Trong mỗi con người, dù cao quý và mực thước đến đâu thì ở sâu trong bản chất, một chuỗi ham muốn thấp kém và thô tục cũng khiến họ trở về phần con thay vì phần người.
—Arthur Schopenhauer
Xưa kia, vũ trụ chưa có ham muốn. Rồi sau đó xuất hiện các loài sinh vật – có thể trên Trái đất này, nhưng cũng có khả năng xuất hiện ở những nơi khác trong vũ trụ – có khả năng ham muốn. Làm thế nào mà những sinh vật ấy có được khả năng này?
Câu trả lời hiển nhiên cho câu hỏi này là chúng đạt được khả năng ham muốn thông qua một quá trình chọn lọc tự nhiên. Một số sinh vật, có lẽ do đột biến, mà có được một khả năng ham muốn rất nguyên sơ. Những sinh vật sở hữu khả năng này có cơ hội sống sót và sinh sản cao hơn những sinh vật không sở hữu, và do đó chúng có khả năng phát triển mạnh. Mặc dù vẫn còn những hạn chế nhưng câu trả lời này là đúng, tôi cho rằng sự tiến hóa của ham muốn thì phức tạp và còn thú vị hơn nhiều so với điều này. Cụ thể là, tôi tin rằng có thể động vật có được khả năng ham muốn cùng lúc với việc chúng được “lập trình” với những ham muốn đặc thù. Chính xác hơn, chúng được lập trình để một số thứ “cảm thấy tốt” và do đó là đáng khao khát về bản chất, trong khi những thứ khác thì “cảm thấy tệ” và do đó là không đáng khao khát về bản chất.
Sau này khi loài người xuất hiện, chúng ta đã mang theo bên mình hành lý tiến hóa trị giá vài tỷ năm. Chúng ta sở hữu một khả năng ham muốn tiên tiến; quả thật, nhờ khả năng suy luận mà chúng ta có thể lập ra những kế hoạch tỉ mỉ để đạt được điều mình muốn. Nhưng vì quá khứ tiến hóa mà chúng ta thấy mình mong muốn một số thứ. Làm tình, ăn kem, và nhận được sự ngưỡng mộ từ người khác đều khiến chúng ta cảm thấy vui sướng, do đó chúng ta muốn làm những việc ấy. Không phải là chúng ta muốn mình muốn làm những việc ấy; mà vấn đề là làm những việc ấy khiến ta thấy tốt, cho dù có muốn nó hay không, và vì thế, về bản chất chúng đáng khao khát đối với chúng ta. Nếu quá khứ tiến hóa của chúng ta khác đi thì những thứ mà chúng ta thấy là đáng khao khát có lẽ cũng sẽ khác, và theo đó, chúng ta sẽ có khuynh hướng tạo ra những ham muốn khác biệt so với bây giờ.
Vì vậy, nếu mục tiêu là tìm ra nguyên do tại sao chúng ta lại muốn những thứ mà mình muốn thì tốt hơn là nên xem xét quá khứ tiến hóa của loài người chúng ta.
Một loài phù hợp với môi trường sống thì có nhiều khả năng tồn tại và sinh sản hơn loài không phù hợp với môi trường sống. Vấn đề là môi trường luôn thay đổi, không chỉ từ thiên niên kỷ này sang thiên niên kỷ khác mà còn trong từng giây. Bởi vậy, để tồn tại, một loài cần phải phù hợp với một môi trường luôn thay đổi. Điều này có nghĩa là các thành viên của một loài được hưởng lợi từ khả năng phát hiện ra những đổi thay trong môi trường của chúng và phản ứng theo cách làm tăng cơ hội tồn tại và sinh sản trong môi trường đó. Hãy xem xét về cây củ cải đường. Nó không phản ứng khi bị rệp cắn; nó chỉ nằm yên đó và đón nhận chuyện đó. Nhưng chúng ta đừng để cho sự thụ động của cây củ cải đường đánh lừa chúng ta, vì mặc dù cây củ cải đường khiêm nhường không phản ứng trước những đòn tấn công của rệp, nhưng nó phản ứng trước những thay đổi khác trong môi trường của nó. Ví dụ, các tế bào bảo vệ của lá cây củ cải đường mở ra và khép lại để phản ứng với ánh sáng.
Những loài cây khác thì đáp lại nhanh hơn so với củ cải đường. Bản chất của hoa hướng dương là hướng đến mặt trời: lá và hoa của chúng đổi hướng trong ngày để chúng liên tục được đối diện với mặt trời. Những cây thông, khi vỏ cây bị rệp bọ xâm nhập thì sẽ “phản công”: chúng tiết ra nhựa cây để bẫy những con bọ tìm cách chui vào. Và động vật đơn bào thậm chí còn phản ứng lại nhanh hơn thế. Chẳng hạn, khi một con trùng đế giày đụng phải một vật thể lớn, nó sẽ đảo ngược chiều đi và xoay cơ thể một cách ngẫu nhiên, hành vi này thường tạo ra khoảng cách giữa bản thân nó và bất cứ thứ gì mà nó đụng vào. Nó cũng phản ứng trước nhiệt độ, trọng lực và sóng âm thanh.
Không có trường hợp nào trong số những trường hợp này phản ứng trước sự thay đổi của môi trường do ham muốn: hoa hướng dương không muốn đối diện với mặt trời, cây thông không muốn chống trả bọ rệp và trùng đế giày không muốn đảo ngược chiều đi của nó. Do thiếu một bộ não nên chúng không thể ham muốn điều gì. Đúng hơn là, hành vi của chúng là kết quả của những phản ứng sinh lý tự động không đòi hỏi đến năng lực trí tuệ. Thật vậy, những phản ứng đó thậm chí cũng chẳng đòi hỏi phải có một hệ thần kinh. Nhưng ngược lại, trong một trường hợp của ham muốn chính thức, đầy đủ, một sinh vật có khả năng hình thành một biểu tượng tinh thần về thứ mà nó ham muốn, so sánh tình trạng hiện tại với tình trạng được ham muốn và khởi phát hành động để giảm bớt sự khác biệt giữa hai tình trạng này.1 Chỉ sinh vật nào có được năng lực trí tuệ đáng kể thì mới có được những khả năng này.
1. Đây là một đặc điểm của những gì có liên quan đến ham muốn; xem McFarland, 418.
Những sinh vật có hệ thần kinh đều có khả năng phản xạ đáp ứng lại trước những thay đổi trong môi trường. Hành động phản xạ thường nhanh hơn những phản ứng sinh lý được mô tả ở trên. Một con vật theo phản xạ tránh xa khỏi một thứ gì đó đang cắn nó thì ít có khả năng bị ăn thịt, và do đó, nó có nhiều khả năng sống sót và sinh sản hơn một cây củ cải đường ở yên một chỗ hay cây thông chầm chậm tiết ra nhựa cây.
Hành vi phản xạ giống như những phản ứng sinh lý tự động, nó không liên quan ham muốn đích thực. Chúng ta bảo rằng mình run rẩy vì lạnh, điều này nghe có vẻ như ta đang kiểm soát hành vi đó. Nhưng thực tế thì chúng ta không chọn run rẩy. Chúng ta không thể khiến bản thân run rẩy nếu không lạnh; cũng như không thể, bằng hành động ý chí, ngăn bản thân khỏi cơn run lẩy bẩy nếu như ta đang lạnh (mặc dù có thể bằng cách căng cứng cơ bắp, ta sẽ chặn đứng cơn run trong chốc lát). Tương tự, khi chúng ta giật tay ra khỏi bếp lò nóng thì đó không phải vì chúng ta muốn giật tay ra; quả thực, cử động đó của đôi tay có lẽ đã khiến chúng ta bất ngờ.
Mặc dù hành vi phản xạ tượng trưng cho một sự tiến bộ về những phản ứng sinh lý, chẳng hạn như những phản ứng được mô tả ở trên, song hành vi này vẫn có những thiếu sót đáng kể. Để hiểu được thiếu sót đầu tiên này, hãy xem xét logic của hành vi phản xạ. Nó có mô-típ: “Khi có kích thích S, hãy thực hiện hành động A”, ví dụ: “Khi bột tiêu bay vào mũi, hãy hắt hơi.” Song logic đơn giản này đôi lúc lại phản tác dụng. Giả sử, trong lúc ẩn nấp để tránh một con gấu, bạn bị tiêu bay vào mũi. Việc hắt hơi lúc này có thể gây nguy hiểm đến tính mạng. Thay vì được thiết lập về mặt sinh học để làm hành động A bất cứ khi nào có kích thích S, chúng ta sẽ hưởng lợi từ việc được thiết kế theo một cách hợp logic những hành động tinh vi hơn: “Khi có kích thích S, hãy thực hiện hành động A trừ khi đã đạt được điều kiện C.” Sự thiết lập như vậy có thể làm chúng ta hắt hơi khi tiêu bay lên mũi trừ khi có một con gấu ở gần đó.
Thiếu sót thứ hai của hành vi phản xạ là logic đằng sau nó có tính nhị nguyên và do đó không cho phép hình thành một phản ứng tương xứng với những thay đổi trong môi trường của chúng ta. Những cái hắt hơi của chúng ta cũng mang tính bạo lực không kém, bất kể hạt tiêu bay vào mũi bạn đến mức nào. Một thiếu sót khác đó là bởi vì chúng không có tính phối hợp, những phản xạ của chúng ta có thể gây ra những hành động trái ngược nhau. Chẳng hạn, có thể kích hoạt cùng lúc phản xạ hắt hơi (để đáp lại việc tiêu bay vào mũi) và phản xạ nấc (để đáp lại sự kích thích của cơ hoành). Khi điều này xảy ra, một người sẽ đẩy mạnh không khí ra ngoài bằng một cái hắt hơi, đồng thời anh ta lại hít không khí vào bằng một cơn nấc cục. Kết quả là “sneeccup” – một sự pha tạp giữa một cơn hắt hơi và nấc cục, không chỉ khiến chúng ta khá khó chịu mà còn không hề gia tăng cơ hội sống sót và sinh sản của chúng ta.
Một nhược điểm rất lớn khác của hành vi phản xạ là nó tập trung vào hiện tại và quên mất tương lai. Thật tuyệt vời khi chúng ta được thiết kế về mặt sinh học để có phản xạ rụt tay khỏi một bếp lò nóng; thậm chí còn tốt hơn khi sở hữu khả năng học hỏi từ một hành động chạm vào bếp lò nóng mà sẽ tránh những chiếc bếp lò nóng và những vật nóng nói chung; và do đó sẽ không cần phải dựa vào phản xạ này trong tương lai nữa. Tương tự vậy, cũng thật tuyệt nếu chúng ta run rẩy khi lạnh – điều này giúp cơ thể ta ấm lên. Thậm chí sẽ còn tốt hơn khi chúng ta biết lo xa để dựng một túp lều và sống qua mùa đông. Khi ấy, chúng ta không còn phải run rẩy để giữ ấm cơ thể nữa.
Bất chấp những thiếu sót này, hành vi phản xạ có một lợi thế lớn: nó rẻ tiền về mặt thần kinh, theo nghĩa là “sự thiết lập” cần thiết để thực hiện nó là ở mức tối thiểu. Nếu một sinh vật muốn tiến xa hơn hành vi phản xạ thuần túy thì hệ thống thiết lập của nó phải trở nên phức tạp hơn rất nhiều. Thay vì phản ứng một cách tự động trước một kích thích, như cách mà các cửa kính tự động ở cửa hàng mở ra khi chúng ta bước vào chùm tia siêu âm của nó, một sinh vật phải có khả năng cân nhắc giữa các phương án để đáp lại một kích thích và sau đó lựa chọn trong số đó. Và một khi nó đã lựa chọn thì nó cần phải cảm thấy có động lực để hành động theo sự lựa chọn ấy. Chỉ khi đó, một sinh vật mới thực sự có khả năng ham muốn.
Việc con người – và tôi cho rằng, cùng nhiều loài động vật khác – đạt được khả năng ham muốn cho thấy chi phí thần kinh gắn liền với khả năng này. Dù chi phí đó là cao, song những lợi ích của việc có khả năng ham muốn này vượt xa những chi phí đó, xét về phương diện gia tăng cơ hội sống sót và sinh sản.
Gà làm tổ và ấp trứng, mặc dù chúng chưa từng làm tổ trước đó, chưa từng ấp trứng và chưa từng được ai hướng dẫn cách làm tổ và ấp trứng. Tương tự thế, những con sóc thu lượm và chôn các loại hạt vào mùa thu, mặc dù chúng không biết – đặc biệt nếu chúng đang ở vào năm đầu tiên của cuộc đời – rằng mùa đông sắp đến và không nhận ra những loại hạt đó sẽ là nguồn thực phẩm quý giá vào mùa xuân tới. Điều gì gây ra hành vi bản năng này? Điều gì khiến cho con gà mái thì ấp trứng hay con sóc thì chôn các loại hạt?
Có một lý thuyết cho rằng hành vi bản năng chỉ là một dạng phức tạp của hành vi phản xạ. Do đó, khi con gà mái nhìn thấy những quả trứng của nó, theo phản xạ, đầu gối của nó sẽ yếu đi và nó ngồi lên đống trứng. Tuy nhiên tôi muốn khám phá một lý thuyết thay thế khá hợp lý – dù chỉ mang tính phỏng đoán – được đề xuất bởi nhà triết học và tâm lý học William James. Ông cho rằng hành vi bản năng được kích hoạt bởi những điều thích và ghét của động vật. (Charles Darwin1 và Herbert Spencer2 cũng đề xuất những lý thuyết tương tự về hành vi bản năng, chỉ khác là họ nêu ra lý thuyết của mình theo phương diện của khoái lạc và đau đớn). Cụ thể, James cho rằng con gà mái ấp trứng vì nó thấy những quả trứng là “vô cùng hấp dẫn, quý giá và bao nhiêu lần ngồi ấp cũng không đủ.”3 Nó không chỉ cảm thấy khoan khoái khi ngồi ấp trứng mà còn cảm thấy tệ nếu không được làm như vậy: nếu chúng ta ngăn không cho nó ngồi ấp thì nó sẽ cảm thấy lo lắng. Tương tự vậy, một con sóc chôn các loại hạt vì nó thích chôn chúng và không thích bị ngăn cản hành động đó. Bởi vì những điều thích và ghét đó mà con sóc thấy mình chìm đắm trong một cơn cuồng chôn hạt.
1. Badcock, 125–126.
2. Badcock, 126.
3. James, 387.
Tôi cho rằng, những ham muốn đích thực đầu tiên xuất hiện cùng với hành vi mang tính bản năng. Tại sao con gà mái ngồi ấp trứng? Vì nó muốn làm thế, và lý do mà nó muốn làm là bởi vì nó cảm thấy tốt khi được làm thế và cảm thấy tệ khi không được làm thế.
Nói rằng con gà mái muốn ngồi ấp trứng vì nó “cảm thấy tốt” đặt ra cho ta một câu hỏi về con gà và quả trứng: cái nào có trước, sự thích và ghét đã được thiết lập về mặt sinh học của gà mái hay khả năng ham muốn của nó? Hãy cho phép tôi mô tả về một thí nghiệm có thể giúp chúng ta trả lời câu hỏi này. Giả sử, chúng ta tập hợp một nhóm kỹ sư sinh học và yêu cầu họ kiến tạo một con gà mái. Chúng ta lý giải rằng, con gà mái tối ưu có thể tồn tại và sinh sản bất chấp những thay đổi trong môi trường sống của nó. Các kỹ sư của chúng ta có lẽ sẽ bắt đầu bằng cách tìm ra một phương thức để con gà mái lấy được năng lượng từ môi trường xung quanh nó. Theo đó, họ sẽ thiết kế cho gà mái có được một số cơ quan mà qua đó các quá trình sinh học tự động khác nhau được diễn ra. Tuy nhiên, kết quả là con gà mái sẽ thờ ơ trước môi trường của nó – nó sẽ giống với một loài thực vật hơn là một động vật. Để làm cho gà mái dễ phản ứng, các kỹ sư sẽ tạo cho nó khả năng cảm nhận môi trường và khả năng phản ứng lại trước kích thích từ môi trường. Điều này có thể được thực hiện mà không cần tới các cơ quan cảm giác và cơ bắp – tương tự như hoa hướng dương – nhưng bằng cách tạo cho con gà mái cơ quan cảm giác và cơ bắp, các kỹ sư có thể cải thiện đáng kể khả năng phản ứng của gà mái trước những thay đổi trong thế giới xung quanh nó.
Tuy nhiên, khả năng cảm nhận môi trường và khả năng phản ứng với nó sẽ không có lợi cho sự sinh tồn của gà mái, trừ khi những khả năng này được phối hợp với nhau. Để thực hiện được sự phối hợp đó, trước tiên, các kỹ sư sẽ kết nối gà mái với “dây thần kinh” truyền dữ liệu từ các cơ quan cảm giác và truyền dữ liệu đến các cơ bắp. Sau đó họ sẽ kết nối con gà mái với một “chương trình” xử lý dữ liệu, từ đó gà mái biết cần phải làm gì để đáp lại nhiều kích thích khác nhau từ môi trường. Chương trình hành vi cơ bản sẽ bao gồm một loạt câu lệnh có dạng: “Nếu kích thích S xuất hiện thì hãy làm hành động A”, ví dụ, nếu bị chọc bởi một cái đinh ghim thì hãy nhăn mặt. Đến thời điểm này, thứ mà các kỹ sư tạo ra là một con gà mái robot phản ứng với thế giới theo kiểu phản xạ thuần túy. Đó là “một cái túi phản xạ biết ngồi”1, mượn cách nói của nhà tập tính học Patrick Colgan. Con gà mái sẽ ứng phó trước những thay đổi trong môi trường của nó tốt hơn cây củ cải đường, song lại kém hơn so với những con gà mái ngoài đời thực. Con gà mái cũng sẽ thiếu khả năng ham muốn.
1. Colgan, 5.
Các kỹ sư sinh học có thể điều chỉnh sáng tạo của họ bằng cách thêm nhiều lệnh hơn nữa vào chương trình của gà mái khi họ nghĩ đến những sự việc ngẫu nhiên, bất ngờ mới có thể nảy sinh trong môi trường của nó, nhưng đến một lúc nào đó, họ sẽ nhận ra rằng quá trình thêm những câu lệnh mới vào cũng có giới hạn. Trong việc thiết lập hành vi phản xạ vào gà mái, các kỹ sư phải buộc con gà làm những việc có lợi cho sự tồn tại của nó. Nhưng dù các kỹ sư có thông minh đến đâu thì họ cũng không thể nào thấy trước được mọi nguy hiểm mà con gà mái, sống trong môi trường luôn thay đổi, sẽ đối mặt. Ngoài ra, sẽ thật ngây thơ khi nghĩ rằng cách phản ứng “phù hợp” trước một kích thích sẽ luôn giống nhau. Trong một số trường hợp, phản ứng tốt nhất trước kích kích S có thể là hành động A, nhưng ở trường hợp khác khi một con vật đứng trước kích thích S mà làm A có thể dẫn đến nguy cơ mất mạng ngay tức khắc. Hơn nữa, hành vi phản xạ tập trung vào kích thích trong hiện tại, trong khi lý tưởng nhất là con gà mái cũng sẽ quan tâm đến những sự việc ở tương lai.
Nếu các kỹ sư muốn đạt được bước nhảy vọt về lượng tử trong khả năng thích ứng trước những thay đổi trong môi trường của gà mái thì họ sẽ phải vượt ra ngoài hành vi phản xạ thuần túy. Họ sẽ phải tìm cách khác để bắt gà mái làm những gì có lợi cho nó. Họ có thể nhìn ra thế giới xung quanh để tìm cảm hứng về cách thực hiện điều này.
Hãy xem xét đến các bậc cha mẹ chúng ta. Mục tiêu của các bậc cha mẹ biết yêu thương là khiến đứa con mình làm những việc có lợi và không làm những gì có hại cho nó. Họ có hai cách để đạt được điều này. Trước hết, họ có thể dùng đến vũ lực. Ví dụ, để bắt đứa trẻ đánh răng, họ có thể đặt bàn chải vào tay trẻ rồi sau đó buộc bàn tay đó thực hiện những cử động đánh răng, có thể tay còn lại của họ sẽ giữ miệng đứa trẻ mở ra. Và để con họ tránh ăn phải những lá cây có độc, họ có thể cưỡng ép để lôi lá cây ra khỏi miệng trẻ. Rõ ràng là vũ lực có hiệu quả. Cũng rõ ràng là các bậc cha mẹ phải dùng tới vũ lực khi dạy dỗ những đứa trẻ còn rất nhỏ. Nhưng khi trẻ lớn hơn và khả năng giao tiếp cùng lý trí tăng lên, các bậc cha mẹ thường từ bỏ vũ lực để nghiêng về kỹ thuật khác: họ cho đứa trẻ sự khích lệ, động lực để hành xử theo một cách nhất định.
Chẳng hạn, họ có thể bảo với trẻ rằng trừ khi con chịu đánh răng, bằng không con sẽ mất quyền được xem tivi; hoặc nếu con đạp xe mà không đội mũ bảo hiểm thì con sẽ mất đặc quyền đạp xe. Các bậc cha mẹ dùng đến biện pháp khuyến khích vẫn cần phải giám sát hành vi của trẻ, nhưng việc nuôi dạy trẻ sẽ dễ dàng hơn nếu họ chỉ dựa vào mỗi vũ lực. Một lợi thế khác của biện pháp khích lệ là các bậc cha mẹ có thể phát huy trí tuệ và sự khôn khéo của đứa trẻ. Cha mẹ có thể bảo với trẻ rằng trừ khi con qua được bài kiểm tra chính tả sắp đến, bằng không con sẽ không được ngủ qua đêm tại nhà bạn; sau đó họ có thể ngồi lại và để trẻ tìm ra cách tốt nhất để chuẩn bị cho bài kiểm tra.
Các bậc cha mẹ không phải là những người duy nhất sử dụng biện pháp khích lệ, tạo động lực để định hình hành vi của người khác. Sếp, giáo viên, huấn luyện viên, vợ/chồng, chủ nhiệm khoa và người quản ngục đều làm việc này. Những người huấn luyện thú cũng sửa đổi hành vi của động vật thông qua biện pháp khích lệ, tạo động lực: họ thưởng cho một số hành vi và trừng phạt những hành vi khác, và một con vật sẽ sớm tìm ra cách để có được phần thưởng và tránh hình phạt.
Các kỹ sư của chúng ta có thể học được từ những ví dụ trên và dùng biện pháp khích lệ, tạo động lực để khiến con gà mái làm những việc có lợi cho nó. Tức là, họ có thể thiết lập một hệ thống khuyến khích vào con gà mái – thiết lập con gà để nó sẽ được phần thưởng vì làm những việc có lợi cho sự tồn tại và sinh sản của nó và trừng phạt vì làm những việc ảnh hưởng đến những khả năng đó. Khi làm thế, về bản chất thì họ đang đưa cho con gà mái những chỉ dẫn sau: “Hãy ra ngoài thế giới và sử dụng trí tuệ của mình để phản ứng theo cách tốt nhất, điều này sẽ cho phép ngươi đạt được những phần thưởng và tránh chịu những hình phạt mà ta đã thiết lập cho ngươi.”
Theo chiến lược được thiết kế này, các kỹ sư không tạo ra một con gà mái robot với hành vi chỉ mang tính phản xạ thuần túy mà là một con gà mái có động lực và sáng tạo. (Khi tôi nói về những biện pháp khích lệ, tạo động lực, ý tôi là bao gồm cả những biện pháp khích lệ tích cực lẫn tiêu cực). Những con gà mái có động lực sẽ khó thiết lập hơn những con gà mái robot, nhưng nếu thành công thì con gà mái có động lực thúc đẩy sẽ tránh được những khuyết điểm của hành vi phản xạ như được mô tả ở trên. Người ta cho rằng con gà mái có động lực sẽ có khả năng tồn tại và sinh sản lớn hơn đáng kể trong một môi trường luôn thay đổi hơn một con gà mái robot.
Làm sao các kỹ sư có thể tiến hành tạo ra một con gà mái có động lực? Đầu tiên, họ sẽ thiết lập cho con gà để nó có khả năng bị trừng phạt. Con gà mái của họ đã có một “hệ thần kinh” truyền tải dữ liệu về môi trường sống của nó. Các kỹ sư có thể sửa đổi hệ thần kinh này để khi con gà có cảm giác về mặt cơ thể, cảm giác ấy có thể khiến nó cảm thấy tệ – con gà mái không chỉ nhận ra rằng mình đang bị kim chọc vào mà còn thấy cảm giác bị chọc vào người rất đau đớn. Điều này sẽ đòi hỏi sự phát triển của một bó dây thần kinh có thể diễn giải về một số kích thích từ môi trường là gây đau đớn. (Đau đớn được cho là cảm giác tồi tệ nguyên bản). Các kỹ sư cũng sẽ muốn thiết lập để con gà mái cảm nhận được những thứ khác ngoài nỗi đau cũng khiến nó cảm thấy tệ, bao gồm lo lắng (mà như chúng ta đã thấy, đóng một vai trò quan trọng trong ham muốn) và sợ hãi (liên quan đến nỗi lo lắng trung tâm). Một khi con gà mái đã có được khả năng cảm thấy tồi tệ thì các kỹ sư có thể trừng phạt được nó, giả sử như bỏ đói nó một thời gian dài hoặc để nó đi về phía một con cáo. Nhưng một hệ thống khích lệ mà chỉ đưa ra những hình phạt thì sẽ là kém tối ưu. Hình phạt có tác dụng tốt trong việc khiến con gà mái không làm điều gì đó, nhưng chúng lại không có nhiều tác dụng trong việc khiến con gà làm điều gì đó. (Một ngoại lệ: nếu chỉ có một việc duy nhất mà các kỹ sư muốn con gà làm thì họ có thể thiết lập cho nó cảm thấy tệ hại khi làm bất cứ việc gì khác ngoài cái việc đó; tất nhiên là các kỹ sư của chúng ta sẽ có nhiều thứ mà họ muốn con gà mái làm). Bởi lý do này mà các kỹ sư cũng muốn có thể thưởng cho gà mái vì đã tham gia vào một số hành vi nào đó. Tạo khả năng này cho con gà mái có thể sẽ đòi hỏi sự phát triển của một bó dây thần kinh khác – một trung tâm khoái lạc – mà khi được kích hoạt sẽ sinh ra một cảm giác tuyệt vời, khoan khoái.
Một khi họ đã có được một con gà mái mà có thể có cảm giác tốt và xấu đối với mọi thứ thì các kỹ sư của chúng ta sẽ muốn kết hợp các cảm giác tốt hoặc xấu với nhiều kích thích và hành vi khác nhau. Chính xác hơn, họ sẽ muốn thiết lập con gà mái để đối với nó, những thứ có lợi cho sự sinh tồn và sinh sản sẽ có cảm giác tốt và những thứ không có lợi sẽ có cảm giác khó chịu. Do đó, họ sẽ thiết lập con gà mái để nó sẽ cảm thấy tồi tệ khi bị đốt, có vật gì đó chọc vào người, hay không được ăn uống một thời gian dài. Họ sẽ thiết lập để việc nó được ngồi ấp trứng sẽ có cảm giác tốt. Họ sẽ thiết lập để những thức ăn bổ dưỡng không chỉ có mùi vị khác biệt với thức ăn độc hại mà còn có mùi vị ngon hơn. Tương tự vậy, những con gà trống không chỉ khác với cáo mà còn trông đẹp đẽ hơn – gà mái sẽ hoảng sợ khi nhác thấy một con cáo và cảm thấy dễ chịu khi nhìn thấy một con gà trống. Và để khuyến khích một số hành vi xã hội, các kỹ sư có thể thiết lập để cho gà mái cảm thấy tồi tệ khi bị cô lập khỏi những con gà khác.
Các kỹ sư cũng muốn thiết lập con gà mái để những thứ mang lại cảm giác tốt sẽ không tốt ngang nhau và những thứ mang lại cảm giác tồi tệ sẽ không tồi tệ như nhau. Họ sẽ thiết lập sao cho một thứ gì đó càng có tầm quan trọng thiết yếu đối với sự sinh tồn của nó thì nó sẽ càng cảm thấy tốt hơn khi có được; và cảm thấy tệ hơn khi sống thiếu thứ ấy. Bằng cách này, khi gà mái đối diện với sự lựa chọn, giả sử như giữa ăn và uống, thì nó chỉ cần ngẫm nghĩ về cường độ của cơn khát và cơn đói để chọn hành động theo cảm xúc nào tồi tệ hơn trong hai cảm xúc tồi tệ ấy. Và mặc dù nó sẽ rất vui khi được ngồi ấp trứng nhưng nó sẽ không làm vậy nếu có một con cáo đang đến gần. Những cảm giác tồi tệ như sợ hãi và lo lắng được gây ra bởi sự xuất hiện của con cáo sẽ vượt xa những cảm giác tốt đẹp mà nó có được khi đang chăm sóc cái ổ của mình.
Để hiểu rõ hơn về bản chất của những hệ thống khích lệ có sẵn, hãy xem xét các thực nghiệm khác nhau mà trong đó các nhà khoa học đã làm xáo trộn sự thiết lập của những hệ thống này. Vào cuối những năm 1950, James Olds đã cấy các điện cực vào não bộ của chuột và đặt chúng vào những chiếc hộp có đòn bẩy, mà nếu được nhấn thì sẽ tạo ra dòng điện chạy vào bộ não của chúng. Đòn bẩy được thiết lập để chuột không thể tự kích thích bằng cách ngồi lên đòn bẩy – sau khi nhấn đòn bẩy trong nửa giây, con chuột phải nhấn lại để có thêm kích thích. Olds nhận thấy nếu các điện cực được cấy ghép vào một vùng của não bộ được gọi là hố liên cuống não (interpeduncular nucleus), thì những con chuột sẽ tự kích thích 7.000 lần mỗi giờ. (Tỷ lệ kích thích cao nhất có thể, với tần suất nhấn đòn bẩy nửa giây một lần, là 7.200 mỗi giờ. Khi lũ chuột được đặt trong một cái hộp không có kích thích thì trong những chuyển động ngẫu nhiên, chúng đạp lên đòn bẩy chỉ 25 lần một giờ). Lời giải thích hiển nhiên (nhưng không phải là duy nhất) cho những kết quả đó là sự kích thích có cảm giác rất tuyệt đối với chuột và do đó, gây ra một sự thay đổi toàn diện trong hành vi của chúng.1
1. Olds, 319.
Chuột sẽ duy trì hành vi này trong bao lâu? Liệu chúng có tự kích thích đến mức không màng gì tới mọi hoạt động khác không? Liệu chúng sẽ tự kích thích bản thân tới chết không? Nhà tâm lý sinh học Elliot Valenstein đã làm một thử nghiệm để tìm ra câu trả lời. Ông thiết lập một dụng cụ giống như dụng cụ được Olds sử dụng nhưng làm cho chiếc hộp trở nên dễ sống hơn, có nhiều thức ăn và nước uống. Valenstein phát hiện thấy con chuột thí nghiệm không tự kích thích bản thân tới độ bàng quan với những thứ khác. Nó nghỉ ngơi để ăn uống, chải chuốt và khám phá môi trường xung quanh. Nó cũng ngừng tự kích thích để ngủ. Tuy nhiên, tự kích thích vẫn là hoạt động chủ đạo của nó. Con chuột sẽ thức giấc vào buổi sáng, giãn gân cốt rồi sau đó bắt đầu ấn đòn bẩy. (Nói cách khác, hành vi của con chuột giống như hành vi của một cậu bé tuổi teen có một trò chơi điện tử mới). Trong suốt 21 ngày làm thí nghiệm liên tục, con chuột đã tự kích thích bản thân 850.000 lần, so với 3,6 triệu lần trên lý thuyết. Theo Valenstein, thí nghiệm đã đến hồi kết không phải do con chuột kiệt sức mà là những người làm thí nghiệm đã kiệt sức vì phải quan sát nó suốt ngày đêm (24/24).1
1. Valenstein, 67–69.
Trong thí nghiệm khác, các nhà khoa học đã thiết lập lại hệ thống khích lệ của một con la quân đội.2 Họ đặt các điện cực vào não bộ của nó và một thiết bị kích thích trên lưng nó, rồi gắn một pin mặt trời để miễn là con la đi bộ hướng về phía mặt trời thì bộ não của nó sẽ bị kích thích. Khi được thả, con la đi bộ về phía mặt trời, đầu tiên, nó băng qua một cánh đồng rồi đi qua một ngọn đồi. Vào thời điểm đó, họ đảo ngược pin mặt trời để bộ não của con la sẽ được kích thích nếu nó đi xa khỏi mặt trời. Họ lại thả con la và nó đi quay trở lại điểm xuất phát. Các nhà khoa học cho rằng, những con la được kích thích nhân tạo này có thể cung cấp cho quân đội một cách thức để di chuyển quân nhu từ nơi này sang nơi khác trên chiến trường.
2. Valenstein, 68.
Thí nghiệm trên chuột và la thì như vậy, còn con người thì sao? Trong một thí nghiệm, người tham gia được cho phép tự kích thích bản thân giống như cách mà lũ chuột của Olds đã làm. Một bệnh nhân đã được cấy một điện cực vào vách ngăn não bộ của anh ta, một khu vực gần vùng dưới đồi. Anh ta đã tự kích thích 1.500 lần trong một phiên kéo dài ba giờ. Sự kích thích không chỉ khiến anh ta cảm thấy tốt mà nó còn làm anh ta đạt được cực khoái.1
1. Badcock, 127.
Thậm chí với công nghệ hiện nay, người ta có thể thiết lập lại một con người để khiến cho những thứ từng có cảm giác tệ với người đó chuyển thành cảm giác tốt. Khi bạn dùng một đinh ghim chọc vào ngón trỏ trái của một người thì tín hiệu đau đớn được tạo ra và gửi đi theo một dây thần kinh nào đó. Bộ não dò ra những tín hiệu này và gây ra một cảm giác tồi tệ. Một nhà khoa học (hơi dị thường) có thể chuyển hướng những tín hiệu của dây thần kinh này đến một thiết bị điện tử để bất cứ khi nào nó dò ra những tín hiệu đau đớn thì nó cũng sẽ kích thích một trung tâm khoái lạc trong não bộ của người đó. Do sự thay đổi trong việc thiết lập hệ thống khích lệ/động cơ của người này mà anh ta có thể dành cả ngày để dùng đinh ghim chọc vào ngón trỏ trái của mình, một việc mà trước đây có nằm mơ anh ta cũng không nghĩ mình sẽ làm.
Cũng nhà khoa học này, ông có thể thiết lập lại một người để cho những thứ từng mang đến cảm giác tốt cho anh ta sẽ trở thành cảm giác tệ. Ví dụ, ông ta thiết lập một người với cảm giác no bụng, thay vì cảm thấy thấy tốt, nó sẽ khiến anh ta cảm thấy như mình đang có một cơn đau cùng cực ở ngón trỏ trái. (Trong trường hợp này, thay vì chuyển hướng những tín hiệu đau trong dây thần kinh từ ngón trỏ trái của người này, nhà khoa học sẽ tổng hợp những tín hiệu đau trong dây thần kinh đó bất cứ khi nào chiếc máy dò cảm giác no bụng được cấy ghép vào bụng anh ta bị kích hoạt). Khi bị thiết lập theo kiểu này, đối tượng thí nghiệm có lẽ sẽ mất đi nhiều hứng thú với chuyện ăn uống.
Hãy trở lại Chương 1, tôi từng mô tả về trường hợp mà các bác sĩ vô tình làm xáo trộn hệ thống khích lệ sẵn có của một người. Họ đã kích thích điện não bộ của một phụ nữ 65 tuổi trong một nỗ lực nhằm làm thuyên giảm các triệu chứng của bệnh Parkinson. Khi họ bật dòng điện, ngay lập tức bà ấy chìm sâu vào tình trạng trầm cảm nặng. “Tôi không thiết sống nữa!” – bà nói – “Tôi chán ghét cuộc sống này.” Các bác sĩ đã quan sát thấy có bảy trên chín tiêu chí chẩn đoán bệnh trầm cảm ở bà: nỗi buồn sâu sắc, cảm giác trống rỗng và vô giá trị, suy giảm hứng thú và niềm vui rõ rệt, sự kích động, mệt mỏi, giảm tập trung, mặc cảm tội lỗi không thích đáng và một mối quan tâm thiếu lành mạnh đối với cái chết. Tình trạng trầm cảm gây ra này không kéo dài đủ lâu để đáp ứng được hai tiêu chí khác là thay đổi cân nặng và rối loạn giấc ngủ. Khi bác sĩ tắt dòng điện, người phụ nữ đã trở lại bình thường. Quả thật, bà ấy thậm chí còn đùa giỡn với các nhà nghiên cứu. Chuyến đi khứ hồi từ trạng thái tâm trí bình thường đến trầm cảm nặng và quay về lại bình thường mất 8 phút.
Được sự cho phép của bệnh nhân – một người phụ nữ can đảm, các bác sĩ có thể tái tạo “bệnh trầm cảm giả” này vào những ngày khác. (Trong các bài kiểm tra của họ, bác sĩ đã kiểm tra cẩn thận tính xác thực của những báo cáo của người phụ nữ này: nếu họ nói với bà ấy rằng họ đang dùng dòng điện trong khi thực tế họ không dùng, thì bà ấy không bị rơi vào tình trạng trầm cảm). Các nhà nghiên cứu nghĩ rằng việc họ kích thích vào não bộ của người phụ nữ đã ảnh hưởng đến chức năng của hạch hạnh nhân và cấu trúc hệ viền của bà ấy, do đó làm gián đoạn hệ thống khích lệ sẵn có. Cuối cùng, các bác sĩ đã thành công trong việc làm thuyên giảm các triệu chứng của căn bệnh Parkinson mà người phụ nữ này đã nếm trải, và mặc dù việc điều trị rẽ sang hướng bất ngờ, song trạng thái tâm thần của bà ấy dường như vẫn bình yên vô sự.
Trong một trường hợp khác từ những năm 1950, việc kích thích não bộ có tác dụng ngược lại đối với một bệnh nhân. Bác sĩ Robert Heath đã kích thích vùng vách ngăn của một bệnh nhân trầm cảm đang có ý định tự vẫn. Điều này mang lại kết quả ngay: bệnh nhân bắt đầu mỉm cười. Anh ta mô tả về trạng thái tinh thần của mình bằng những lời sau: “Tôi thấy rất tốt. Tôi không biết tại sao, tự dưng tôi lại cảm thấy tốt.”1
1. Valenstein, 73.
Thật bất ngờ, cũng như hơi đáng sợ, khi một thứ gì đó cơ bản như ý chí sống lại có thể được bật hoặc tắt bằng một dòng điện nhỏ tác động vào một phần nào đó của não bộ. Và cũng thật đáng sợ khi thấy rằng vào lúc ý chí sống “hữu cơ” này bị hạ đo ván thì trí tuệ tỏ ra bất lực như thế nào trong nỗ lực để “chứng minh” cuộc đời này là đáng sống.
Tôi đã hỏi ở trên một câu hỏi về con gà và quả trứng: cái nào có trước, khả năng cảm thấy tốt và tệ, hay là khả năng ham muốn? Tôi muốn đề xuất một cách thức hợp lý, logic để động vật đạt được những khả năng đó cùng một lúc, hoặc gần như vậy.
Đầu tiên, một người có thể lập luận rằng khả năng ham muốn và khả năng cảm thấy tốt và tệ có mối quan hệ logic. Chính xác hơn, người đó có thể cho rằng về mặt logic, không đời nào lại có chuyện một người độc thân mà lại đã kết hôn, cũng tương tự về mặt logic, một sinh vật không thể nào sở hữu khả năng cảm thấy tốt và tệ mà lại không sở hữu khả năng ham muốn. Những thứ khiến một sinh vật cảm thấy tốt về bản chất cũng là đáng khao khát đối với nó: khi nói rằng một thứ gì đó khiến một sinh vật cảm thấy tốt có nghĩa là trong trường hợp vắng mặt những yếu tố khác thì sinh vật ấy sẽ thà được trải nghiệm cảm giác đó hơn là không được trải nghiệm. Tương tự vậy, những thứ khiến một sinh vật cảm thấy tệ về bản chất là không đáng khao khát đối với nó. Mặc dù, mọi thứ không thể nào là đáng khao khát hoặc không đáng khao khát đối với một sinh vật thiếu khả năng ham muốn. Nhưng nếu điều này là đúng thì khi các kỹ sư tạo cho con gà mái của họ khả năng cảm thấy tốt và tệ thì họ đồng thời cũng phải tạo cho nó khả năng ham muốn.
(Mặc dù tôi cho rằng các kỹ sư chẳng thể nào thiết lập được một con gà mái có khả năng cảm thấy tốt và tệ nhưng lại không có khả năng ham muốn, song họ có khả năng làm điều ngược lại – thiết lập được một con gà mái có khả năng ham muốn nhưng không có khả năng cảm thấy tốt hay cảm thấy tệ. Những ham muốn mà con gà mái này hình thành sẽ tương đối thiếu động lực. Chúng sẽ là những ham muốn cuối cùng phi khoái lạc, giống như ham muốn tặc lưỡi của tôi. Bất cứ ham muốn nào gà mái hình thành thì nó sẽ tạo ra chúng “chỉ vì nó sẽ làm như vậy” mà thôi).
Giả sử, lối suy nghĩ trên là sai: khả năng ham muốn và khả năng cảm thấy tốt và tệ không có mối liên hệ với nhau về mặt logic. Song vẫn có lý do để tin rằng những động vật sở hữu một trong hai khả năng đó thì cũng sẽ ngẫu nhiên sở hữu khả năng kia như một lẽ tự nhiên. Để hiểu tại sao tôi lại nói điều này, chúng ta hãy quay trở lại với thách thức về mặt thiết kế được đưa ra cho các kỹ sư sinh học của chúng ta. Giả sử họ có thể thiết lập con gà mái có khả năng cảm thấy tốt và tệ mà không thiết lập cho nó khả năng ham muốn, hoặc ngược lại. Liệu các kỹ sư có muốn tạo cho con gà mái một khả năng này mà không tạo cho nó khả năng kia hay không? Rõ ràng là không.
Để bắt đầu, hãy xem xét về một con gà mái có khả năng cảm thấy tốt và tệ nhưng không có khả năng ham muốn. Con gà mái này không chỉ là không muốn né tránh những thứ mang lại cảm giác tồi tệ hoặc muốn chấm dứt chúng, mà nó còn không thể ham muốn điều đó. Ví dụ, giả sử, có một con thú săn mồi xuất hiện và bắt đầu gặm chân con gà mái. “Cảm giác đó thật sự tồi tệ” – nó nghĩ, nhưng thiếu khả năng ham muốn nên nó không có động lực làm gì để chấm dứt nỗi đau. Một con gà mái như vậy sẽ không thuộc về thế giới này. Các kỹ sư sinh học của chúng ta sẽ nhận ra điều đó và chẳng ích gì khi tạo cho gà mái khả năng cảm thấy tốt và tệ mà lại không ban cho nó khả năng ham muốn. Đạt được khả năng cảm thấy tốt và tệ sẽ đòi hỏi một mức độ năng lực trí tuệ hợp lý, và bộ não là một cơ quan đói nguồn lực. Chỉ có một kỹ sư lãng phí, thiếu suy xét thì mới thiết lập một con gà mái có khả năng cảm thấy tốt và tệ mà không thiết lập cho nó cảm thấy có động lực để giành được những thứ mang lại cảm giác tốt đẹp và tránh những thứ mang lại cảm giác tồi tệ.
Ngược lại, hãy xem xét một con gà mái có khả năng ham muốn nhưng không có khả năng cảm thấy tốt và tệ. Một con gà mái vừa có khả năng ham muốn vừa có khả năng cảm thấy tốt và tệ có thể được chỉ dẫn trong việc hình thành ham muốn: nó có thể được khen thưởng (bằng những cảm xúc tốt đẹp) vì muốn những thứ có lợi cho sự tồn tại và sinh sản, và bị phạt (bằng những cảm xúc tồi tệ) vì muốn những thứ không có lợi cho sự tồn tại và sinh sản. Những ham muốn được hình thành bởi một con gà mái mà đối với nó chẳng có thứ gì mang lại cảm giác tốt hay tệ thì tương tự vậy cũng chẳng thể hướng dẫn được. Nó sẽ không phải trả giá vì muốn một thứ gì đó có thể khiến nó bị thương; cũng như nó sẽ không thấy sung sướng khi được thưởng bằng ăn uống. Ai đó có thể cho rằng trong trường hợp vắng mặt phần thưởng và hình phạt thì những ham muốn của nó sẽ được hình thành theo cách ngẫu nhiên. Ai đó cũng sẽ cho rằng bởi vậy mà nó sẽ không thuộc về thế giới này. Một lần nữa, các kỹ sư của chúng ta sẽ nhận ra điều này và kết luận rằng từ quan điểm thiết kế, đúng là ngốc nghếch khi bất chấp mọi khó khăn để tạo cho con gà mái khả năng ham muốn nhưng không tạo cho nó khả năng cảm thấy tốt và tệ.
Vậy cái gì có trước, khả năng cảm thấy tệ và tốt, hay là khả năng ham muốn? Bởi việc động vật đạt được một trong hai khả năng đó mà không có được khả năng kia thì sẽ là điều vô lý về mặt tiến hóa nên chúng ta có lý do để tin rằng động vật có được những khả năng đó cùng một lúc, hoặc gần như thế.
Bây giờ, giả sử các kỹ sư sẽ kiểm tra con gà được khích lệ/có động lực của họ: họ đặt nó đứng trước ổ trứng để xem nó sẽ phản ứng ra sao. Vì nó đã được khích lệ, nó sẽ cảm thấy tốt khi được ngồi ấp trứng trong ổ. Vấn đề là hiện tại, nó quá ngu ngốc để tìm ra việc nó cần làm để đạt được cảm giác tốt đẹp này – tức là đi tới cái ổ của mình và ngồi phịch lên những quả trứng. Kết quả là nó chỉ biết đứng yên đấy.
Mấu chốt là việc tạo động lực cho gà mái để nó có thể vận dụng trí khôn để đạt được những thứ cảm thấy tốt và tránh những thứ có cảm giác tệ. Nhưng con gà mái, tại thời điểm này trong quá trình thiết kế, chẳng có chút trí khôn nào. Các kỹ sư sẽ muốn khắc phục khuyết điểm này. Họ muốn nó trở nên đủ thông minh để tìm ra những thứ nó cần làm để giành được phần thưởng và tránh những hình phạt mà họ đã thiết lập cho nó. Cụ thể là, họ sẽ muốn tạo cho nó khả năng nhớ lại được những trải nghiệm trong quá khứ và khái quát hóa từ chúng.
Sau đó, giả sử các kỹ sư quyết định bổ sung thêm khả năng ghi nhớ và suy luận cơ bản cho con gà mái của họ. Con gà mái thông minh hơn này, trong lúc tự do khám phá thế giới của nó, sẽ phát hiện được những thứ mang lại cảm giác tốt và tệ và sẽ ghi nhớ chúng. Rồi sau đó, nếu ta lại đặt nó đứng trước cái ổ của nó thì nó sẽ nhận ra nó có (ít nhất) hai phương án được đưa ra là tiếp tục đứng đó hoặc đi tới và ngồi lên cái ổ. Nó sẽ nhớ lại chuyện quá khứ, việc ngồi lên ổ có cảm giác tốt và sẽ suy ra có lẽ lần này có lẽ cũng vậy, hoặc ở mức độ nào đó thì sẽ cảm thấy tốt hơn so với việc cứ tiếp tục đứng yên đấy. Tương tự vậy, nó sẽ nhận ra ăn sẽ giúp cơn đói biến đi, uống nước sẽ giúp cơn khát biến đi, tìm kiếm những con gà khác sẽ làm cảm giác cô lập khó chịu kia biến đi v.v..
Thêm một bước nữa, các kỹ sư muốn tạo cho con gà mái của họ khả năng đưa ra quyết định – nó sẽ trở nên đủ thông minh để nhận ra có nhiều hành động khác nhau được đặt ra để cân nhắc hậu quả của từng hành động đối với cảm giác của nó và chọn một hành động cho phù hợp; và khi đưa ra sự lựa chọn, nó sẽ cảm thấy có động lực để hành động. Để đảm bảo rằng con gà cảm thấy có động lực, các kỹ sư có thể thiết lập trí tuệ cho nó sao cho nó biết những việc mà cần làm để cảm thấy tốt và sẽ cảm thấy lo lắng cho đến khi nào làm được việc đó. Nói cách khác, họ có thể thiết lập để nó bị lệ thuộc vào quá trình chuyển giao lo lắng được mô tả ở Chương 4.
Đến thời điểm này thì con gà mái được thiết kế bởi các kỹ sư sinh học của chúng ta sẽ gần giống với một con gà mái tiêu chuẩn. Nó sẽ có một khả năng cao để có thể tồn tại và sinh sản. Và nếu các kỹ sư mã hóa thiết kế của họ vào gen của con gà mái thì con cháu của nó có lẽ cũng tồn tại và sinh sản được.
Giả sử, các kỹ sư sinh học của chúng ta không hài lòng với việc thiết kế ra một con gà mái theo tiêu chuẩn nên đã quyết định tiếp tục đẩy mạnh và đưa ra thiết kế về một siêu gà mái với khả năng tồn tại và sinh sản lớn hơn đáng kể so với thiết kế của một con gà mái theo tiêu chuẩn. Cách rõ ràng nhất để đạt được điều này là tăng cường khả năng suy luận của gà mái. Sau đó, con gà mái có thể hình thành được những chuỗi ham muốn dài. Thay vì chỉ đơn giản phản ứng trước các kích thích môi trường hiện tại, nó có thể lên kế hoạch cho tương lai: nó có thể đưa ra nhiều đường lối hành động khả thi khác nhau và dựa vào kinh nghiệm quá khứ của nó, lựa chọn đường lối hành động sẽ tối đa hóa lạc thú trong tương lai và giảm thiểu nỗi đau trong tương lai mà nó sẽ nếm trải. Thay vì đợi con cáo thình lình xuất hiện trước mặt, nó có thể tiến hành các biện pháp để phát hiện được con cáo sắp đến hoặc ngăn không cho con cáo vào được chuồng. Con gà mái theo tiêu chuẩn ở trên có khả năng lựa chọn từ một danh sách những hành động khả thi xem hành động nào đem lại kết quả tốt nhất cho cảm giác của nó. Siêu gà mái cũng có khả năng bổ sung thêm các mục hành động vào danh sách, và bởi vì có được khả năng này nên nó sẽ gia tăng cơ hội tồn tại của mình trong tương lai.
Tuy nhiên khả năng hình thành những chuỗi ham muốn dài là vô nghĩa, trừ khi siêu gà mái cũng cảm thấy có động lực để leo lên chuỗi ham muốn mà nó tạo ra. Các kỹ sư của chúng ta có thể thúc đẩy nó bằng cách kéo dài quá trình chuyển giao lo lắng được mô tả ở trên. Khi những mắt xích mới được thêm vào chuỗi ham muốn thì lo lắng sẽ trút xuống chúng và gà mái sẽ có cảm giác lo lắng để hoàn thành mắt xích thứ mười trong một chuỗi ham muốn cũng giống như hoàn thành mắt xích đầu tiên. Họ cũng có thể thiết lập gà mái để nếu như nó không hoàn thành được mắt xích thứ mười trong một chuỗi ham muốn thì mức độ lo lắng của nó sẽ tăng vọt: nó sẽ nếm mùi cảm giác thất vọng rất khó chịu, mặc dù thực tế là việc hoàn thành được mắt xích thứ mười về thực chất không phải là điều đáng khao khát và chỉ kết nối từ xa với việc đạt được thứ mà nó thực sự mong muốn – ấy là, thực hiện được mắt xích đỉnh chóp của chuỗi ham muốn. Và họ cũng có thể thiết lập gà mái để sau khi không thực hiện được mắt xích thứ mười, nó sẽ ám ảnh mãi với thất bại này và tìm cách khác để leo lên chuỗi ham muốn của nó.
Các kỹ sư cũng có thể đưa vào những phần thưởng vì đã leo lên được một chuỗi ham muốn dài. Họ có thể thiết lập cho siêu gà mái để nó trải nghiệm được cảm giác vui thích của việc hoàn thành được từng mắt xích trong một chuỗi ham muốn và một cảm giác sung sướng mãnh liệt – sự hưng phấn của thành công – vì cuối cùng cũng hoàn thành được mắt xích cao nhất. Bằng cách thiết lập cho siêu gà mái để nó cảm thấy tốt nếu nó leo lên được một chuỗi ham muốn và cảm thấy tệ nếu không leo lên cao được, họ đã tạo cho nó một động lực mạnh mẽ để leo lên bất kỳ chuỗi ham muốn nào mà nó có thể hình thành.
Một hiện tượng mới sẽ nảy sinh khi siêu gà mái có được khả năng hình thành những chuỗi ham muốn dài và nhận được phần thưởng nhờ leo lên được chuỗi ham muốn mà nó tạo ra. Vì nó cảm thấy tốt khi leo lên một chuỗi ham muốn và cảm thấy sung sướng khi chạm đến được mắt xích cao nhất của chuỗi ham muốn nên nó có một động lực để hình thành những chuỗi ham muốn mà kết thúc ở những thứ không hề đóng góp vào cơ hội tồn tại và sinh sản của nó – quả thật, kết thúc ở những thứ mà ngay cả bản thân chúng cũng không cảm thấy tốt. Do đó, một con gà mái từng nếm được hương vị hưng phấn của thành công có thể bắt tay vào những hành động mạo hiểm có vẻ ngu ngốc, chẳng hạn như leo lên tới nóc chuồng gà “bởi vì nó muốn ở đó.”
Và cũng tương tự như cách mà siêu gà mái có thể “lạm dụng” khả năng của nó để cảm nhận sự hưng phấn của thành công, nó có thể “sử dụng sai” khả năng đưa ra lựa chọn của nó. Cụ thể, nó có thể sử dụng khả năng đưa ra lựa chọn để tạo ra cái mà tôi gọi là ham muốn cuối cùng phi khoái lạc. Ở Chương 3, tôi đã mô tả về một ham muốn kiểu như vậy – ham muốn tặc lưỡi của tôi. Tôi tặc lưỡi không phải vì tôi tin rằng làm thế sẽ khiến tôi cảm thấy tốt hoặc giúp tôi tránh cảm giác tồi tệ; trái lại, tôi tặc lưỡi chẳng vì lý do cụ thể nào. Tôi tặc lưỡi vì tôi có thể làm được như thế. Tương tự vậy, con siêu gà mái của chúng ta có thể tạo ra một ham muốn cuối cùng phi-khoái lạc cục tác, không phải vì cục tác sẽ làm nó cảm thấy tốt, mà nó làm thế “chỉ vì nó làm thế thôi.”
Ở giai đoạn phát triển này, siêu gà mái sẽ giống với một con người trong cách thức mà nó hình thành ham muốn.
Tôi hy vọng câu chuyện về cách thức mà các kỹ sư sinh học có thể thiết lập được một con gà có khả năng ham muốn tôi kể ở trên vừa mang tính giải trí và vừa làm sáng tỏ được vấn đề, nhưng chúng ta cũng không vì thế mà suy diễn quá nhiều về nó. Vì mọi thứ phức tạp hơn rất nhiều so với câu chuyện tôi đưa ra. Chẳng hạn, tôi nói về các kỹ sư thiết lập con gà mái để mọi thứ có thể có cảm giác tốt và tệ đối với nó. Mặc dù người ta đã nghĩ đến việc làm thế nào để tạo ra những cỗ máy có thể có cảm giác tốt hoặc tệ – ví dụ, chế tạo những con robot có thể trải nghiệm được cảm xúc1 – nhưng chưa ai tiến được gần tới việc tạo dựng một cỗ máy có khả năng cảm thấy tốt hoặc tệ.
1. Xem Frijda.
Hơn nữa, chúng ta đừng sai lầm khi nghĩ rằng câu chuyện ở trên là bằng chứng cho việc tạo hóa đã thiết kế nên những con gà và các động vật khác khả năng năng ham muốn như thế nào. Điều tôi đưa ra ở trên là việc thảo luận về những câu hỏi nảy sinh trong việc thiết kế một động vật, nó dễ dàng hơn nhiều so với việc xác định một loài động vật ra đời như thế nào nhờ vào các quá trình tiến hóa. Như Valentino Braitenberg, nhà điều khiển học và nhà giải phẫu thần kinh, đã từng nhắc nhở chúng ta rằng: “Phân tích thì khó hơn phát minh.”2
2. Braitenberg, 20.
Quả thật, chúng ta có thể chắc chắn rằng sự tiến hóa đã không thiết kế những con gà theo cách được mô tả ở trên, vì chúng ta biết rằng quá trình tiến hóa không thiết kế ra cái gì cả. Nó không mất thời gian để phân vân về các vấn đề liên quan đến việc thiết kế gà. Nó không viết nguệch ngoạc các kế hoạch ở mặt sau chiếc phong bì. Nó không né tránh một số thiết kế bị xem là ngu ngốc và lãng phí. (Trên thực tế, sự tiến hóa hoàn toàn có khả năng tạo ra những thiết kế tối ưu. Ví dụ, hãy xét đến thiết kế “từ trong ra ngoài” của võng mạc con người, với mạch máu và dây thần kinh được đặt trên các cơ quan cảm nhận ánh sáng, nơi chúng cản trở ánh sáng đi qua. Vị trí này cũng làm tăng nguy cơ bong võng mạc).1 Việc mà sự tiến hóa làm là cho phép đưa ra những biến thể ngẫu nhiên về một chủ đề thiết kế. Những biến thể phù hợp với môi trường của chúng sẽ được nhân rộng và do đó sẽ trở nên phổ biến hơn; những biến thể nào không phù hợp thì sẽ không được nhân rộng.
1. Badcock, 19.
Tôi đã lập luận ở trên rằng “cách hợp lý, logic” để động vật đạt được khả năng cảm thấy tốt và tệ và có được khả năng ham muốn đó là đạt được những khả năng này “cùng một lúc hoặc gần như thế.” Mặc dù từ điều này, ta chưa thể suy ra đây là cách mà các loài động vật đạt được chúng. Xét cho cùng thì không có gì đảm bảo rằng các quá trình tiến hóa sẽ hợp lý hoặc theo logic. Tôi sẽ không nói thêm điều đó để những người khác suy đoán, nếu họ muốn, về các bước chính xác mà qua đó những loài động vật có phản xạ thuần túy được động lực hóa, nhưng nhìn chung, câu chuyện được cho là diễn ra như trên.
Tại một thời điểm nào đó trong quá khứ, động vật có được hệ thần kinh cho phép chúng phản ứng theo phản xạ trước những kích thích bên ngoài. Theo thời gian, các hệ thống thần kinh này trở nên phức tạp hơn, và với độ phức tạp cao hơn thì khả năng logic, khả năng ghi nhớ và khả năng cảm nhận tốt và xấu cũng tăng lên. Sự kết hợp của những khả năng này khởi nguồn cho những động vật có động lực đầu tiên trên thế giới. Tôi tin rằng chúng cũng là những sinh vật đầu tiên có khả năng ham muốn. Điều này có thể xảy ra trên Trái đất – ở mức độ nào đó – cách đây hai trăm triệu đến ba trăm triệu năm, khi bộ não động vật phát triển hệ viền (limbic).
Ở một số loài động vật có động lực này, những thứ mang lại cảm giác tốt đẹp đã trở thành những thứ có lợi cho sự tồn tại và sinh sản, nhưng ở những loài động vật khác thì lại không. Những loài động vật có động lực thường dễ tồn tại và sinh sản hơn những loài động vật sau. Dần dần theo thời gian, những loài động vật này – và cụ thể là những loài có động lực ham muốn những thứ có lợi cho chúng – trở nên phổ biến.
Một số tổ tiên tiến hóa của chúng ta, sau khi đạt được khả năng ham muốn và những kỹ năng suy luận mà khả năng này đòi hỏi thì tiếp tục phát triển thành giống loài có lý trí trọn vẹn. Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhận ra là chúng đã phát triển khả năng suy luận được hoàn thiện này không phải để có thể vượt qua hệ thống động lực sẵn có của chúng, mà để có thể giành được những phần thưởng và tránh được những hình phạt một cách hiệu quả hơn, và do đó có cơ hội tồn tại và sinh sản cao hơn. Quả thật, ở loài người thời hiện đại, trí tuệ thường hoạt động như một phụ tá cho các cảm xúc của chúng ta. Trí tuệ có thể nổi loạn chống lại hệ thống động lực sẵn có: chúng ta có thể ước gì tình dục đừng cảm thấy sướng hoặc không bao giờ biết đói. Nhưng nhìn chung thì trí tuệ không nổi loạn như vậy, thay vào đó, nó dành cả ngày để phục vụ cho hệ thống động lực, kiên trì đề ra các chiến lược mà qua đó nhằm đạt được những thứ mang lại cảm giác tốt và tránh những thứ có cảm giác tệ.
Trong Kinh Vệ Đà – một văn bản Hindu thiêng liêng có lẽ được viết vào năm 1500 trước Công nguyên – chúng ta được cho biết rằng Vũ trụ bắt đầu không phải bằng ánh sáng, như Kinh Cựu Ước tuyên bố, mà là bằng ham muốn.1 Thật là một cách tuyệt diệu để một Vũ trụ khởi đầu!
1. Những đỉnh cao trong quá khứ của Ấn Độ, quyển 10, Thánh ca 129.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào khoa học, chúng ta sẽ thấy ham muốn là một thứ xuất hiện tương đối muộn so với Vũ trụ. Quả thật, nó là phép lạ cuối cùng trong ba “phép lạ” vĩ đại nhất trong lịch sử Vũ trụ. Phép màu đầu tiên là việc tạo tác ra bản thân Vũ trụ – có một thứ gì đó không phải là hư không, đó là một điều kỳ diệu. Phép màu thứ hai là một số vật chất vô tri vô giác được tạo thành bởi phép màu đầu tiên đã bừng sống. Và phép màu tuyệt vời thứ ba là một số sinh vật đó đã có được khả năng để có động lực, để tìm kiếm và thậm chí là hy vọng.
Trước khi có phép màu cuối cùng này, Vũ trụ đầy rẫy các hoạt động, nhưng chẳng hoạt động nào có tính mục đích. Các nguyên tử xoay vòng và các tia sáng vút qua không gian. Những bông hoa nở rồi tàn, những động vật đơn bào tự nhân đôi và bọt biển no nước. Tuy nhiên, không có hoạt động nào trong số này có ý nghĩa. Và bằng cách nào đó, giữa tất cả các hoạt động vô nghĩa này đã nảy sinh những tập hợp nguyên tử có khả năng hình thành các mục tiêu và nỗ lực để đạt được mục tiêu. Cuối cùng thì ý nghĩa cũng xuất hiện trong Vũ trụ – có lẽ không phải là ý nghĩa về phương diện Vũ trụ, nhưng dù gì thì vẫn là có ý nghĩa.