng trở thành dấu hiệu được người này diễn giải bằng trực giác), trước khi một trong hai bên phát hiện ra.” Carpenter cũng nhận định, với cái nhìn sâu sắc rằng, những điều thích và ghét trong vô thức của chúng ta có thể mạnh mẽ hơn và nguy hiểm hơn những điều thích và ghét trong ý thức vì “chúng ta không thể cảnh giác đề phòng chúng”.1
1. Carpenter, 539–543.
Tại sao chúng ta lại chấp nhận lý tưởng về quyền tự quyết có ý thức? Nói cách khác, tại sao chúng ta muốn những lựa chọn của mình là sự lựa chọn có ý thức? Một phần vì áp lực xã hội. Như Wegner chỉ ra, nếu bạn không thể trả lời được câu hỏi “Bạn đang làm gì?” thì những người xung quanh có thể tin rằng bạn đang ngủ gật, nghiện thuốc, hoặc điên khùng. Để tránh việc người khác nghĩ như thế về ta, chúng ta bịa ra lý do cho những việc mà ta làm. Quả thật, chúng ta thậm chí có thể nói rằng ta muốn làm những việc mà bản thân không có khả năng muốn làm.2
2. Wegner, 149.
Nhưng ngay cả khi không có ai xung quanh để gây ấn tượng, chúng ta chấp nhận lý tưởng về quyền tự quyết có ý thức bởi lý do đơn giản là chúng ta muốn được tự do. Chúng ta không muốn việc đưa ra lựa chọn của mình là một ảo tưởng, chỉ đơn thuần là sự phản ánh của những quá trình não bộ sâu xa mà ta không ý thức được và ta không có quyền kiểm soát. Chúng ta sợ rằng những lựa chọn như thế sẽ không có ý nghĩa. Chúng ta sẵn sàng dốc sức để giữ gìn, nếu không phải là sự tự do đích thực thì ít ra cũng là cảm giác ta đang tự do. Một cách để đạt được điều này là liên tục bịa ra những lý do giải thích tại sao ta đang làm những việc mà ta đang làm: Chúng ta làm việc đó vì ta muốn làm, chứ không phải vì một số quá trình não bộ sâu xa khiến ta làm như vậy.
Những gì thực sự diễn ra khi chúng ta đưa ra một quyết định là những thứ như thế này. Chúng ta nghiền ngẫm về quyết định đưa ra. Sau đó khoảnh khắc kỳ diệu đến: chúng ta ra quyết định, chúng ta cam kết với một đường lối hành động. Điều gì xảy ra trong khoảnh khắc đó là một bí ẩn. Trước khoảnh khắc đó, chúng ta không muốn làm việc gì đó, sau khoảnh khắc đó thì chúng ta làm. Quyết định không được đưa ra ở cấp độ ý thức. Ngược lại, nó nảy sinh từ vô thức của chúng ta như một hộp hình nộm (có lò xo, khi mở nắp hộp thì hình nộm bật lên). Và ngay khi ta ý thức được về những thứ mà “chúng ta” đã quyết định thì trí tuệ của ta vơ hết mọi công trạng. “Ý tưởng hay. Đó phải là những gì mà ta muốn làm” – nó lầm bầm.
Trong việc đưa ra quyết định, chúng ta cố tiến hành theo cách hợp lý, nhưng quá trình phân tích thường là sự giả tạo. Ví dụ, chúng ta có thể lập một danh sách gồm những ưu nhược điểm. Vấn đề với danh sách đó là chúng ta thường xuyên gian lận trong quá trình lập ra chúng. Khi danh sách không hướng vào cột “bên phải”, chúng ta sẽ vắt óc nghĩ ra thêm các mục để đưa vào; khi điều đó không có hiệu quả, chúng ta sẽ quyết định rằng các mục ở cột “bên phải”, dù ít hơn về số lượng, nhưng có sức thuyết phục hơn. Và nếu điều đó thậm chí vẫn không có tác dụng, chúng ta đơn giản là sẽ ném cái danh sách đó đi hoặc để quên nó ở đâu đó. Danh sách này không giống như một kỹ thuật phân tích để đưa ra một quyết định vì nó là một công cụ để hợp lý hóa cho một quyết định mà tự trong sâu thẳm đã được đưa ra.
Một trong những điều mà tôi dạy cho các sinh viên của mình là lý thuyết quyết định – các kỹ thuật để đưa ra quyết định một cách hợp lý. Tôi cũng báo trước với họ rằng những kỹ thuật này có giới hạn của chúng. Một điều cần lưu ý là lý thuyết quyết định chỉ có hiệu quả nếu bạn đã biết các kết quả khác nhau có mức độ đáng khao khát như thế nào. Lý thuyết quyết định có thể cho bạn biết cách gia tăng khả năng đạt được bất kỳ điều gì bạn mong muốn, nhưng nó không thể cho bạn biết thứ gì là đáng khao khát. Theo lời của triết gia Michael Resnik: “Lý thuyết quyết định không nhận ra sự khác biệt nào – dù là về đạo đức hay lý trí – giữa các mục tiêu: tự sát, trở thành kẻ bạo dâm, kiếm được một triệu đôla hay trở thành một giáo sĩ.”1
1. Resnik, 5.
Hơn nữa, lý thuyết quyết định lại là một vòng tròn không hồi kết: người ta cần quyết định xem nên sử dụng lý thuyết quyết định nào để giải quyết việc quyết định của mình. Chẳng hạn, trong cuốn sách giáo khoa của ông về lý thuyết quyết định, Resnik mô tả bốn quy tắc khác nhau mà chúng ta có thể sử dụng trong việc ra quyết định cơ bản.1 Nhưng bản thân các quy tắc cũng bất nhất: nếu chúng ta sử dụng quy tắc Tối đa hóa cực tiểu để đánh giá một bảng quyết định, lý thuyết quyết định sẽ khuyên chúng ta đưa ra một lựa chọn nhất định, nhưng nếu chúng ta sử dụng quy tắc Tối đa hóa cực đại hối tiếc để đánh giá cùng một bảng, thì lý thuyết quyết định sẽ khuyên chúng ta chọn cách khác. Như vậy, quyết định của chúng ta về việc sử dụng quy tắc nào sẽ ảnh hưởng đến quyết định mà lý thuyết quyết định khuyên chúng ta đưa ra, có nghĩa là nếu chúng ta không có được khả năng ra quyết định mà không có sự trợ giúp của lý thuyết quyết định thì chúng ta sẽ gặp khó khăn trong việc áp dụng nó. Resnik thừa nhận rằng: “Để tránh sự hồi quy vô hạn của các phân tích quyết định, bất kỳ ứng dụng nào của lý thuyết [quyết định] rốt cuộc phải được dựa trên những lựa chọn được đưa ra mà không xét đến lợi ích của việc ứng dụng đó và nhiều lựa chọn trong số những lựa chọn ấy được đưa ra bằng trực giác của chúng ta chứ không phải bằng lý trí.”2
1. Resnik, 26–40.
2. Resnik, 11–12.
Lý thuyết quyết định có xu hướng hữu hiệu nhất đối với những quyết định nhỏ nhặt, chẳng hạn như khi bạn đang ở sòng bạc, cố đưa ra quyết định nên chơi trò xúc xắc hay bàn quay rulet. Đối với những quyết định lớn nhất của cuộc đời, chẳng hạn như kết hôn hay sinh con, điều đó hầu như vô ích.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta trải qua cuộc chiến giữa lý trí và cảm xúc. Chúng ta được dạy phải tin tưởng vào lý trí và không nên tin tưởng vào cảm xúc của mình. Chúng ta được cảnh báo rằng nếu để cảm xúc cản trở quá trình ra quyết định thì sẽ phạm sai lầm. Tôi đồng ý với lời khuyên này – quả thật, tôi từng nỗ lực để trở thành Người đàn ông Lý trí – cho đến khi tôi đọc được nghiên cứu của nhà thần kinh học Antonio Damasio, người chuyên giúp đỡ những bệnh nhân bị tổn thương não làm họ mất đi năng lực cảm xúc nhưng không làm tổn hại đến năng lực lý trí của họ. Nói cách khác, các bệnh nhân của ông là những con người tương tự với những người ngoài hành tinh Vulcan trong bộ phim nổi tiếng Star Trek, họ đầy lý trí nhưng lại vô cảm. Điều gây tò mò về những bệnh nhân của Damasio là tình trạng thiếu cảm xúc của họ, thay vì giúp cải thiện khả năng ra quyết định, thì lại làm họ mất đi khả năng này.
Damasio đang cố gắng lên lịch một cuộc hẹn với một bệnh nhân cực kỳ lý trí như vậy và ông đưa ra hai ngày để gặp nhau. Damasio nói với chúng tôi rằng, hành vi của bệnh nhân trong lúc cố gắng lựa chọn giữa các ngày hẹn thật đáng chú ý. Anh ấy đưa ra một phân tích về chi phí và lợi ích khô khan, tính đến những cuộc hẹn khác của anh ấy, tình hình thời tiết vào những ngày hẹn gặp, v.v.. Quá trình phân tích diễn ra trong gần nửa giờ trước khi Damasio tạm dừng bằng cách hướng bệnh nhân vào lịch hẹn sau cùng. Bệnh nhân đồng ý ngay. Damasio nói: “Hành vi này là một ví dụ điển hình về những giới hạn của lý trí thuần túy. Đây cũng là một ví dụ hay về hậu quả tai hại của việc không có các cơ chế tự động ra quyết định.”1
1. Damasio, 193–194.
Để hiểu rõ hơn về tình cảnh khó khăn của một người lý trí nhưng vô cảm, ta hãy xem xét về chiếc máy vi tính. Bạn cung cấp cho máy tính một chương trình để chạy, và nó sẽ sử dụng tính logic hoàn hảo để thực thi. Nhưng trừ khi bạn cung cấp chương trình đó cho nó bằng không nó sẽ chỉ ngồi yên đó. Máy tính cần một động lực thúc đẩy trước khi làm bất cứ điều gì, và nhiệm vụ của lập trình viên là cung cấp lực thúc đẩy này. Bệnh nhân của Damasio giống như một chiếc máy tính chưa lập trình. Khả năng lý trí của anh ta là vô ích nếu không có một động lực thúc đẩy bảo anh ta phải làm gì với nó. Anh ta có thể tạo ra ham muốn cuối cùng phi khoái lạc, song như ta đã thấy, những ham muốn như vậy nhìn chung là những thứ yếu ớt.
Một bệnh nhân khác của Damasio – Elliot là một người chồng, người cha, một doanh nhân thành đạt cho đến khi trải qua cuộc phẫu thuật não do khối u. Cuộc phẫu thuật đã làm tổn thương thùy trán của anh ấy và do đó ảnh hưởng đến khả năng thực hiện các kế hoạch. Anh ấy bắt tay vào một dự án nhưng rồi lại quên mất mục tiêu của mình trong quá trình tiến hành. Ví dụ, khi được yêu cầu sắp xếp hồ sơ tài liệu, anh ấy sẽ làm một cách quá mức: “Bỗng dưng, anh ấy có thể chuyển từ nhiệm vụ phân loại mà ban đầu đã định làm sang việc đọc một trong những tài liệu ấy thật kỹ lưỡng và thông minh, và dành cả ngày để làm việc đó. Hoặc anh ấy có thể bỏ cả buổi chiều để cân nhắc mình nên áp dụng nguyên tắc phân loại nào.”1
1. Damasio, 36.
Mặc dù Elliot có chỉ số IQ vượt trội, năng lực cảm xúc của anh ấy đã bị tổn hại nghiêm trọng. Theo lời của Damasio, tình trạng khó khăn của Elliot là “biết nhưng không thể cảm nhận được”.2 Chúng ta có thể cho rằng năng lực cảm xúc suy giảm sẽ cải thiện khả năng đưa ra lựa chọn của một người: sẽ có ít cảm xúc can thiệp vào việc đưa ra quyết định hợp lý. Trái lại, Damasio phát hiện ra rằng năng lực cảm xúc là yếu tố quan trọng trong việc ra quyết định: “Cuộc sống ngoài đời thực có một cách buộc bạn phải đưa ra lựa chọn. Nếu bạn không chịu khuất phục trước sự ép buộc này thì bạn có thể giống như Elliot, luôn do dự, lưỡng lự.” Thật vậy, Damasio đã viết: “Khi chúng ta đối mặt với một nhiệm vụ, một số phương án mở ra trước mắt chúng ta và hết lần này đến lần khác, chúng ta phải lựa chọn con đường của mình thật chính xác nếu chúng ta muốn tiếp tục đạt được mục tiêu. Elliot không còn khả năng lựa chọn con đường được nữa.”3 Damasio kết luận rằng: “Một số khía cạnh của quá trình cảm xúc và cảm giác là bắt buộc phải có đối với lý trí. Trong điều kiện tốt nhất, cảm xúc hướng chúng ta đi đúng hướng, đưa chúng ta đến nơi thích hợp trong một không gian ra quyết định, nơi chúng ta có thể sử dụng hữu hiệu các công cụ logic.”4 Những trạng thái cảm xúc của chúng ta “không suy nghĩ thay cho chúng ta. Mà chúng hỗ trợ cho việc cân nhắc suy xét bằng cách làm nổi bật một số phương án (nguy hiểm hoặc có lợi), và nhanh chóng loại bỏ chúng khỏi việc cân nhắc sau đó”..5
2. Damasio, 45.
3. Damasio, 49–50.
4. Damasio, xiii.
5. Damasio, 174.
Thậm chí trước khi nghiên cứu tâm lý nói trên được thực hiện, nhiều nhà hiền triết đã suy ngẫm về cách mà ham muốn khởi phát trong họ và những người xung quanh, rồi đi đến kết luận rằng: quá trình hình thành ham muốn phần lớn là phi lý tính và nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Nghiên cứu mà tôi mô tả đã chứng minh cho nhiều hoài nghi của họ.
Vào cuối thế kỷ thứ tư, Thánh Augustine đã bình luận về điều kỳ lạ của những ham muốn của con người – một thứ thuộc về tinh thần, lại có thể được kiểm soát bởi tâm trí chúng ta: “Tâm trí ra lệnh cho cơ thể và nó tuân theo ngay lập tức; tâm trí tự ra lệnh cho chính nó và bị kháng cự. Tâm trí ra lệnh cho bàn tay di chuyển và sự sẵn sàng như vậy luôn có mặt ở đó, mệnh lệnh đó hầu như đồng nghĩa với sự tuân phục. Tuy nhiên tâm trí là tâm trí, còn bàn tay là cơ thể. Tâm trí ra lệnh cho tâm trí, cho chính nó, phải muốn điều gì đó, thế mà nó chẳng chịu làm theo.”6
6. Augustine, Tự thú, quyển 8.
Vào thế kỷ 17, triết gia Benedict de Spinoza cho rằng: “Con người tin là bản thân họ được tự do trong chừng mực mà họ còn ý thức được về ý chí và ham muốn của mình, và thậm chí không tưởng tượng ra nổi những nguyên nhân mà qua đó chúng dẫn dắt đến ham muốn và ý chí, bởi vì họ không biết gì về chúng.”1
1. Spinoza, 107.
Triết gia David Hume đã thẳng thừng bác bỏ tính hợp lý của ham muốn. Vào thế kỷ 18, ông đã viết: “Chúng ta chẳng cứng nhắc và triết lý khi nói về cuộc chiến giữa cảm xúc và lý trí. Lý trí là, và chỉ có thể là nô lệ của cảm xúc, không bao giờ có thể làm một vai trò gì khác ngoài việc thực hiện và tuân theo cảm xúc.”2 Theo Hume, lý trí có khả năng bảo với chúng ta rằng nếu chúng ta làm X, sẽ đem đến kết quả Y. Tuy nhiên, nó lại không có khả năng cho chúng ta biết được liệu Y có đáng ham muốn hay không, và do đó liệu chúng ta có cần làm X hay không. Chỉ khi nào lý trí đi cùng với một hệ giá trị – với một cảm giác rằng một điều gì đó là đáng để giành lấy – thì lý trí mới có khả năng thúc đẩy hành vi. Hume từng có câu nói nổi tiếng rằng chúng ta không thể lấy cái “nên làm” từ cái “đang là”: dù chúng ta có đưa ra bao nhiêu luận điểm mang tính thực tế, thì chỉ riêng chúng sẽ không đủ cơ sở để từ đó suy ra một tuyên bố đạo đức.3 Cụ thể là, từ thực tế rằng ai đó sẽ đau đớn nếu chúng ta bắn anh ta và vợ con anh ta cũng sẽ đau đớn, dù rằng việc bắn anh ta không sai; thay vào đó, chúng ta cần ghép những luận điểm thực tế này với một đánh giá về giá trị, chẳng hạn như thật sai lầm khi gây ra khổ đau cho người khác.
2. Hume, Luận thuyết, quyển 2, phần 3, đoạn 3.
3. Hume, Luận thuyết, quyển 3, phần 1, đoạn 1.
Tương tự vậy, Hume có thể nói rằng bạn không thể biết được ham muốn xuất phát từ đâu. Nếu tôi mua một chiếc xe hơi đắt tiền thì tôi sẽ nhận được sự thán phục từ hàng xóm và có được niềm vui khi lái xe. Nhưng trừ khi chúng ta gắn những tuyên bố thực tế này với một số tuyên bố về thứ mà tôi mong muốn – ví dụ, tôi tìm kiếm sự ngưỡng mộ từ hàng xóm hay tìm kiếm lạc thú – không thể suy ra rằng tôi nên muốn chiếc xe. Quả thật, nếu như vì lối sống khổ hạnh mà tôi bất cần sự ngưỡng mộ từ hàng xóm và niềm vui từ việc lái xe, thì ham muốn đó thật ngốc nghếch.
Hume đã nói: “Chẳng có gì phi lý khi tôi thích toàn bộ thế giới này bị hủy hoại hơn là việc gãi ngón tay của tôi. Cũng chẳng có gì phi lý khi tôi hủy hoại bản thân mình để một người hoàn toàn xa lạ với tôi cảm thấy ít khó chịu nhất.”1 Vì vậy, hãy tưởng tượng về một người hoàn toàn lý trí nhưng không có bản năng sinh tồn, không có linh cảm rằng anh ta phải làm bất cứ việc gì cần thiết để bảo vệ tính mạng của mình. Người này có thể nhận ra nếu anh ta chạy trốn một con gấu đang đến thì anh ta sẽ sống, còn nếu cứ ở yên một chỗ thì sẽ mất mạng. Nếu anh ta coi trọng việc bảo toàn tính mạng thì sự lựa chọn này là không phải bàn cãi gì nữa: phải bỏ chạy. Nhưng nếu anh ta thiếu bản năng sinh tồn và “những đam mê” khác thì sẽ không thể nào đưa ra quyết định được. Việc bị gấu vồ có vẻ như không tốt hơn hoặc cũng chẳng tệ hơn so với việc được tiếp tục tồn tại.
1. Hume, Luận thuyết, quyển 2, phần 3, đoạn 3.
Bước sang thế kỷ 19, chúng ta còn tìm thấy những nhà tư tưởng khác đã nhận ra bản chất phi lý trí của ham muốn. Arthur Schopenhauer cho rằng: trí tuệ không điều khiển được ham muốn. Theo ông: “Trí tuệ biết đến những kết luận của ham muốn qua suy đoán và kinh nghiệm mà thôi.”2Quả thực, sự vận hành của ham muốn là một “công xưởng bí mật” mà trí tuệ không thể thâm nhập vào.3 Ông kết luận rằng: trí tuệ “chỉ là công cụ phục vụ cho ham muốn”.4
2. Schopenhauer, Thế giới như là Ý chí và Biểu tượng, 1:290.
3. Schopenhauer, Thế giới như là Ý chí và Biểu tượng, 2:210.
4. Schopenhauer, Thế giới như là Ý chí và Biểu tượng, 2:205.
Vào cuối thế kỷ 19, nhà sinh học Thomas H. Huxley đã đặt nghi vấn về việc liệu ý chí/ý muốn của chúng ta là nguyên nhân của những hành động hay bản thân nó là một hệ quả của những quá trình não bộ sâu xa hơn. Theo Huxley, ý muốn của giống động vật hoang dã, nếu có, thì chỉ là “một biểu thị cảm xúc của những thay đổi thể chất, chứ không phải là tác nhân của những thay đổi đó.” Quả thật, “những ham muốn của chúng không hề thâm nhập vào chuỗi nhân quả trong hành động của chúng.” Ông cũng đưa ra những tuyên bố tương tự về con người: “Tâm hồn đối với cơ thể giống như chiếc chuông của đồng hồ nhắc việc, và ý thức phản ứng lại với âm thanh của chiếc chuông khi nó được gióng lên.” Hơn nữa, “thứ cảm giác ta gọi là ham muốn chẳng phải là tác nhân của một hành vi chủ động, mà chỉ là thứ tượng trưng cho trạng thái đó trong bộ não, trạng thái này mới là tác nhân trực tiếp của hành động kia vậy.”5 Theo Huxley, chúng ta là người máy có ý thức.6
5. Huxley, 244.
6. Huxley, 240–244.
Không lâu sau, bác sĩ tâm thần Sigmund Freud cho rằng chúng ta bị những ham muốn vô thức chi phối ở mức độ đáng kể. Ông cũng nhận xét về “sự hợp lý hóa mang tính phòng vệ,” khả năng biện minh cho hành vi của chủ nhân của tâm trí. Khi một người được hỏi tại sao lại hành xử theo một cách nào đó, “thay vì nói rằng mình không biết, anh ta lại cảm thấy buộc phải dựng ra một số lý do, dù rõ ràng là chúng không thỏa đáng.”7
7. Được trích dẫn trong Wegner, 151.
Năm 1921, triết gia Bertrand Russell đã nói nhiều về mức độ mà các ham muốn của ta vượt khỏi tầm kiểm soát của chúng ta. Russell chỉ ra rằng chúng ta thường không biết gì hoặc nhầm lẫn về động cơ hành động của mình. Quả thật, Russell cho rằng: “Hành động và niềm tin của một người có thể bị chi phối hoàn toàn bởi một ham muốn mà anh ta không hay biết, và anh ta sẽ kịch liệt bác bỏ khi ai đó nói ra điều đó với anh ta.” Theo Russell: “Việc khám phá ra những động cơ của chúng ta chỉ có thể được thực hiện bởi cùng một quá trình mà qua đó chúng ta phát hiện ra động cơ của người khác, cụ thể là quá trình quan sát những hành động của chúng ta và suy ra ham muốn nào có thể thúc đẩy những hành động đó.”1 Ông nói thêm rằng chúng ta khá giỏi trong việc lừa dối bản thân về những ham muốn của mình – chúng ta thậm chí còn đi xa đến mức phát triển toàn bộ hệ thống niềm tin sai lầm để giữ cho chúng ta sống trong tình trạng phớt lờ những điều mà từ đó nảy sinh ham muốn.2
1. Russell, The Analysis of Mind (Phân tích tinh thần), 30–31.
2. Russell, The Analysis of Mind (Phân tích tinh thần), 34.
Lý luận của Russell và những người khác có thể mang tính chất tiền khoa học, nhưng nghiên cứu sau đó cho thấy trực giác của họ về cách thức mà ham muốn nảy sinh trong chúng ta là đúng.
Nghiên cứu tâm lý được mô tả trong chương này có những ngụ ý quan trọng dành cho những ai muốn làm chủ ham muốn. Các nghiên cứu cho rằng khi nói đến những ham muốn thì chúng ta không khác nào đang sống trong một thế giới ảo ảnh. Các ham muốn tuôn ra từ sâu bên trong chúng ta. Khi điều đó xảy ra, chúng ta không biết chắc chúng là cái gì – một túi hành lý tinh thần của một vài tỷ năm tiến hóa – và làm sao ứng phó với chúng cho phù hợp. Thay vào đó, chúng ta tìm cách biện minh cho chúng. Chúng ta cố thuyết phục bản thân rằng chúng ta nên muốn bất cứ thứ gì mà ta thấy mình đang mong muốn. Chúng ta đem trí tuệ phục vụ cho cảm xúc của chúng ta.
Chúng ta cũng giống như một người chủ của căn biệt thự nghỉ dưỡng, bất kể là ai xuất hiện trước cửa, tay xách vali cũng đều được chào đón như một du khách và tin chắc rằng mình hẳn đã mời vị khách ấy – dù sự thật là anh ta không nhớ mình đã làm vậy. Và rồi người chủ này sống một cuộc đời bị kiểm soát bởi những vị khách ghé qua đó. Việc họ đến và đi quyết định khi nào chủ nhà sẽ đi ngủ và thức dậy. Họ định đoạt cách anh ta dùng khoảng thời gian rảnh rỗi của mình. Còn khi không rảnh rỗi, anh ta phải làm việc chăm chỉ hơn để trang trải các chi phí khi đón tiếp họ. Nếu người chủ đó lùi lại và phân tích tình huống: nếu anh ta có thêm nghị lực và nói không với những vị khách không mời, đồng thời lựa chọn kỹ càng vị khách được mời – thì anh ta sẽ sống tốt hơn rất nhiều.
Chúng ta cũng sẽ cần phát huy nghị lực và trở thành một người gác cổng đối với những ham muốn của mình, chấp nhận và hành động theo một vài ham muốn, nhưng sẽ khước từ nhiều ham muốn khác trong số chúng. Khi ấy, trong chừng mực khả thi nhất định, chúng ta mới có thể sống cuộc đời do mình lựa chọn, thay vì cuộc đời mà quá khứ tiến hóa đang tìm cách gán cho chúng ta.