Vậy là ta đã phí phạm đời ta biết bao năm, vì ta tưởng đã gặp mối tình lớn nhất, và ta tưởng có thể sẵn sàng chết vì một người đàn bà thực ra không làm ta thích thú, chẳng hề hợp với sở thích của ta!
—Marcel Proust
Một số ham muốn được hình thành nhờ vào các quá trình suy nghĩ lý trí. Giả sử tôi muốn ăn trưa. Tôi kết luận rằng cách tốt nhất để ăn trưa là lái xe đến một nhà hàng gần đây, sau khi nhận ra tủ lạnh trong nhà đã hết thức ăn. Kết quả là, tôi hình thành một ham muốn lái xe đến nhà hàng. Đây là quá trình hoàn hảo và đáng khen ngợi của lý trí.
Tuy nhiên, sẽ là một sai lầm nếu cho rằng mọi ham muốn của chúng ta đều được hình thành như vậy. Ngược lại, nhiều ham muốn sâu sắc, có ảnh hưởng nhiều nhất đến cuộc đời chúng ta lại không có lý trí, nghĩa là ta không dùng đến quá trình suy nghĩ lý trí để tạo nên chúng. Quả thực, chúng ta không tạo ra chúng mà chúng tự hình thành bên trong ta. Chúng chỉ đơn giản là xuất hiện trong đầu ta, một cách đường đột, không mời mà đến. Trong khi chúng ngự trị ở đó thì chúng kiểm soát cuộc sống của chúng ta. Một ham muốn nổi loạn có thể giẫm nát những kế hoạch mà chúng ta đặt ra cho cuộc đời mình và do đó làm thay đổi số phận của ta.
Nếu chúng ta hiểu được ham muốn – thật vậy, nếu chúng ta hiểu được thân phận của con người – thì chúng ta cần phải thừa nhận về khả năng tự phát của ham muốn. Sau đó, chúng ta hãy xem xét một số trường hợp mà cuộc sống của những con người vô cùng lý trí bỗng bị đảo lộn hoàn toàn bởi sự xuất hiện đột ngột, không thể lý giải được của ham muốn.
Rơi vào tình yêu là một ví dụ điển hình của một ham muốn ảnh hưởng đến cuộc sống theo cách không tự nguyện. Chúng ta không thể dùng lý trí thuyết phục mình yêu, và cũng không thể dùng lý trí thuyết phục mình đừng yêu. Khi yêu, vũ khí lý trí của ta ngừng hoạt động. Yêu cũng giống như bị cảm lạnh khi thức dậy, hoặc nói đúng hơn là tỉnh dậy mà bị sốt. Chúng ta không đưa ra quyết định phải lòng ai đó, cũng như không quyết định mình bị cúm. Bệnh tương tư là một tình trạng ngược lại ý muốn của ta, bởi một ngoại lực gây ra. Ngoại lực này là gì? Một số người sẽ nửa đùa nửa thật chỉ ngón tay về phía Thần Tình yêu để tố cáo. Chúng ta rơi vào lưới tình vì Thần Tình yêu đã chọn chúng ta làm mục tiêu mà không hỏi ý ta trước và bắn một mũi tên truyền bệnh tương tư vào ta. Tôi nhận ra điều này chỉ là một huyền thoại, nhưng nó vẫn là một huyền thoại ẩn chứa khả năng giải thích đầy ấn tượng.
Chúng ta cần lưu ý rằng, tương tư thì khác với dục vọng. Một người có ham muốn tình dục cao có thể được thỏa mãn một cách dễ dàng với rất nhiều người. Ngược lại, một người tương tư trải nghiệm một ham muốn mãnh liệt theo bản năng giới tính thông thường với chỉ một mục tiêu – một con người cụ thể.
Khi tương tư, chúng ta mất kiểm soát đáng kể đối với cuộc sống của mình. Khi bắt đầu hành động một cách ngốc nghếch, chúng ta thực sự trở thành kẻ khờ dại vì yêu. Triết gia khắc kỷ La Mã Seneca mô tả tình yêu là “tình bạn bị mất trí.”1 Nhà cách ngôn người Pháp François duc de La Rochefoucauld tuyên bố rằng: “Mọi đam mê đều khiến chúng ta phạm phải sai lầm, nhưng tình yêu là nguyên nhân dẫn đến những sai lầm ngu xuẩn nhất.”2 Freud gọi bệnh tương tư là “chứng rối loạn tâm thần của người bình thường.”3
1. Seneca, Những lá thư, lá thư số 9.
2. La Rochefoucauld, châm ngôn 422.
3. Được trích dẫn trong Magee, 217.
Nhà văn khôi hài Fran Lebowitz đã tóm tắt sự ngu ngốc của bệnh tương tư bằng những lời sau: “Những kẻ kết hôn vì tình yêu đã mắc phải một sai lầm nực cười. Lẽ ra việc kết hôn với bạn thân của bạn có vẻ hợp lý hơn chứ. Bạn quý mến người bạn thân của mình hơn bất cứ ai mà bạn từng yêu. Hẳn rằng bạn không chọn một người để kết bạn vì họ có chiếc mũi xinh xắn, nhưng đó lại là tất cả những gì bạn đang làm khi kết hôn. Bạn sẽ nói rằng: ‘Anh sẽ dành cả quãng đời còn lại bên em bởi vì bờ môi em.’4
4. Được trích dẫn trong Winokur, 245.
Mặc dù tình yêu lãng mạn có những thăng trầm qua nhiều thế kỷ, bệnh tương tư dường như vẫn mãi tồn tại quanh ta. Thi ca của Ai Cập cổ đại mô tả về một điều gì đó khá tương đồng với bệnh tương tư thời hiện đại. Một bài thơ, được viết cách đây hơn 3.000 năm, bắt đầu như sau:
Đã bảy ngày trôi qua kể từ khi ta
gặp được [tình yêu] của mình. Căn bệnh
xâm chiếm ta. Tứ chi của ta bị dẫn dắt.
Ta không còn cảm nhận được cơ thể mình.
Nếu bác sĩ đến,
thì thuốc của họ chẳng thể nào chữa được
con tim ta, cũng như thầy tế lễ
không thể chẩn ra bệnh tình của ta
Họ nên nói: “Đây,
nàng ấy, sẽ chữa lành cho ta.1
1. Lời bài hát tình yêu của Ai Cập cổ đại, 64.
Chúng ta cũng có thể tìm thấy trong những mô tả của sử gia Hy Lạp Plutarch về tương tư như một căn bệnh. Ông kể rằng, vào thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, bác sĩ Erasistratus được yêu cầu chẩn bệnh cho Hoàng tử Antiochus, con trai Vua Seleucus. Các triệu chứng của Hoàng tử: “Giọng ấp úng, mặt đỏ bừng, đôi mắt lén nhìn trộm, mồ hôi trên người đột ngột túa ra, nhịp tim đập mạnh bất thường, và khi không thể chịu được cảm xúc mãnh liệt của bản thân, anh ta sẽ rơi vào tình trạng bủn rủn, kiệt sức và tái nhợt.” Chẩn đoán của Erasistratus là: chàng trai đang tương tư.2
2. Plutarch, 145.
Trong tác phẩm Anatomy of Melancholy (tạm dịch: Cuộc giải phẫu nỗi u sầu) của Robert Burton, xuất bản vào năm 1621, ông đã nói nhiều về tương tư như một bệnh lý. Ông nhận định rằng: “Trong tất cả các đam mê, tình yêu là đam mê cuồng bạo nhất.”3 Ông cũng đưa ra một phương pháp điều trị cho bệnh tương tư như sau: “Nơi ẩn náu cuối cùng và phương thuốc điều trị chắc chắn nhất, tối ưu nhất, khi không còn biện pháp nào khác hiệu quả, là để cho họ đi với nhau và hạnh phúc bên nhau.”4
3. Burton, 840.
4. Burton, 798.
Những ai từng tương tư đều biết rõ các triệu chứng của nó. Đầu tiên là sự chú tâm vào người mà bạn phải lòng2. Với trạng thái này, chúng ta mất một phần khả năng kiểm soát suy nghĩ của mình vì không thể ngừng nghĩ đến đối tượng mà mình khao khát. Chúng ta trải nghiệm cái mà các nhà tâm lý gọi là những ý nghĩ xâm nhập.
2. Nguyên văn tác giả viết là a “crush”. Theo đó, trong tiếng Anh, crush là danh từ, chỉ cảm xúc phải lòng ai đó nhưng crush cũng là động từ mang nghĩa là đè nát. Từ đồng âm khác nghĩa thể hiện chúng ta phải lòng ai đó, nhưng thực tế là chúng ta cảm giác “bị nghiền nát” bởi họ, như có một sức mạnh đang đè nặng lên ngực ta. (ND).
Khi tương tư, tình yêu trở nên có ý nghĩa với chúng ta, cũng như những ảo giác ý nghĩa với ta khi ta đang bị sốt cao, hay cơn ác mộng có lý với chúng ta trong khi ta đang ngủ. Nhưng với bạn bè và người thân của ta thì sự si mê đó có thể chẳng có nghĩa lý gì cả. Họ sẽ hỏi: “Anh ta nhìn thấy điều gì ở cô gái đó vậy?” Và cũng giống hệt như một cơn sốt có thể qua đi hay chúng ta choàng tỉnh khỏi một cơn ác mộng, bệnh tương tư có thể kết thúc. Khi đó chúng ta có thể đến gặp bạn bè và người thân của mình với vẻ bối rối và hỏi: “Tôi đã nhìn thấy điều gì ở cô ta vậy nhỉ?” Theo lời của triết gia và nhà toán học người Pháp Blaise Pascal: “Trái tim có lý lẽ của nó, điều mà lý trí không hiểu nổi.”3
3. Pascal, đoạn 277.
Sự ra đi của tình yêu cũng khó hiểu không kém sự xuất hiện của nó. Chẳng hạn, triết gia Bertrand Russell là người đàn ông đã có một gia đình hạnh phúc, cho đến khi, trong một lần đạp xe dọc con đường quê, ông chợt nhận thấy mình không còn yêu vợ nữa. Nhận thức này khiến ông lấy làm ngạc nhiên: “Tôi không ngờ, cho đến tận thời khắc này, tình yêu của tôi dành cho nàng thậm chí còn giảm đi.”1 Như vậy, trong tình yêu, chúng ta có một minh họa ấn tượng cho vai trò của ham muốn trong đời sống con người. Nó có thể túm lấy gáy ta, quăng quật một thời gian rồi sau đó bỏ rơi chúng ta.
1. Russell, Tự truyện, 195–196.
Rơi vào tình yêu chỉ là một ví dụ cho thấy chúng ta không lựa chọn được những ham muốn của mình, mà chúng mới lựa chọn ta. Điều tương tự cũng có thể xảy ra với những ham muốn vật chất.
Ví dụ, hãy xem xét tình cảnh khó xử của người tiêu dùng, vào một ngày nọ phát hiện thấy mình có một ham muốn ngớ ngẩn là được sở hữu một trong những chiếc xe ô tô quá khổ, còn được gọi là xe thể thao đa dụng (SUV – sport utility vehicles). Mặc dù những người mua SUV cố gắng đưa ra những lời biện minh hợp lý cho hành động của họ, song những lời biện minh này hiếm khi nghe lọt tai – trừ khi người mua xe là một nhà địa chất hoặc một người bẫy thú lấy lông. Gần đây, sự phổ biến của dòng xe SUV đặc biệt gây khó hiểu. Xe SUV đã tồn tại trong nhiều thập kỷ, người ta có thể tậu một chiếc xe Chevy Suburban từ giữa những năm 1930. Tại sao bây giờ có quá nhiều người mua chúng? Điều gì đã thay đổi? Tất nhiên là bạn có thể đặt ra câu hỏi tương tự về bất kỳ mốt tiêu dùng nhất thời nào khác.
Vào lúc viết cuốn sách này, sự khao khát của người tiêu dùng đối với những chiếc xe SUV đang có dấu hiệu đạt đỉnh, nó chỉ bị thay thế bởi một sự khao khát thậm chí còn khó lý giải hơn nhiều, đó là sở hữu một chiếc Hummer – phiên bản cách tân của dòng xe được thiết kế để vận chuyển binh lính qua các vùng chiến sự. Những người đầu tiên mua chiếc xe Hummers có vẻ hơi ngốc nghếch – vì suy cho cùng thì họ đâu có sống ở vùng có chiến tranh. Nhưng rồi sau đó một điều buồn cười đã xảy ra. Giống như một căn bệnh truyền nhiễm, ham muốn đối với xe Hummer bắt đầu lan rộng. Từng người, từng người hàng xóm dần nhiễm phải tính ganh tỵ với những chủ xe Hummer.
Không có điểm dừng chi tiêu cho những món đồ của những người giàu có. Chẳng hạn, người ta có thể chi 450.000 đô-la cho một chiếc đồng hồ đeo tay, 15.000 đô-la cho tai nghe stereo và 6.000 đô-la cho một cái tủ lạnh Sub-Zero. (Gần đây tôi có đến thăm nhà của một người sở hữu một trong những dòng tủ lạnh này. “Tại sao họ gọi nó là Sub-Zero?”, tôi hỏi, nghĩ rằng có lẽ bên trong chiếc tủ có khả năng làm lạnh khác thường. “Họ gọi nó là Sub-Zero,” chủ nhà đáp, “vì đó là chỉ số IQ phải có của tôi để chi tới 6.000 đô cho một chiếc tủ lạnh”). Và kể cả khi không giàu có, người ta vẫn không ngừng sống như thể họ là người có tiền. Họ hình thành và hành xử theo những ham muốn vật chất bằng sự buông thả liều lĩnh. Hãy xét đến trường hợp bà mẹ của ba đứa con, đang thất nghiệp và không chồng, bốn ngày sau khi mua chiếc xe Ford Mustang đã qua sử dụng, cô đã chi tới 2.736 đô-la – hơn phân nửa giá trị của chiếc xe – để thay nắp trục bánh xe nhựa của nó bằng bánh xe mạ crom. “Không gì tệ hơn mấy cái nắp trục bánh xe bằng nhựa!” – cô giải thích.1
1. Tkacik, A1.
Ở Mỹ, sự ham muốn vô độ với hàng tiêu dùng là yếu tố chịu phần lớn trách nhiệm cho hơn một triệu người bị phá sản mỗi năm. Nó cũng chịu trách nhiệm cho việc tỷ lệ tiết kiệm quốc gia âm trong những năm gần đây, có nghĩa là trung bình một người Mỹ, trong một tháng, không những không tiết kiệm được gì mà còn phải đi vay để trang trải cho lối sống của mình. Tất cả những điều này xảy ra ngay cả khi người Mỹ ngày nay được hưởng thụ một mức độ giàu có về vật chất mà ông bà tổ tiên của họ sẽ phải kinh ngạc. Ví dụ khác về sự xuất hiện đường đột của ham muốn và cách mà nó có thể thay đổi cuộc sống của chúng ta, hãy xét đến trường hợp của Thomas Merton. Merton sinh năm 1915. Thời đại học, ông là một mẫu sinh viên điển hình, ngập trong thú vui xác thịt. Ông uống rượu như hũ chìm và chạy theo một đám đông ăn chơi trác táng, thậm chí còn có con ngoài giá thú.1 Theo lời tự bạch thì ông là “một kiểu người cực kỳ đáng ghét – rỗng tuếch, ích kỷ, ăn chơi phóng đãng, yếu đuối, thiếu quyết tâm, vô kỷ luật, ham nhục dục, tà dâm và kiêu ngạo. Tôi thấy bản thân thật đáng kinh tởm.”2 Vậy mà trong vòng chưa đầy một thập kỷ, ông không chỉ là một tín đồ Công giáo mộ đạo, một thầy tu trong tu viện, mà còn là một tu sĩ dòng Trappist, nghĩa là ông đã đưa ra lời thề im lặng và chấp nhận sống một cuộc đời khổ hạnh.
1. Giroux, xxii.
2. Merton, 146.
Trong cuộc đời, bất cứ khi nào ai đó đi xa – về phương diện cá nhân, không phải phương diện vật lý thì câu hỏi thú vị là người đó đã đi từ điểm A đến điểm B như thế nào? Trong trường hợp của phần lớn những người du hành, động cơ cho chuyến đi của họ vẫn còn là một bí ẩn vì họ hoặc là không nhận biết được những động cơ của mình hoặc ý thức được chúng nhưng không thể hay không sẵn lòng nói ra điều gì đã thôi thúc họ đi theo con đường đời đó. Trong trường hợp của Merton, chúng ta thật may mắn, cuốn tự truyện Seven Storey Mountain (tạm dịch: Ngọn núi bảy tầng) của ông trình bày rất chi tiết tâm lý của một người đàn ông trong quá trình chuyển hóa.
Trước tiên, chúng ta hãy xem xét ham muốn của Merton là chuyển sang Công giáo. Đó là ví dụ kinh điển về một ham muốn tự phát: “Đột nhiên, một cái gì đó bắt đầu khuấy động trong tôi, một cái gì đó bắt đầu nhắc nhở tôi, thôi thúc tôi. Đó là tiếng nói của một sự biến chuyển.”1 Tiếng nói bảo Merton hãy đi tìm một linh mục và bày tỏ mong muốn được trở thành người Công giáo. Ông đã hy sinh những thú vui cũ của mình để được dẫn dắt, và trước khi biết đến nó, ông đã nung nấu một ham muốn được rửa tội. Ông hy vọng rằng những biến chuyển sẽ giúp ông đáp ứng ham muốn của mình theo ý của Chúa.
1. Merton, 236.
Đối với hầu hết mọi người, đây sẽ là đoạn kết của câu chuyện, nhưng Merton sớm nhận ra rằng: “Còn có một suy nghĩ khác, một nửa đang tự hình thành trong tâm trí tôi – một ham muốn còn mơ hồ là được trở thành linh mục.”2 Sau một đêm uống rượu, Merton và những người bạn đang ngồi trên sàn nhà mở nhạc, hút thuốc và ăn sáng thì “ham muốn mơ hồ” này lộ diện. “Ý tưởng này đến với tôi: Tôi sẽ trở thành linh mục” – Merton nói – “Ham muốn là một sức hút mạnh mẽ và ngọt ngào, sâu lắng và dai dẳng, đột nhiên có cảm giác đó. Nó là một cảm nhận mới mẻ, sâu sắc và rõ ràng rằng đây là việc mà tôi thực sự cần phải làm.”3
2. Merton, 239.
3. Merton, 277.
Sau quyết định trở thành linh mục, Merton cần phải quyết định mình nên gia nhập dòng tu nào. Ông khước từ các tu sĩ nghiêm ngặt tuân thủ của dòng Xito, thường được gọi là Trappist (tu sĩ dòng Trappist), vì quá khổ hạnh, lời thề nguyện im lặng và lối ăn chay của họ. (Ông nói rằng chính cái tên của họ đã khiến ông rùng mình). Thay vào đó ông thử đi theo các tu sĩ dòng Phanxicô nhưng thấy không thỏa mãn, bởi vì mệnh lệnh của họ cho ông quá nhiều sự tự do để tạo ra ham muốn và theo đuổi các ham muốn. Ông quyết định rằng có lẽ mình không được sinh ra để làm linh mục và dự định sống cuộc đời tu trì nhất mà một người thế tục có thể sống.
Không lâu sau đó, ông có một ham muốn mới: “Tôi đột nhiên thấy trong mình đầy tràn một niềm tin sống động rằng: Đã đến lúc tôi phải ra đi và trở thành một tu sĩ dòng Trappist.” Ông không biết ham muốn này từ đâu ra, nhưng nó “thật mạnh mẽ, rõ ràng và không thể cưỡng nổi”.1 Tại sao lại gia nhập dòng Trappist hơn là những dòng khác? Bởi vì trước đó, trong giây phút khủng hoảng, ông tình cờ mở Kinh thánh, chỉ ngón tay của mình xuống quyển kinh và đọc được câu: “Này, người phải giữ im lặng.” Merton xem đây như một dấu hiệu. (Những người hoài nghi thì có thể nghĩ rằng quyết định gia nhập một tu viện của ông trùng với ngày ông nhận được một lá thư từ ban tuyển quân – thời điểm Chiến tranh thế giới lần thứ hai vừa mới nổ ra).
1. Merton, 398–399.
Merton không ngạc nhiên trước sự khởi phát đột ngột của ham muốn và việc ông không có khả năng lý giải được chúng. Ngược lại, ông không ngần ngại bác bỏ quan điểm rằng những ham muốn của chúng ta, đặc biệt là những ham muốn quan trọng nhất, có ảnh hưởng nhất đến cuộc sống của chúng ta – được hình thành nhờ tư duy lý trí. Ông nói với chúng ta rằng: “Trí tuệ liên tục bị mê hoặc, làm cho đui mù và sai lạc bởi những kết thúc và mục đích của đam mê, và bằng chứng mà nó đưa ra cho chúng ta tỏ ra công bằng và khách quan thì luôn đầy ắp những quyền lợi và tuyên truyền.” Ông nói: “Chúng ta là bậc thầy tự huyễn hoặc bản thân.” Những ham muốn của chúng ta “là nguồn cơn màu mỡ của mọi kiểu sai lầm và đánh giá sai, và bởi vì những ham muốn đó đều có mặt trong chúng ta, trí tuệ của chúng ta đưa đến cho chúng ta mọi thứ bị xuyên tạc, bóp méo và phù hợp với những tiêu chuẩn của ham muốn trong ta.”1 Như chúng ta sẽ thấy ở các chương sau, Merton không đơn độc khi tin rằng lý trí có xu hướng là tôi tớ hơn là chủ nhân của ham muốn. Tôi cũng xin nói thêm rằng, điều này được dùng để làm bài học đối chiếu Merton với Bertrand Russell. Khi mọi người nghe câu chuyện cuộc đời của Merton đã chuyển hóa ra sao bởi những ham muốn đường đột, họ bị cuốn vào suy nghĩ cho rằng Merton hẳn phải có một khía cạnh huyền bí nào đó khiến ông dễ nhạy cảm trước những chuyện như thế. Theo họ, một người sống lý trí hơn sẽ không cho phép bản thân bị những ham muốn xoay vần. Điều dễ nhận thấy là Russell là một trong những người ít kỳ bí nhất, sống lý trí nhất trên thế giới này, và những ham muốn của ông vẫn có một đời sống bí mật. Có vẻ như chẳng ai miễn nhiễm trước sự khởi phát bất ngờ và biến mất cũng đột ngột không kém của ham muốn.
1. Merton, 225.
Những ham muốn tự phát đến từ đâu? Làm thế nào chúng xuất hiện trong đầu chúng ta? Một số ham muốn là hệ quả của quá khứ tiến hóa của chúng ta. Các nhà tâm lý học tiến hóa lập luận rằng: Chúng ta yêu nhau vì tổ tiên của chúng ta, những người có xu hướng yêu sẽ có nhiều khả năng sinh con đẻ cái và nuôi dạy chúng thành công hơn những người không yêu. Những ham muốn khác nảy sinh bởi vì ai đó đã khôn khéo gieo những hạt giống ham muốn trong chúng ta. Tại sao một người tiêu dùng đột nhiên lại thấy mình muốn một chiếc xe SUV? Trong hầu hết các trường hợp đều có vai trò của quảng cáo. Các nhà quảng cáo là chuyên gia trong việc thay đổi một cá nhân về cơ bản là đang thấy thỏa mãn với cuộc đời mình trở thành một người thèm muốn sản phẩm mà họ đang bán, biến anh ta thành người có thể sẵn sàng vung hơn nửa năm tiền lương của mình để sắm món đồ ấy.
Những ham muốn tự phát khác thì khó lý giải hơn. Chẳng hạn, dường như không thể nào có chuyện Thomas Merton đột nhiên muốn trở thành một tu sĩ dòng Trappist do lập trình tiến hóa (việc cho rằng tổ tiên chúng ta, ai trở thành tu sĩ dòng Trappist thì có nhiều khả năng sinh sản hơn những người không thành tu sĩ là điều quá vô lý) hoặc do quảng cáo (các tu sĩ dòng Trappist không quảng cáo).
Nguồn gốc bí ẩn của những ham muốn tự phát và kết quả khó đoán của chúng thật rắc rối. Những người đa nghi sẽ thấy băn khoăn trước câu chuyện của Merton. Nó dẫn tới khả năng là chúng ta đều chỉ là ba ham muốn tự phát được rời bỏ cuộc sống trong một tu viện Trappist, hoặc nếu không phải là điều này thì khi ấy, ba ham muốn tự phát là tránh xa khỏi một số lối sống không dành cho mình. Thực vậy, khả năng cao là bạn đọc đã từng trải nghiệm một ham muốn tự phát làm thay đổi cuộc đời mình. Bạn đã từng phải lòng ai đó bao giờ chưa? Liệu sự khởi đầu của tình yêu có dẫn đến hôn nhân không? Nếu có thì sau đó nó có dẫn tới việc ly hôn không? Và dù có dẫn đến hôn nhân hay không thì liệu tình yêu nảy sinh có dẫn tới việc sinh ra một đứa trẻ hay không? Nếu bạn từng yêu và trải qua những hậu quả của tình yêu thì cuộc sống sau đó của bạn chắc chắn sẽ khác biệt sâu sắc với cuộc sống mà bạn gần như chưa bao giờ đầu hàng trước nó. Và bạn dường như không chọn để mình rơi vào lưới tình.
Thường thì trong cuộc sống, những ham muốn của chúng ta thay đổi theo thời gian, vì ham muốn này sẽ thay thế cho ham muốn khác. Hãy so sánh những ham muốn tha thiết nhất của bạn vào lúc bạn mới 10 tuổi và hiện tại. Chắc hẳn đã có một sự khác biệt. Điều đã xảy ra là, dần dà cùng với thời gian, một số ham muốn trước đây của bạn đã được thỏa mãn và bạn tiếp tục tạo nên những ham muốn mới, trong khi có những ham muốn dường như không thể nào thỏa mãn được và bạn đã từ bỏ chúng để nghiêng về ham muốn khác. Đây là bản tính của con người: một cái đầu đầy rẫy những ham muốn, nhưng ham muốn trong vòng nghi vấn thì thay đổi theo từng năm và thậm chí trong từng phút. Điều này cũng tựa như nước của một dòng sông. Đôi lúc dòng chảy của ham muốn dừng lại và ai đó sẽ trải qua cảm giác mà tôi gọi là một sự khủng hoảng về ham muốn. Trước khi tiếp tục đi sâu hơn vào việc xem xét những cuộc khủng hoảng đó, hãy để tôi giải thích về sự khác biệt giữa một cuộc khủng hoảng ham muốn và một cuộc xung đột của ham muốn. Giả sử một ai đó bị nghiện ma túy. Lúc đầu, anh ta sẽ thích thú với cơn nghiện, nhưng có thể sẽ đến ngày anh ta kiệt quệ và nhận ra ham muốn của mình với thứ ma túy mà anh ta lựa chọn đang gây rất nhiều tác hại cho bản thân. Đây không phải là điều mà tôi muốn nói về cuộc khủng hoảng ham muốn, mà nó chỉ là một sự xung đột về ham muốn.
Những cuộc xung đột về ham muốn được hiểu cụ thể là một ham muốn hay nhóm ham muốn nào đó gây rắc rối cho ta vì chúng cản trở những ham muốn khác. Do đó, người nghiện ma túy có thể than phiền rằng ham muốn chất ma túy khiến anh ta không thể đạt được những ham muốn khác của mình, chẳng hạn như trở thành một người chồng, người cha tốt. Chúng ta ứng phó với sự xung đột về ham muốn bằng cách giải quyết những ham muốn gây rắc rối. Trong trường hợp nghiện ma túy, chúng ta có thể đi điều trị hoặc tham gia chương trình 12 bước. Ngược lại, trong cuộc khủng hoảng về ham muốn, không phải một vài ham muốn nào đó mang lại rắc rối cho ta, mà là toàn bộ ham muốn của chúng ta. Đó có thể là do ham muốn của chúng ta có vấn đề hoặc bị mất đi khiến cho ta phiền muộn.
Theo tôi, những cuộc khủng hoảng về ham muốn có ba loại. Loại đầu tiên, bạn đột nhiên mất đi khả năng ham muốn. Loại thứ hai, bạn giữ được khả năng ham muốn nhưng tự nhiên có cảm giác chán ghét, không phải về một ham muốn nào đó gây ra sự xung đột mà là về toàn bộ những ham muốn của bạn. Trong loại thứ ba, bạn gặp phải một cuộc khủng hoảng về ý nghĩa cuộc sống, bạn vẫn giữ được khả năng ham muốn nhưng không còn thấy ý nghĩa gì trong việc ham muốn cả. Giờ hãy để tôi làm rõ ba cuộc khủng hoảng này.
Chúng ta đều trải nghiệm sự mất khả năng ham muốn. Trạng thái này thường được gọi là sự buồn chán, tất nhiên ý tôi không phải là kiểu buồn chán mà bạn thường gặp, chẳng hạn như chán một công việc nào đó. Khi chán công việc, bạn vẫn có khả năng ham muốn. Thực tế, bạn có ham muốn dữ dội được làm việc gì đó khác với cái công việc đang làm bạn thấy chán ngắt kia; vì vậy mà ham muốn vẫn chưa ngưng trong bạn. Ở đây, tôi muốn đề cập tới trạng thái buồn chán mà có rất nhiều thứ bạn có thể làm; chỉ là bạn chẳng muốn làm gì cả. Khi đó, ham muốn đã lụi tàn trong bạn.
May cho chúng ta, kiểu buồn chán này thường chỉ là tình trạng tạm thời, hiếm khi nào kéo dài lâu hơn một buổi chiều Chủ nhật. Sớm muộn gì thì khả năng ham muốn của chúng ta sẽ xuất hiện trở lại. Tuy nhiên, giả dụ bạn đánh mất khả năng ham muốn và tình trạng này kéo dài không chỉ trong một buổi chiều mà suốt nhiều năm thì sao? Đây là điều từng xảy ra với tiểu thuyết gia đoạt giải Pulitzer – Larry McMurtry với tác phẩm lừng danh Lonesome Dove (tạm dịch: Bồ câu cô đơn).
McMurtry đã trải qua một cuộc phẫu thuật tim. Sự phục hồi của ông diễn ra tốt đẹp trong hai tháng đầu tiên, nhưng sau đó tai họa ập đến: ông không còn đọc sách được nữa. Không phải tại đôi mắt hay bộ não của ông gặp vấn đề. Chỉ đơn giản là ông đã mất ham muốn đọc, một ham muốn từng là chủ đạo, định nghĩa về cuộc đời ông cho đến thời điểm đó. Cuộc đời McMurtry chỉ biết xoay quay những cuốn sách – đọc sách, viết sách, mua và bán sách trong vai trò là nhà sưu tập sách hiếm. Và rồi bỗng dưng, sách trở nên vô nghĩa với ông. Đây là phần mô tả của ông về tình cảnh này: “Nội dung của cuộc đời tôi vốn đã từng phong phú thì giờ đây bắt đầu cạn kiệt nhanh chóng. Tôi từng là người dẫn đầu cho một cuộc sống Bờ Đông loại A điển hình, đọc ba tờ báo mỗi ngày, cùng nhiều tạp chí khác, và nói chung là cố gắng bắt kịp tin tức. Nhưng ít nhiều sau một đêm, việc nắm bắt thông tin không còn quan trọng đối với tôi nữa. Mặc dù tôi đã đăng ký mua tờ New York Times ở ba thành phố, nhưng một ngày nọ tôi đã gạt chúng sang một bên và đã không đọc những tờ báo khác trong bảy tháng.” McMurtry thấy bản thân ông đã thay đổi bởi sự biến mất của ham muốn: “Từ việc là một người có cá tính riêng khác, tôi bắt đầu cảm thấy mình ít nhiều giống như một hình bóng của ai đó, và rồi hình bóng đó thậm chí còn bắt đầu phai nhòa, bị xóa mất bởi những điều đã xảy ra bên trong. Tôi cảm thấy như thể mình đang tan biến, hay chính xác hơn, tôi đã biến mất. Đối với bản thân mình, tôi ngày càng giống một con ma, hay một cái bóng. Khi tổn thương trở nên sâu hơn, càng ngày tôi càng có cảm giác là mặc dù cơ thể còn sống sót, song bản ngã mà tôi từng có thì đã chết.”1 Ông nói ông cảm thấy mình giống kẻ lừa đảo, đang mạo danh chính bản thân mình. Ba năm sau cuộc phẫu thuật, khả năng ham muốn của ông dần được phục hồi, và cùng với nó là cái bản ngã cũ của ông. Đến năm thứ tư, ông có thể đọc lại một ấn bản đầu tiên của tác phẩm The Sun Also Rises (tạm dịch: Mặt trời vẫn mọc) của Hemingway và thấy thích thú khi soi ra một lỗi đánh máy phổ biến – từ stopped có ba chữ p ở trang 181.2
1. McMurtry, 145.
2. McMurtry, 147–148.
Cuộc khủng hoảng ham muốn của McMurtry làm dấy lên một câu hỏi y học rộng hơn. Khi gặp phải một cuộc khủng hoảng ham muốn thực sự, thế giới của người đó cũng tan vỡ. Sự chuyển hóa cá nhân có thể lớn hơn nhiều so với các cuộc khủng hoảng khác trong cuộc sống như khi một người gặp phải tai nạn kinh hoàng hay bị tống vào tù. Thế nhưng nhìn từ bên ngoài thì chẳng có chuyện gì xảy ra để gây nên sự chuyển hóa đó. Bởi lý do này mà người ta có xu hướng đánh đồng cuộc khủng hoảng về ham muốn với sự khởi phát của chứng bệnh tâm thần.
Mất ham muốn, không thể ngủ tròn giấc, và những nỗi kinh hoàng bất ngờ, chẳng hạn như những thứ mà McMurtry đã kinh qua là những dấu hiệu kinh điển của bệnh trầm cảm. Hơn thế nữa, bệnh trầm cảm không phải là chuyện hiếm gặp sau khi phẫu thuật tim. Nó mang đến một ý nghĩa hoàn toàn mới cho câu sáo ngữ cũ về nỗi đau khổ tinh thần gắn liền với một “con tim tan vỡ.” Do đó người ta có xu hướng coi cuộc khủng hoảng ham muốn của McMurtry là bệnh trầm cảm. Tuy nhiên, McMurtry bác bỏ ý kiến cho rằng việc mất hứng thú với đọc sách và viết lách của ông là một dấu hiệu của bệnh trầm cảm: “Đó hoàn toàn là một điều ngớ ngẩn. Tôi thường bị trầm cảm; tôi đã trải qua nhiều năm bị trầm cảm. Nhưng chúng không ngăn được tôi đọc sách, chạy đến một hiệu sách và viết. Cảm giác này thì khác.”1 Sự tự chẩn đoán của McMurtry liệu có đúng không thì khó mà đoán biết được.
1. Streitfeld, C1.
Đôi khi một cuộc khủng hoảng ham muốn được coi như dấu hiệu của giác ngộ thay vì bị xem là triệu chứng của bệnh tâm thần. Nghĩ theo hướng này, chúng ta nhìn lại cuộc khủng hoảng về ham muốn của Đức Phật Siddhartha Gautama. Trong thời kỳ khủng hoảng của mình, Ngài Siddhartha không gặp rắc rối bởi một số ham muốn giống như một người đang nghiện ma túy, và Ngài cũng không mất đi khả năng ham muốn như McMurtry; trái lại, Ngài buồn khổ với toàn bộ những ham muốn của mình và giải quyết tình trạng khó khăn đó bằng cách từ bỏ ham muốn.
Siddhartha sinh vào năm 563 trước Công nguyên tại nơi mà ngày nay là đất nước Nepal. Cha nuôi nấng Ngài trong cung điện, cắt đứt khỏi mọi phiền não của thế gian để Siddhartha không biết đến cái xấu ác trên cuộc đời. Và khi Siddhartha 29 tuổi, Ngài xin được rời cung điện để đi du hành, cha Ngài tìm cách sắp đặt mọi thứ để Ngài vẫn không biết đến những điều xấu ác. Ông ra lệnh cho quân lính dọn dẹp sạch đẹp con đường mà thái tử Siddhartha đi. Thế nhưng Siddhartha vẫn gặp được “ba nỗi khổ”: một người già, một người bệnh và một người chết. Vì phải đợi tới 29 năm để lần đầu tiên gặp được đau khổ, nên điều đó gây một ấn tượng mạnh cho Ngài và đẩy Ngài đến một cuộc khủng hoảng ham muốn. Cuối cùng thì điều gì đã gây ra cơn khủng hoảng? Có nhiều tích truyện khác nhau, nhưng theo một giai thoại thì vào một đêm nọ, khi Siddhartha ngủ trong cung điện, “Ngài tỉnh dậy, nhìn những nữ nhạc công đang ngủ xung quanh mình và cảm thấy chán ghét tột độ”. Đó là lúc “trong Ngài đầy cảm giác ghê tởm đối với cuộc sống trần tục”, Ngài quyết định rời bỏ cung điện và đi tìm tuệ giác.1
1. Thomas, 54.
Trong một cuộc khủng hoảng ham muốn tương tự như Ngài Siddhartha, một người sẽ trải qua việc lần đầu tiên cảm giác bất mãn với cuộc sống cứ tăng lên, trong khi cuộc sống đó có thể đã kéo dài nhiều tuần, nhiều tháng hoặc nhiều năm. Sau đó một sự kiện mang tính kích hoạt xuất hiện, bản thân sự kiện đó có thể hoặc không phải là một sự kiện lạ thường. Trong nhiều trường hợp, sự kiện gây ra cuộc khủng hoảng là một sự kiện quen thuộc như tỉnh dậy, nhìn những nữ nhạc công nằm ngủ xung quanh mình và cảm thấy chán ghét, nhưng chúng lại bất ngờ trở thành điều khủng khiếp quá sức chịu đựng.
Đây là cách mà một học giả Phật giáo mô tả quá trình con người trải qua khi họ gặp phải một cuộc khủng hoảng về ham muốn: nỗi đau khổ của chúng ta kích hoạt “một sự bừng ngộ nội tâm, một nhận thức xuyên thấu sự tự mãn dễ dãi của cuộc gặp gỡ thông thường giữa chúng ta với thế giới để thoáng thấy được nỗi bất an không ngừng gặm nhấm dưới chân. Khi sự thấu hiểu này xuất hiện, dù chỉ trong giây lát, thì nó có thể khiến một cuộc khủng hoảng cá nhân sâu sắc xuất hiện. Nó lật đổ những mục tiêu và giá trị quen thuộc, nó chế nhạo những mối bận tâm thường ngày của chúng ta, khiến cho những vui thú trước đây của chúng ta trở nên vô vị”.1
1. Bodhi, 1.
Có thể rút ra một bài học khi đối chiếu giữa trải nghiệm của Ngài Siddhartha với cái mà ngày nay chúng ta gọi là khủng hoảng tuổi trung niên. Những người trải qua một cuộc khủng hoảng tuổi trung niên điển hình thường không cảm thấy chán ghét những ham muốn hiện tại của họ giống như Ngài Siddhartha; trái lại họ cảm thấy chán ghét bởi mức độ nghèo nàn ít ỏi mà những ham muốn hiện tại của họ đang được thỏa mãn.
Do đó, một người đàn ông đang trải qua cuộc khủng hoảng tuổi trung niên thông thường không bị phiền muộn bởi những ham muốn tình dục mà bởi sự thiếu đa dạng của những đối tác tình dục của anh ta. Anh ta không bị bận tâm bởi chủ nghĩa vật chất tầm thường mà bởi sự thật là anh ta vẫn còn đang lái chiếc xe Ford trong khi có thể và đáng lẽ nên lái một chiếc Porsche.
Hoặc hãy xem xét hội chứng “chiếc tổ trống” mà các bậc cha mẹ có con bước vào đại học từng trải qua. Trong hầu hết các trường hợp, cuộc khủng hoảng bị kích hoạt bởi tình trạng “chiếc tổ trống” không phải là một cuộc khủng hoảng ham muốn theo nghĩa mà tôi muốn đề cập. Tuy nhiên, bằng cách xem xét hội chứng này, chúng ta có thể hiểu rõ cơ chế hoạt động của ham muốn.
Nếu là những ông bố bà mẹ tốt, họ thường thay thế những ham muốn của riêng họ bằng ham muốn của con họ. Họ thức dậy vào buổi sáng và không nghĩ “Tôi muốn gì?” mà là nghĩ “Con tôi cần gì?”. Sau khi làm việc này trong hai thập kỷ, khả năng ham muốn ích kỷ của họ suy yếu. Họ đơn giản là không giỏi trong khoản nghĩ về những điều họ mong muốn, phần còn lại của thế giới như bị quên lãng. Khi con họ trưởng thành và “rời khỏi tổ”, nguồn ham muốn “bên ngoài” này cạn kiệt, và các bậc cha mẹ đối mặt với một nhiệm vụ là học lại cách ham muốn ích kỷ. Đây là thách thức mà những cặp vợ chồng già không ở với con phải đối mặt – làm sao để khởi động lại động cơ ham muốn.
Trong những nền văn hóa khác, người ta có một số giải pháp cho hội chứng “chiếc tổ trống”. Ví dụ, trong văn hóa Hindu, những cặp vợ chồng già không ở với con được tư vấn cách vứt bỏ động cơ ham muốn chứ không phải khởi động lại động cơ ham muốn. Luật Manu của đạo Hindu chia cuộc đời thành bốn giai đoạn: học sinh, chủ gia đình, người về hưu và người tu khổ hạnh. Những cặp vợ chồng già không ở với con thường có bước chuyển đổi từ người chủ gia đình sang người về hưu. Công việc của một người chủ gia đình, kiếm tiền và tiêu tiền một cách khôn ngoan phù hợp với luật Hindu. Nhưng khi da anh ta bắt đầu nhăn nheo, tóc bạc dần và gặp được cháu mình thì người chủ gia đình đã sẵn sàng bước sang giai đoạn tiếp theo của cuộc đời. Thay vì học lại cách để ham muốn ích kỷ, anh ta biến mức độ ham muốn bị suy giảm trở thành lợi thế của mình: “Từ bỏ tất cả thực phẩm đã trồng được và mọi đồ đạc, của cải cá nhân, anh ta có thể đi vào rừng, gửi vợ cho các con trai chăm sóc, hoặc đi cùng vợ. Anh ta mang theo ngọn lửa thiêng và các dụng cụ cần thiết cho “lễ hy sinh”, anh ta có thể từ bỏ làng mạc để vào rừng và sống ở đó, và kịp thời kiểm soát các giác quan của bản thân.”1
1. Luật Manu, chương 6, đoạn 1–4.
Những cuộc khủng hoảng ham muốn được mô tả ở trên đã đủ tồi tệ rồi, ấy thế mà người ta còn có khả năng tưởng tượng ra những cuộc khủng hoảng còn nghiêm trọng hơn thế nữa. Ví dụ, hãy xét đến “sự bắt giữ cuộc sống” của nhà văn người Nga Lev Tolstoy. Khi ông trải nghiệm cơn khủng hoảng ham muốn ở độ tuổi ngoài 40, Tolstoy là người đàn ông giàu có, sức khỏe tốt và đang ở đỉnh cao sự nghiệp. Cũng giống như hầu hết mọi người, ông tràn đầy ham muốn, nhưng rồi một chuyện kỳ lạ bắt đầu xảy ra: ông bắt đầu trải nghiệm “những khoảnh khắc bối rối.” Chúng sẽ qua đi, để rồi lại tái diễn. Ông nói rằng: những khoảnh khắc đó, “luôn được biểu hiện qua những câu hỏi: Để làm gì? Nó dẫn đến điều gì?”2
2. Tolstoy, 15.
Lúc đầu ông phớt lờ những câu hỏi này, nhưng chúng cứ liên tục xuất hiện trong tâm trí. Ví như khi xem xét đến nhu cầu của con cái hay của những người nông dân trong khu đất của ông, ông đột nhiên tự nhủ rằng: “Để làm gì?”. Ngay cả danh tiếng trong giới văn chương của ông cũng không còn là nguồn vui nữa: “Tôi sẽ tự nhủ: ‘Được rồi, mi sẽ nổi tiếng hơn cả Gogol hay Pushkin; Shakespeare hay Molière, hay nổi tiếng hơn hết thảy nhà văn trên thế giới này, nhưng rồi sao nào?’ Và tôi không thể tìm ra câu trả lời.”3
3. Tolstoy, 16–17.
Ngay sau đó, Tolstoy gặp phải một cuộc khủng hoảng toàn diện về ham muốn: “Tôi cảm thấy những thứ mà tôi từng đứng trên đó đã sụp đổ và rằng tôi chẳng còn lại gì dưới chân mình. Những điều mà tôi từng sống vì chúng không còn tồn tại, và chẳng còn gì cả.” Ông nói tiếp:
“Cuộc sống của tôi bị ngưng trệ. Tôi có thể hít thở, ăn uống và ngủ nghỉ, và tôi không thể không làm những việc này; nhưng đã không còn cuộc sống, bởi vì những ước vọng khiến tôi cảm thấy có lý do để sống, để đạt tới đã không còn nữa. Nếu tôi ham muốn một cái gì đó, thì tôi đã biết trước rằng, dù tôi có thỏa mãn hay không thỏa mãn ước vọng ấy của mình, thì tiếp theo đó sẽ chẳng có gì hết. Giả sử có một tiên nữ đến và tỏ ý sẵn sàng thực hiện mọi ước vọng của tôi thì tôi sẽ không biết nói gì. Nếu ở trong tôi còn có thứ không phải ước vọng, mà chỉ thói quen ước vọng như trong những giây phút say rượu xưa kia, thì lúc tỉnh táo, tôi biết rằng cái đó chỉ là hư ảo, rằng chẳng có gì để ước vọng nữa. Ngay cả nhận biết chân lý, tôi cũng không thể ước vọng nữa, bởi vì tôi đoán được nó là cái gì. Chân lý ấy là: cuộc sống là vô nghĩa.”1
1. Tolstoy, 17–18.
Đối với Tolstoy, có vẻ như ai đó đã chơi một trò đùa ác độc và ngu ngốc với ông bằng cách đặt ông vào thế giới này và thích thú xem Tolstoy đạt được thành tựu của thế gian, để rồi lại phát hiện ra tất cả chẳng có nghĩa lý gì hết. Tolstoy nói với chúng ta rằng: điều ngạc nhiên duy nhất của ông là ông không nhận ra điều này ngay từ đầu. Suốt cuộc đời ông đã vô tư để cho những ham muốn của mình bay nhảy tự do; chỉ đến bây giờ ông mới vỡ ra mình thật dại dột khi làm thế.
Cuộc khủng hoảng ham muốn của Tolstoy khác với những cuộc khủng hoảng được thảo luận trước đó. Larry McMurtry nhận thấy mình không thể ham muốn nhưng vẫn ham muốn được ham muốn. Ngài Siddhartha vẫn có khả năng ham muốn nhưng lại ham muốn mình không còn ham muốn. Tolstoy không đánh mất khả năng ham muốn và không muốn từ bỏ ham muốn. Chỉ là ông không còn nhận thấy bất kỳ ý nghĩa gì trong việc ham muốn. Những gì Tolstoy trải qua là cuộc khủng hoảng ham muốn nghiêm trọng nhất, một cuộc khủng hoảng về ý nghĩa cuộc sống. Những cuộc khủng hoảng như vậy thật nguy hiểm vì chúng có thể dẫn tới kết cuộc tự sát. Và quả thực, trong suốt thời gian chịu đựng cuộc khủng hoảng, Tolstoy đã có ý định tự tử.
Cuộc khủng hoảng ham muốn của Tolstoy phải mất nhiều năm trời để phát triển. Trong một trường hợp khác về một phụ nữ 65 tuổi giấu tên, cuộc khủng hoảng ham muốn này chỉ mất vài phút. Người phụ nữ này đã chiến đấu với căn bệnh Parkinson suốt 30 năm, và dù các triệu chứng của bà đã trở nên nghiêm trọng nhưng về mặt tâm lý, bà ấy đã chiến đấu ngoan cường. Bà ấy không bị trầm cảm và tâm trạng cũng không thay đổi thất thường. Rồi vào một ngày nọ của năm 1999, mọi thứ đã thay đổi: trong vòng 5 phút, bà chuyển từ một người vui vẻ thành người bị trầm cảm nặng. Các bác sĩ đã tận mắt chứng kiến tình tiết diễn biến, ghi lại video sự thay đổi trong những biểu cảm của bà ấy, và những lời mà bà thốt ra: “Tôi không còn muốn sống nữa, không muốn nhìn, không muốn nghe, không muốn cảm nhận gì hết... Tôi chán ngấy cuộc sống này rồi, tôi sống đủ rồi... Tôi không thiết sống nữa, tôi chán ghét cuộc đời này.” Các bác sĩ tin chắc rằng những cảm giác này là thật lòng và chân thành. Người phụ nữ này chỉ đơn giản là đã mất đi ham muốn sống chỉ trong vài phút, ngay trước mắt họ.1
1. Bejjani, 1476f.
Chuyện gì đã xảy ra với người phụ nữ này? Bà vừa nhận được tin buồn sâu sắc nào đó chăng? Hay bà ấy đã đọc những tác phẩm của một vài triết gia bi quan? Không hề có chuyện đó. Vào thời điểm bà ấy rơi vào cuộc khủng hoảng về ý nghĩa cuộc sống, các bác sĩ trong một nỗ lực nhằm giảm bớt các triệu chứng của bệnh Parkinson đã kích thích điện vào một vùng não bộ của bà. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra nếu họ kích thích đúng chỗ thì những nạn nhân của căn bệnh Parkinson có thể nhận được sự cải thiện đáng kể; nhưng để bác sĩ tìm đúng chỗ, bệnh nhân phải tỉnh táo khi được thực hiện các kích thích dò tìm. Trong trường hợp của người phụ nữ này, các bác sĩ đã vô tình kích thích nhầm chỗ. Một lời giải thích cho chuyện đã xảy ra, đó là các bác sĩ đã ức chế phần não bộ tạo ra ý chí sống, và hậu quả là người phụ nữ này ngay lập tức bị trầm cảm. Tôi sẽ nói thêm về người phụ nữ này và số phận của bà ấy ở Chương 6, khi tôi xem xét về nền tảng sinh học của ham muốn.
Những cuộc khủng hoảng được mô tả trong chương này thật đáng quan ngại. Chúng cho thấy khả năng rằng khi chúng ta thức dậy vào sáng mai, chúng ta có thể giống như McMurtry, sẽ mất đi khả năng ham muốn, hoặc giống Ngài Siddhartha, sẽ khám phá ra mình không còn ham muốn những thứ đã thèm muốn vào buổi tối hôm trước. Dù là trường hợp nào đi nữa, chúng ta sẽ trải nghiệm một cuộc khủng hoảng về bản thể cá nhân để có thể chuyển hóa như một con người. Có thể chúng ta sẽ trải qua một cuộc khủng hoảng về ý nghĩa cuộc sống giống như Tolstoy từng trải qua. Những độc giả có xu hướng coi nhẹ những khả năng đó thì cần hiểu rằng McMurtry, Ngài Siddhartha và Tolstoy cũng từng không quan tâm gì đến chúng, cho đến khi họ thấy mình rơi vào vòng kìm tỏa của một cuộc khủng hoảng ham muốn. Trải qua một cuộc khủng hoảng ham muốn là điều cực kỳ đau đớn, nhưng nó có thể đem lại lợi ích, chẳng hạn, nhờ cuộc khủng hoảng mà Ngài Siddhartha đã giác ngộ. Liệu người ta có thể đạt được sự giác ngộ mà không phải trải qua một cuộc khủng hoảng ham muốn hay không? Biết đâu được. Đặc biệt là, chúng ta có thể hy vọng rằng nhờ khắc cốt ghi tâm lời khuyên của những cao nhân đó, như Ngài Siddhartha, đã sống sót qua một cuộc khủng hoảng ham muốn mà chúng ta cũng có thể đạt được một mức độ giác ngộ nào đó. Chúng ta sẽ xem xét một vài lời khuyên về vấn đề này ở Phần 3.