Ở một mình là một trong những điều tồi tệ nhất đối với con người.
—William James
Địa ngục – là kẻ khác.
—Jean-Paul Sartre
Hầu hết mọi người đều tìm kiếm danh vọng và tài sản. Nếu không thể nổi tiếng toàn thế giới thì họ sẽ tìm kiếm danh tiếng ở cấp khu vực, địa phương, nổi tiếng trong vòng tròn mối quan hệ xã hội của họ hay xuất chúng so với các đồng nghiệp của họ. Tương tự, nếu không thể tích lũy được một gia tài đúng nghĩa thì họ sẽ tìm kiếm sự sung túc tương đối: muốn giàu hơn đồng nghiệp, hàng xóm, người thân và bạn bè của họ.
Thoạt nhìn thì ham muốn danh vọng (phổ quát hơn đối với địa vị xã hội) và ham muốn về tài sản (đối với của cải vật chất) có vẻ như khác nhau: cái đầu liên quan tới mọi người, còn cái sau thì không. Tuy nhiên, ngẫm một chút thì thấy ham muốn vật chất và ham muốn xã hội của chúng ta có mối liên hệ chặt chẽ, phần lớn là vì chúng ta sống cạnh nhiều người và muốn họ ngưỡng mộ mình nên ta mới thèm muốn của cải vật chất đến vậy. Nếu chúng ta thờ ơ trước địa vị xã hội thì chúng ta ít có khả năng ham muốn xe hơi, kim cương và căn nhà mà ta đang mơ mộng về chúng. Thật vậy, nếu hàng xóm chế giễu thay vì trầm trồ nể phục những người chủ xe SUV, những chiếc đồng hồ đeo tay đắt tiền và dinh thự rộng 15 nghìn mét vuông, thì không chắc chúng ta sẽ nỗ lực, cố gắng đạt được những thứ đó.
Một kết luận rút ra từ điều này là nếu muốn hiểu được tại sao lại có những ham muốn mà ta đang có – tức là hiểu được tại sao chúng ta muốn những gì mà ta muốn – thì điều tối quan trọng là phải thấy rõ vai trò của người khác trong cuộc sống của chúng ta. Đặc biệt, ta cần hiểu mình muốn gì ở người khác. Do đó, hãy xem xét những ham muốn xã hội của mình.
Aristotle nói rằng con người là một loài động vật chính trị.1 Ý ông không phải là chúng ta về bản chất đã hứng thú với chính trị – nhiều người rõ ràng là đâu có quan tâm đến chính trị. Ý ông ấy là con người bản chất vốn đã phù hợp cho lối sống trong một thành bang, hoặc cộng đồng. Bản chất chúng ta là sống thành tập thể, hòa mình giữa gia đình và bạn bè. Phần lớn chúng ta sẽ thấy thật khó mà sống nếu thiếu tiếp xúc với con người trong một khoảng thời gian dài. Quả thật, phần đông chúng ta chưa bao giờ, trong cả cuộc đời mình, trải qua 24 giờ đồng hồ mà không có sự tiếp xúc với con người; nếu có thì đó có thể không phải do ta tự lựa chọn.
1. Aristotle, bk. 1, ch. 2.
Con người cần có nhau. Đó là một nhu cầu được cho là chỉ sau mỗi nhu cầu về không khí, nước uống và có lẽ là thức ăn của chúng ta. (Một số người sẽ thích một ngày thiếu thức ăn hơn là thiếu con người). Nếu tước đi của một người bình thường sự tiếp xúc, giao tiếp với con người trong một thời gian dài, chúng ta sẽ lo ngại cho sự lành mạnh bình thường của y.
Tại sao chúng ta lại cần người khác? Chúng ta nhận được gì từ họ? Họ phần nào là một nguồn vui. Chúng ta cần họ nếu ta muốn trò chuyện, chơi quần vợt hay làm tình. Chúng ta cũng cần những hàng hóa và dịch vụ mà họ cung cấp. Người bán tạp hóa cung cấp thực phẩm cho tôi, còn bác sĩ của tôi thì giúp tôi khỏe mạnh. Mối liên hệ của tôi với những cá nhân đó hoàn toàn hợp lý, bởi vì mua thực phẩm từ một cửa hàng thì dễ dàng hơn là tự tay trồng ra; và bởi vì tôi không đủ năng lực để chẩn ra bệnh tình của mình. Và kiếm tiền để mua những hàng hóa và dịch vụ của người khác có liên quan đến công việc của tôi. Những người khác cũng là một nguồn thông tin hữu ích. Họ biết những điều mà tôi không biết, và những thông tin ấy sẽ có lợi cho tôi. Tôi nói chuyện với họ một phần để nắm được những mẩu thông tin này, chẳng hạn như cửa hàng tạp hóa đang phát miễn phí các mẫu kem. Song những nhu cầu xã hội thiết thực này chỉ là một phần của câu chuyện. Ngay cả khi chúng ta có mọi thứ cần thiết để duy trì một cuộc sống thoải mái, chúng ta vẫn sẽ tìm đến người khác.
Chúng ta tìm đến họ một phần vì những phản hồi xã hội từ họ. Hầu hết chúng ta đều bất an. Chúng ta lo sợ rằng những lựa chọn ta đưa ra về lối sống của mình là sai lầm. Chúng ta hướng đến người khác để tìm sự trấn an. Chúng ta có thể kể cho một người bạn về những suy nghĩ, hoạt động, kế hoạch, nỗi ham muốn và sự sợ hãi của chúng ta vì muốn biết phản ứng của người bạn ấy. Chúng ta muốn bạn mình ủng hộ những lựa chọn của chúng ta hoặc nếu không thì cũng để giúp chúng ta tỉnh trí lại.
Đôi lúc phản hồi xã hội có tính trực tiếp và rõ ràng: “Kiểu tóc đó trông khiếp quá!” Nhưng thường thì phản hồi lại mang tính nói giảm nói tránh: “Nó không đến nỗi tệ như kiểu tóc mà cậu cắt vào mùa Giáng sinh năm ngoái.” Phản hồi cũng có thể là phi ngôn ngữ. Nét mặt của người bạn đời khi nhìn thấy kiểu tóc mới của chúng ta có thể quan trọng hơn bất kỳ lời bình luận trấn an nào mà họ có thể nói sau đó. Vì phản hồi xã hội quá quan trọng với chúng ta nên ta đã phát triển kỹ năng đọc được suy nghĩ của đồng loại: chúng ta học cách nhìn thấu phản ứng của họ và dò ra những cảm xúc thực của họ.
Mặc dù bạn bè, người thân và người yêu đều là những nguồn phản hồi quan trọng, nhưng chúng ta cũng chú ý đến những phản hồi từ kẻ thù và thậm chí là những người hoàn toàn xa lạ. Trên thực tế, chúng ta thậm chí coi trọng phản hồi của họ hơn phản hồi của bạn bè, vì bạn bè có động cơ để nói dối chúng ta – nói điều mà chúng ta muốn nghe để giữ gìn tình bạn – còn kẻ thù và người xa lạ thì không. Một kẻ thù chỉ ra khuyết điểm có thể khiến nó hiện ra sừng sững trong tâm trí chúng ta, hơn việc mười người bạn phủ nhận rằng chúng ta đang có khuyết điểm như thế. Một người lạ cười khúc khích trước kiểu tóc của chúng ta có thể làm cho ta quay lại tiệm ngay lập tức, ngay cả khi người thân nói với ta rằng chẳng có vấn đề gì với kiểu tóc đó.
Ngay cả khi chúng ta hoàn toàn tự tin rằng bản thân không cần kiểm tra lại các quyết định của mình với người khác thì chúng ta có lẽ vẫn quan tâm nhiều đến suy nghĩ của người khác về mình. Chúng ta muốn họ thừa nhận sự tồn tại của ta, ghi nhận ta và đáp lại ta. Chúng ta có thể muốn họ yêu ta, và nếu không thì chí ít cũng ngưỡng mộ ta. Hay nếu không thể có được sự ngưỡng mộ của họ thì chúng ta tìm kiếm sự tôn trọng hay ghi nhận.
Trong những trường hợp ngoại lệ, chúng ta tìm kiếm sự công nhận hoặc ngưỡng mộ không phải của một vài người được chọn mà của cả đám đông. Tự sâu thẳm bên trong, hầu hết chúng ta thích được nổi tiếng, để không chỉ bạn bè, người thân và hàng xóm ngưỡng mộ, mà còn cả những người hoàn toàn xa lạ. Thật vậy, theo Plato, chúng ta sẽ hoang mang trước hành vi của con người trừ khi ta hiểu được: “Họ bị khuấy động như thế nào bởi tình yêu đối với danh tiếng bất tử. Họ sẵn sàng chấp nhận mọi rủi ro nguy hiểm lớn hơn cả việc chấp nhận rủi ro vì con cái, tiêu tốn tiền bạc và chịu đựng bất kỳ sự vất vả nào, và thậm chí là cái chết, vì muốn để lại một cái tên bất diệt.”1 Samuel Johnson nhận xét: “Mọi người, dù có nguyện vọng dường như vô nghĩa với tất cả những người khác trừ bản thân mình, vẫn có một vài dự án mà anh ta ôm hy vọng sẽ được nổi danh, một số tác phẩm nghệ thuật mà anh ta tưởng tượng rằng sẽ thu hút sự chú ý của cả thế giới.”2 Triết gia David Hume từng viết “tình yêu đối với danh tiếng; những luật lệ với quyền thế không gì kiểm soát nổi trong mọi suy nghĩ phóng khoáng, và thường là mục tiêu tối quan trọng của mọi tham vọng và cam đoan của họ”.3 Và tiểu thuyết gia Anthony Trollope viết rằng ham muốn nổi tiếng “là thứ ‘rất người’ đến nỗi ai thiếu nó thì đứng trên hoặc thấp hơn con người”. Sau đó ông thú nhận về ham muốn nổi tiếng của mình, đó là ông muốn mình không chỉ là một nhân viên ở bưu điện, mà là một người quan trọng.4
1. Plato, “Tiệc rượu,” 167–168.
2. Johnson, số 164 (12 tháng Mười, 1751).
3. Hume, “Enquiry Concerning the Principles of Morals,” đoạn IX, phần 1.
4. Trollope, 92–93.
Và chúng ta không chỉ muốn nổi tiếng; hầu hết chúng ta đều tưởng tượng rằng mình sẽ nổi tiếng. Ví dụ, hãy xem xét các nhà xã hội học. Ít ai có thể buộc tội họ là một nhóm háo danh. Tuy nhiên, một cuộc khảo sát với gần 200 nhà xã hội học phát hiện thấy khoảng 100 người trong số họ mong ước được trở thành một trong 10 nhà xã hội học hàng đầu trong thời đại của họ, đây rõ ràng là một việc bất khả thi về mặt toán học. Cuộc khảo sát cũng phát hiện thấy hơn một nửa trong số họ nuôi hy vọng tên tuổi của mình sẽ trường tồn theo thời gian thông qua nghiên cứu xã hội học – họ nghĩ rằng những tác phẩm của họ vẫn sẽ có người đọc sau khi họ qua đời.1
1. Cowen, 154–155.
Các triết gia cũng tìm kiếm danh tiếng theo cách kín đáo, âm thầm. Tôi không có khảo sát nào để chứng minh cho điều này, nhưng tôi có nhận định của Cicero cho rằng: “Những triết gia mà thậm chí viết về việc xem thường danh tiếng thì cũng vẫn đặt cái tên của mình ngay trang đầu. Trong chính hành động ghi lại sự khinh thường của họ đối với danh tiếng và tai tiếng, họ cũng muốn được người ta biết đến và nhắc đến tên tuổi của mình.”2 Như vậy có thể đưa ra một quan điểm là, ngay cả những người công khai khinh bỉ danh tiếng cũng âm thầm thèm muốn nó. Theo lời của Tacitus: “Ham danh là ham muốn cuối cùng mà một người thông thái rũ bỏ.”3
2. Cicero, 119.
3. Được trích dẫn trong Schopenhauer, “Wisdom of Life,” 58.
Các nhà xã hội học và triết học phải làm việc chăm chỉ để đạt được danh tiếng; còn những tên bạo chúa có thể đạt được nó thông qua pháp luật, dù họ chẳng làm gì để xứng đáng với danh tiếng hay tai tiếng đó. Một ví dụ gần đây về điều này là Saparmurat Niyazov4, nhà độc tài xứ Turkmenistan, tự xưng là “Cha của mọi con dân Turkmen”. Ông ta đặt tên cho các thành phố, con đường, nhà thờ Hồi giáo, trang trại, sân bay chính và thậm chí cả các thiên thể theo tên mình. Ông ta đã dựng tượng của mình trên khắp đất nước và đưa khuôn mặt mình lên các bảng quảng cáo và tiền tệ. Thậm chí ông ta còn đổi tên một tháng trong lịch Turkmen cho bản thân mình. Tờ New York Times chạy dòng tít: “Nhà lãnh đạo của người Turkmen, Ước được trở thành tháng Tám, An phận làm tháng Một”. Và để đảm bảo rằng danh tiếng của nhà nước độc tài mà ông ta làm chủ sẽ không bị phai nhạt trong suốt cuộc đời, ông đã hai lần tự xưng mình là tổng thống trọn đời.5
4. Ông Niyazov từng đổi tên các thứ và các tháng theo tiếng Turkmen thành các từ liên quan đến mình, tháng 1 là Nhà lãnh tụ của Thổ Nhĩ Kỳ (biệt danh của ông này), tháng 8 là Alp Arslan - vị lãnh tụ thứ hai của Triều đại Selijuk - một nhân vật lịch sử. (ND)
5. Rosett, A12.
Nếu chúng ta đạt được danh tiếng thì điều gì sẽ xảy ra sau đó? Có khả năng chúng ta sẽ không được thoải mái. Vấn đề với danh tiếng là nó nằm trong tâm trí của người khác, và theo nhận định của triết gia người Đức ở thế kỷ 19 Arthur Schopenhauer: “Tâm trí của người khác là một nơi tồi tệ để trở thành ngôi nhà cho hạnh phúc đích thực của một người.”1 Bởi vì sự nổi tiếng đòi hỏi sự hợp tác của những người khác, chúng ta đã phó mặc bản thân cho những người đó. Cụ thể, khi một người được thổi phồng bằng danh tiếng, thì những người còn lại có khả năng làm “xì hơi” anh ta, và hẳn sẽ đẩy anh ta vào tình cảnh bất hạnh và thống khổ bằng một vài từ được lựa chọn kỹ càng. Điều này xảy ra thường là vì hoạt động mang lại danh tiếng cho người nào đó cũng mang đến niềm hạnh phúc cho y. Tuy nhiên, không có nghĩa là một người nổi tiếng không thể sống hạnh phúc. Khi danh tiếng và hạnh phúc của anh ta không có mối quan hệ trực tiếp, anh ta sẽ vẫn hạnh phúc kể cả khi danh tiếng suy giảm.2
1. Schopenhauer, “Trí tuệ đời người,” 99.
2. Schopenhauer, “Trí tuệ đời người,” 101.
Thật là một sai lầm khi cho rằng những phản ứng mà chúng ta tìm kiếm nơi người khác luôn là phản ứng tích cực, rằng ta chỉ biết tìm kiếm tình yêu, sự ngưỡng mộ hay lòng tôn trọng của họ đối với ta. Trái lại, một phần đáng kể trong hành vi của con người được thúc đẩy bởi một ham muốn gây ra những cảm giác tiêu cực ở người khác. Ví dụ, phần lớn mọi người đều có một ham muốn khiến những người xung quanh có cảm giác ghen tỵ – tôi sẽ nói thêm về điều này ở phần tiếp theo. Chúng ta cũng có thể có một ham muốn đánh bại người khác. Khi tham gia một giải quần vợt, mục tiêu của chúng ta có thể không chỉ đơn thuần là giành được cúp mà còn để có được cảm giác hạnh phúc trước sự đau khổ về thể chất và tinh thần của đối thủ. (Theo lời của tiểu thuyết gia Gore Vidal: “Đạt được thành công thôi là chưa đủ. Mà những kẻ khác phải thất bại”). Chúng ta có thể có ham muốn thể hiện thái độ khinh thường người khác. Ham muốn này có thể thúc đẩy một người đàn ông ợ hoặc xì hơi trước sự hiện diện của một cô gái từng từ chối anh ta. Hoặc chúng ta có thể có một ham muốn khiến người khác cảm thấy bực bội. Điều này có thể là động cơ khiến một đứa trẻ vung vẩy những món đồ chơi để trêu chọc em mình. Cuối cùng, một người có thể ham muốn tìm kiếm phản ứng tiêu cực tột độ nơi những người xung quanh – muốn những người khác sợ mình. Có lẽ đây là ham muốn xã hội thúc đẩy những nhà độc tài như Stalin. Họ không tìm kiếm danh tiếng, mà là tai tiếng. Người ta có xu hướng xem thường sự tồn tại của những ham muốn xã hội tiêu cực và cho rằng chúng hiếm gặp hoặc chỉ thấy ở những người đang mắc bệnh tâm thần hoặc bất bình thường. Nếu chấp nhận quan điểm này, chúng ta sẽ không thể lý giải được một phần đáng kể của hành vi con người. Trong một thế giới hoàn hảo, tất cả mọi người đều muốn được yêu thương, được ngưỡng mộ và kính trọng. Trong thế giới của chúng ta, rất nhiều người đã từ bỏ ham muốn được yêu thương, được ngưỡng mộ và tôn trọng, thế nhưng lại muốn người khác thừa nhận sự tồn tại của họ: “Nếu họ không yêu tôi thì hãy khiến họ sợ tôi. Nếu họ không tôn trọng tôi thì họ sẽ phải chịu đựng hành động hiếu chiến hoặc đáng ghét của tôi. Không ai có thể phớt lờ tôi!”
Để minh họa cho điều đó, hãy xem xét trường hợp một kẻ điên đã sát hại nhiều đồng nghiệp rồi cuối cùng tự sát. Một kẻ như vậy, người ta có thể cho rằng hắn không cần đến ai; hành vi phản xã hội của hắn ta cho thấy điều đó. Trái lại, tôi sẽ lập luận rằng nhiều kẻ lạc lõng trong xã hội có một nhu cầu mãnh liệt là tương tác với người khác; chỉ là nhu cầu đó lại tiêu cực đến lố bịch mà thôi. Nếu kẻ đó không cần đến ai thì hắn đơn giản có thể tự sát hoặc sống ẩn dật. Hắn giết người vì hắn cần thứ gì đó ở họ, có thể là sự chú ý hoặc tôn trọng của họ. Và khi không thể giành được sự tôn trọng thì hắn muốn có được sợ hãi của họ. Hắn sẽ buộc họ phải thừa nhận sự tồn tại của mình, ngay cả việc để có được nó đòi hỏi hắn phải từ bỏ chính mạng sống của mình.
Một lý do tiêu cực mà chúng ta cần đến người khác là chúng ta có thể cảm thấy mình ở đẳng cấp cao hơn họ. Thật kinh khủng khi nói ra điều này, nhưng cùng lúc, nhiều học giả có quan sát cẩn trọng về ham muốn cũng có chung quan điểm như vậy. Theo Schopenhauer: “Điều mà mọi người nhắm đến trong cuộc tiếp xúc bình thường với đồng loại của mình là chứng tỏ rằng họ thấp kém hơn anh ta.” Ông nói thêm: “Phép lịch sự là một thỏa thuận ngầm rằng những khiếm khuyết đáng thương của mỗi bên, dù là về đạo đức hay trí tuệ, đều sẽ được lờ đi và không biến thành chủ đề bị bôi nhọ.”1 Theo triết gia Thomas Hobbes: “Mọi niềm vui và lạc thú của con tim đều nằm ở khả năng so sánh bản thân một cách đầy lợi thế hơn so với kẻ khác và tự đề cao mình.”2 Còn theo nhà thần học John Calvin: “Mỗi chúng ta đều tìm cách tự tôn bản thân lên cao hơn hàng xóm của mình, khinh khi kẻ khác một cách tự tin và kiêu ngạo, hoặc chí ít thì cũng khinh thường họ là những kẻ thấp kém hơn. Người nghèo chịu thua người giàu, thường dân nhượng bộ trước quý tộc, đầy tớ quy phục chủ nhân, người ít học quy phục người có học, nhưng trong thâm tâm, ai cũng ấp ủ một vài ý niệm về sự thượng đẳng của mình. Do đó mỗi người đều tự nâng mình lên, thiết lập một kiểu vương quốc trong thâm tâm.”3
1. Schopenhauer, “Trí tuệ đời người,” 49.
2. Hobbes, chương 1, đoạn 5.
3. Calvin, quyển III, chương VII, đoạn 4.
Mặc dù không phải là một nhà triết học nhưng Mark Twain cũng có chung quan điểm với Schopenhauer, Hobbes và Calvin về nhu cầu tự tôn của con người: “Việc giáo dục nhân cách đã dạy chúng ta nghĩ về bản thân mình nhiều hơn là nghĩ về người khác.”4 Và cuối cùng, Ambrose Bierce định nghĩa sự căm ghét là “một cảm xúc phù hợp đối với sự kiêu ngạo của kẻ khác.”5
4. Twain, 345.
5. Bierce, 106.
Vì chúng ta quan tâm sâu sắc đến những điều mà người khác nghĩ về mình nên chúng ta gây ra bao phiền toái và phí tổn để tạo dựng và thể hiện một hình ảnh nhất định về bản thân ta. Theo La Rochefoucauld: “Mỗi người thuộc mọi tầng lớp xã hội gắn lên mình một cá tính và diện mạo để trông giống với kiểu người mà anh ta muốn người khác nghĩ về mình. Trên thực tế, bạn có thể nói rằng xã hội hoàn toàn được tạo thành từ những nhân cách giả định.”6 Tuy nhiên, hình ảnh mà ta thể hiện thường không giống với con người “thực” của chúng ta, theo lời của Schopenhauer: “Một người đàn ông chỉ có thể là chính mình chừng nào anh ta còn đang cô đơn; nếu anh ta không thích cô đơn, anh ta sẽ không yêu tự do, vì chỉ khi cô đơn, anh ta mới thật sự tự do.”7
6. La Rochefoucauld, châm ngôn 256.
7. Schopenhauer, “Counsels and Maxims,” 24.
Chúng ta rất cẩn thận trong việc tạo dựng nên hình ảnh dối trá này về bản thân mình. Trong lúc trò chuyện, chúng ta thận trọng với những việc mình làm và không tiết lộ với người khác. Chúng ta có thể kể với ai đó rằng mình vừa tậu một chiếc xe hơi, nhưng lại giấu chuyện phải mượn tiền của bố mẹ để trả trước và gần đây đang nhận thông báo nhắc nhở từ các chủ nợ. Chúng ta có thể kể với ai đó về cuốn tiểu thuyết đoạt giải thưởng mà ta vừa đọc xong chứ không phải một bộ phim tình cảm dài tập nào đó mình đang ham mê. Chúng ta cố gắng thể hiện một hình ảnh hạnh phúc ngay cả khi đang đau khổ. Quả thật, theo nhận định của La Rochefoucauld: “Chúng ta gặp ít vấn đề trong việc làm cho bản thân thực sự hạnh phúc hơn là cố tỏ ra như vậy.”1
1. La Rochefoucauld, châm ngôn 539.
Tuy nhiên, việc đeo chiếc mặt nạ xã hội khiến chúng ta không thoải mái. Chúng ta không thể đeo nó 24 giờ một ngày mà phải định kỳ cởi nó ra để dễ thở – để bản ngã thật của chúng ta có thể xuất hiện. Đây là lý do tại sao chúng ta coi trọng sự riêng tư. Khi ở một mình sau cánh cửa đóng kín, chúng ta có thể thôi diễn trò và được là chính mình.
Khi ai đó xâm phạm sự riêng tư của ta, cụ thể là, khi ai đó ghé qua nhà ta mà không báo trước, bước vào nhà chúng ta và thoáng thấy được chúng ta thực sự đang sống như thế nào, chúng ta sẽ nổi giận. Bộ mặt của ta bị lột trần. Nỗ lực để xây dựng một hình ảnh hoàn hảo của chúng ta đã bị hủy hoại.
Chúng ta thể hiện hình ảnh bản thân không chỉ với những người ta quen biết mà còn cả những người xa lạ. Thời phổ thông, chúng ta mặc những chiếc áo khoác để phô ra trước tất cả những người mà ta gặp rằng chúng ta có lettered in track1. Khi bước sang tuổi 18, chúng ta xăm hình để mọi người biết rằng ta đang sở hữu một đặc điểm không thể nhầm lẫn. Sau đó, khi dành dụm đủ tiền để tậu một chiếc xe hơi, chúng ta mua những biển số xe phù phiếm để thông báo cho những người xa lạ đang lái xe phía sau trên xa lộ rằng chúng ta là một “người yêu mèo”. Tại sao việc yêu những con mèo và thích nuôi chúng như thú cưng trong nhà vẫn là chưa đủ? Tại sao người lái xe cảm thấy buộc phải chia sẻ thông tin cá nhân này với người khác? Bởi vì họ muốn người khác, thậm chí những người hoàn toàn xa lạ, hình thành nên quan điểm “đúng” về con người của mình. Và những chiếc xe hơi có gắn những biến số phù phiếm, bản thân chúng là những vật trang điểm được chọn để nói cho người khác biết điều gì đó về chủ xe. Một người lái chiếc siêu xe mui trần đời mới Ferrari Spyder rõ ràng có hình ảnh cá nhân khác với hình ảnh cá nhân của một người đang lái chiếc bán tải gỉ sét. Chúng ta có thể dễ dàng tưởng tượng ra chủ nhân chiếc xe không muốn ai nhìn thấy mình đang lái một chiếc bán tải gỉ sét, bởi như vậy sẽ phá hủy hình tượng mà anh ta đã cố gắng và tốn nhiều tiền bạc để tạo ra.
1. Là một cái phù hiệu có chữ cái đầu hoặc chữ lồng của trường học được trao cho những học sinh tích cực hoạt động ngoại khóa mà nhất là hoạt động thể thao. (ND)
Thậm chí những lựa chọn tiêu dùng vặt vãnh như liệu nên uống Pepsi hay Coke, chúng ta cũng có thể đang đưa ra một tuyên bố với thế giới. Vì những loại nước ngọt có ga đó, thông qua quảng cáo khéo léo, đã xây dựng những hình ảnh khác nhau, và người tiêu dùng có thể dùng chúng, trong nỗ lực nhằm thể hiện ra với thế giới xung quanh một hình ảnh nào đó. Hiểu theo nghĩa mới lạ, trong cuộc sống, chúng ta hành xử như những hãng quảng cáo. Chúng ta cẩn thận xây dựng nên một thương hiệu – hình ảnh mà chúng ta thể hiện ra ngoài và sau đó cố gắng để duy trì nó.
Có một chút cường điệu khi nói rằng chúng ta sống vì người khác, rằng phần lớn thời gian, năng lượng và sự giàu có của chúng ta được dành cho việc tạo dựng và duy trì một hình ảnh xã hội về bản thân chúng ta. Cách hay nhất để thấy rõ sự thật của lời tuyên bố này là hãy xem xét hành vi của chúng ta sẽ thay đổi như thế nào nếu người khác biến mất.
Giả sử bạn thức dậy vào một buổi sáng và phát hiện ra rằng bạn là người cuối cùng trên hành tinh này – trong đêm, người ngoài hành tinh đã xóa sổ nhân loại, trừ bạn. Giả sử, bất chấp sự vắng mặt của mọi người, những tòa nhà thế kỷ, những căn nhà, cửa hàng và đường phố của thế giới này vẫn y nguyên như buổi tối hôm trước. Những chiếc xe vẫn ở đó, còn chủ nhân của nó đã biến mất, và xăng vẫn còn đầy tại các trạm xăng không có người trông coi. Điện vẫn còn hoạt động. Thế giới này vẫn như cũ, ngoại trừ việc tất cả mọi người, trừ bạn, đã biến mất. Tất nhiên là bạn sẽ rất cô đơn, nhưng chúng ta hãy lờ đi khía cạnh cảm xúc khi trở thành người cuối cùng, mà thay vào đó hãy tập trung vào khía cạnh vật chất.
Trong tình huống được mô tả, bạn có thể thỏa mãn nhiều ham muốn vật chất mà bạn không tài nào thỏa mãn được ngoài đời thực. Bạn có thể sở hữu chiếc xe trong mơ uớc của mình. Bạn thậm chí có thể có một phòng trưng bày đầy những chiếc xe hơi đắt tiền. Bạn có thể có ngôi nhà mơ hoặc sống trong một cung điện. Bạn có thể mặc những bộ đồ đắt tiền. Bạn không chỉ có được một chiếc nhẫn kim cương lớn mà còn cả Viên kim cương Hy vọng. Câu hỏi thú vị là: nếu không có mọi người xung quanh thì liệu bạn có còn muốn những thứ đó hay không? Liệu những ham muốn vật chất tồn tại trong bạn khi thế giới này đang đông đúc người có còn hiện hữu không nếu những người khác biến mất? Có lẽ là không.
Nếu chẳng có ai để gây ấn tượng thì tại sao phải sở hữu một chiếc xe ô tô đắt tiền, một cung điện, những bộ cánh sang trọng hay đồ trang sức cơ chứ?
Nếu bạn thấy mình đơn độc trong một thế giới vật chất dư dật thì rất có thể những ham muốn của bạn sẽ chuyển theo hướng thiết thực hơn. Bạn có thể thử sống trong một cung điện, nhưng sẽ dọn đi và chọn sống ở một ngôi nhà ấm cúng hơn và dễ lau dọn hơn. Bạn có thể thử những bộ cánh đắt tiền nhưng rồi lại trở về với những bộ đồ thoải mái hơn. Quả thật, bạn thậm chí có thể mặc bộ đồ ngủ suốt cả ngày, hoặc vào những ngày xuân đẹp trời, bạn có thể mặc đồ lót hoặc khỏa thân đi dạo phố. Bạn có thể tậu một chiếc đồng hồ đeo tay đắt tiền để rồi nhận ra mình chẳng có ai để gặp và giờ giấc không còn cần thiết nữa.
Cuộc đời bạn cũng sẽ thay đổi theo những cách đời thường. Nếu bạn là phụ nữ thì tại sao bạn phải trang điểm? Rốt cuộc thì hầu hết chuyện trang điểm đều không phải vì lợi ích của người được trang điểm mà vì những người gặp người được trang điểm. Nhưng nếu không có người khác thì tại sao phải bận tâm về vẻ ngoài của bạn trước người khác? Và nếu người phụ nữ cuối cùng bỏ qua chuyện trang điểm thì người đàn ông cuối cùng trên hành tinh sẽ dừng lo lắng về kiểu tóc của anh ấy và đặc biệt là sẽ không còn lo lắng xem kiểu tóc của mình trông như thế nào từ đằng sau. Đoán chừng anh ta sẽ chỉ quan tâm đến các vấn đề thiết thực, chẳng hạn như để kiểu tóc đó thì có cảm giác gì và đầu tóc của anh ta có dễ giữ sạch không. Anh ấy giữ đầu tóc sạch sẽ vì bản thân chứ không nhằm mục đích gây ấn tượng với người khác.
Nếu so sánh lối sống của người cuối cùng trên Trái đất với của chính ta thì sẽ nhanh chóng nhận ra sức ảnh hưởng của những người khác lên cuộc đời chúng ta. Chúng ta ăn mặc, chọn một căn nhà và mua đồng hồ đeo tay với sự hiện diện của kẻ khác trong tâm trí. Chúng ta tốn cả mớ tiền để thể hiện ra bên ngoài một hình ảnh được xây dựng kỹ nhằm giành được sự ngưỡng mộ của người khác hoặc có thể để làm họ ganh tỵ với ta. Chúng ta kiềm chế bản thân và những ham muốn của mình để hòa hợp với hình ảnh mà ta muốn thể hiện. Và để chu cấp tài chính cho những hoạt động thể hiện bản thân của mình, chúng ta có thể dành cả cuộc đời trưởng thành để làm một công việc mà ta chán ghét.
Nếu thấy mình ở trong hoàn cảnh được mô tả là người cuối cùng, chúng ta sẽ được giải thoát khỏi loài người, và kết quả là sự tồn tại vật chất của chúng ta sẽ được đơn giản hóa một cách triệt để. Đồng thời, chúng ta có lẽ sẽ không thích thú sự tự do mới tìm được này. Trái lại, chúng ta sẽ sớm ngộ ra được lời bình luận của Seneca rằng: “Việc sở hữu bất cứ thứ gì quý giá sẽ chẳng mang lại niềm vui nào nếu ta không có ai đó để chia sẻ.”1
1. Seneca, Những lá thư, lá thư số 6.
Sống một mình có thể thật khổ sở, nhưng chung sống với những người khác cũng không phải điều dễ dàng. Schopenhauer than phiền rằng xã hội “ép chúng ta, vì hòa bình, phải co mình lại hoặc thậm chí thay đổi hoàn toàn nhân dạng của mình”. Xã hội “đòi hỏi sự hy sinh quên mình đến nghiệt ngã, chúng ta phải từ bỏ ba phần tư bản thân ta để trở nên giống như những người khác”.1 Ông nói thêm rằng: “Chẳng có điều gì từ xã hội [của loài người] mà có thể bù đắp cho sự buồn chán, khó chịu và phiền toái của nó hoặc cho sự hy sinh bản thân mà nó cho là cần thiết.”2
1. Schopenhauer, “Counsels and Maxims,” 25.
2. Schopenhauer, “Counsels and Maxims,” 26.
Theo Schopenhauer: “Hầu như mọi khổ đau của chúng ta đều bắt nguồn từ việc phải có liên hệ, tiếp xúc với người khác.” Ông nói thêm rằng: “Những người hoài nghi đã từ bỏ mọi tài sản cá nhân để đạt được niềm hạnh phúc từ việc chẳng có điều gì làm phiền tới họ và từ bỏ cả xã hội theo cách tương tự là điều khôn ngoan nhất mà một người có thể làm.”2 Nhìn chung, con người, ngay cả những nhà tư tưởng vĩ đại như Schopenhauer, cũng thật khó khăn khi sống thiếu nhau. Chúng ta – loài người đáng thương đang đứng trước tình thế tiến thoái lưỡng nan: cảm thấy khó khăn khi sống với người khác, nhưng thậm chí còn khó khăn hơn khi thiếu họ.
2. Schopenhauer, “Counsels and Maxims,” 30.
Ganh tỵ là một trong những điều khiến việc sống chung với người khác trở nên khó khăn. Sự ganh tỵ mà chúng ta dành cho kẻ khác giống như một thứ chất lỏng ăn mòn, nó phá hủy hạnh phúc và sự bình thản của chúng ta, theo triết gia hoài nghi Antisthenes, điều đó “giống như sắt bị gỉ sét, người ganh tỵ bị ăn mòn bởi chính cảm xúc của họ”.3 Và khi người khác cảm thấy ganh tỵ đối với chúng ta thì điều đó có thể đầu độc cuộc sống của ta. Triết gia và nhà kinh tế học người Anh John Stuart Mill gọi ganh tỵ là “cảm xúc phản xã hội và đáng ghét nhất trong tất cả các cảm xúc”.4 Theo Đức Phật, nó là “thứ thuốc độc nhất”.5
3. Diogenes Laertius, “Antisthenes,” 7.
4. Mill, Bàn về Tự do, 76.
5. Carus, 168.
Mặc dù ganh tỵ và ghen tuông thường được coi là từ đồng nghĩa, nhưng ta có thể phân tách sự khác biệt trong hàm ý. Một người ghen tuông vì anh ta sợ đánh mất thứ gì đó mà anh ta đã “sở hữu”. Ví dụ, một người chồng ghen tuông có thể sợ vợ mình rơi vào tay người đàn ông khác. Trái lại, một người trải nghiệm cảm giác ganh tỵ khi anh ta muốn thứ gì đó mà mình đang thiếu – người chồng mà tôi vừa đề cập có thể ganh tỵ với một anh hàng xóm vì anh này cưới được một cô vợ xinh đẹp. Chỉ khi nào anh ta có được vợ của anh hàng xóm thì anh ta mới có thể có cảm giác ghen tuông với cô ấy. (Để phân biệt giữa ganh tỵ và ghen tuông theo cách này, tôi đang đi theo quan điểm của La Rochefoucauld: “Ghen tuông ở mức độ nào đó là chính đáng và công bằng, vì nó chỉ nhằm mục đích bảo vệ một cái gì đó thuộc về chúng ta hoặc chúng ta nghĩ là thuộc về mình, trong khi ganh tỵ là một sự điên cuồng không thể chịu đựng nổi bất cứ thứ gì thuộc về kẻ khác”).1
1. La Rochefoucauld, châm ngôn 28.
Sự ganh tỵ chứa đựng yếu tố ngưỡng mộ: nếu tôi ganh tỵ với căn nhà của ai đó thì suy ra rằng tôi ngưỡng mộ nó. (Triết gia Søren Kierkegaard mô tả ganh tỵ là sự không thể bày tỏ lòng ngưỡng mộ).2 Trong trường hợp của lòng ganh tỵ, những cảm giác ngưỡng mộ đó xen lẫn với một cảm giác về sự bất công. Nếu tôi ganh tỵ với ngôi nhà của ai đó thì tự sâu trong lòng, tôi cảm thấy cuộc đời thật bất công khi anh ta được sở hữu một ngôi nhà, còn tôi chẳng có gì. Tôi có thể biện minh cho cảm giác này theo nhiều cách. Tôi có thể nghĩ rằng mình làm việc chăm chỉ hơn, mình là một người tốt hơn, có tấm lòng trong sạch hơn, có cuộc sống khó khăn hơn, hoặc đang túng thiếu hơn anh ta. Nếu thế giới này công bằng thì tôi cũng sẽ được sống trong một ngôi nhà như vậy.
2. Schoeck, 208
Chúng ta dễ vướng vào cảm giác ganh tỵ vì nguyên do đơn giản là chúng ta quen thuộc với cuộc đời của mình hơn cuộc đời của người khác. Chúng ta ý thức được sâu sắc những nỗ lực, nhu cầu và hành động tử tế của bản thân v.v... Vì điều này mà bất cứ khi nào điều tốt đẹp đến với chúng ta thì rõ ràng là chúng ta xứng đáng với chúng. Ngay cả khi nhờ vận may run rủi mà ta trúng giải độc đắc hàng triệu đô-la thì điều đó có vẻ vẫn hoàn toàn công bằng. Đồng thời, chúng ta phần lớn không biết đến những nỗ lực, nhu cầu và hành động tử tế của những người xung quanh. Do đó, khi điều tốt đẹp đến với họ, ta không hề nhận ra họ xứng đáng với những điều đó, hay ở mức độ nào đó, họ xứng đáng với chúng nhiều như chúng ta.
Đôi lúc thật bất công khi người khác có thứ mà bạn thiếu. Trong những trường hợp như vậy, than thở về hoàn cảnh thì không phải là biểu hiện của lòng ganh tỵ. Chẳng hạn, bạn đang cạnh tranh với một nhân viên khác để được thăng chức. Giả sử hiệu suất công việc của bạn tốt hơn cô ta trong mọi khía cạnh có thể đánh giá được, nhưng cô ta được thăng tiến vì ngủ với sếp. Nếu bạn ghen tức với sự thăng tiến của nhân viên này thì bạn đang trải nghiệm sự tức giận chính đáng, chứ không phải là ganh tỵ. Xét đến các quy tắc ở nơi làm việc thì cô ta không xứng đáng được thăng chức, bạn mới xứng. Trong hầu hết trường hợp mà chúng ta ganh tức với người khác về những thứ họ đang có thì lý luận từ sự bất công, nếu ta xem xét kỹ, là vô giá trị. Những lời phàn nàn về sự bất công của chúng ta thực sự không hơn gì một vỏ bọc che đậy cho cảm giác ganh tỵ của ta, mặc dù chúng ta có thể không nhận ra nó một cách rõ ràng.
Hãy tưởng tượng về kịch bản sau. Bạn nhận được một thư nặc danh liệt kê mức lương của những người trong văn phòng nơi bạn làm việc. Bảng lương của bạn thì chính xác, nhưng bạn thấy mình đang đi xuống trên thang lương. Trên thực tế, những người làm ở đó trong thời gian ngắn hơn và ít kinh nghiệm hơn song vẫn nhận được mức lương cao hơn. Bạn tức giận và trầm cảm. Bạn tính đến chuyện bỏ việc.
Rồi bạn thấy các đồng nghiệp đang vây quanh một bản thông báo mà sếp đã đăng trên bảng tin của văn phòng. Theo bản thông báo thì có người nào đó muốn gây xáo trộn ở nơi làm việc, đã gửi cho mọi người danh sách bảng lương sai. Và để khiến cho tình hình tồi tệ hơn, người tung ra bảng lương đó mặc dù nắm trong tay danh sách bảng lương thực tế, nhưng anh ta luôn đưa ra mức lương chính xác của từng người bằng cách thêm vào yếu tố đáng tin cậy theo phân tích của anh ta. Để khôi phục lại bầu không khí hòa thuận tại văn phòng, sếp nói thêm, ông ấy sẽ đăng một lần duy nhất, bảng lương của mọi người.
Cặp mắt của bạn hướng sang bảng lương được bàn đến. Bạn thấy mức lương của mình. Và khi bạn nhìn sang mức lương của các đồng nghiệp thì bạn nhận thấy so với họ, mức lương của bạn rất cao. Sau đó bạn nhận thấy các đồng nghiệp của bạn, cũng vừa mới biết chuyện này, đang nhìn bạn với một cảm xúc nào đấy. Bạn quay lại bàn làm việc của mình. Khi ngồi ở đó, con người bạn gần như đã thay đổi. Bạn khoan khoái vì sếp đã công nhận và khen thưởng cho những tài năng mà dù sao đi nữa, với bạn thì, rõ ràng quá mà. Lòng tự tôn của bạn tăng lên vùn vụt. Trên thực tế, bạn có một thái độ hơi trịch thượng đối với các đồng nghiệp của mình.
(Tất nhiên đây chỉ là kịch bản giả tưởng. Ở hầu hết công sở, lương của nhân viên là bí mật vì chủ doanh nghiệp nhận ra việc biết được mức lương của người khác sẽ làm phát sinh những so sánh, ghen ghét, đố kỵ và rồi điều này sẽ hủy hoại bầu không khí thuận hòa nơi công sở).
Hãy nghĩ xem, cùng một mức lương nhưng có thể khiến bạn trở nên chán nản hay phấn chấn. Tất cả đều phụ thuộc vào mức lương của bạn so với đồng nghiệp. Lương của bạn, ngoài việc có giá trị tiền tệ thì còn chứa đựng cái mà các nhà kinh tế học gọi là giá trị “địa vị”: khi bạn nhận lương, bạn không chỉ quan tâm đến số tiền mà còn quan tâm xem so với đồng nghiệp thì mức lương đó như thế nào.
Chúng ta cũng quan tâm nhiều đến giá trị định vị của tài sản của chúng ta hơn là giá trị tuyệt đối của chúng. Ví dụ khi chúng ta mua nhà, nhà to hay bé không quan trọng bằng nhà có to hơn những căn xung quanh hay không. Nếu mọi người trong khu phố của bạn có nhà nhỏ hơn thì chúng ta có lẽ sẽ thấy hài lòng với một ngôi nhà nhỏ hơn so với ngôi nhà mà ta đang sở hữu. Ngược lại nếu nhà của chúng ta, dù khá lớn, nhưng lại nhỏ hơn nhiều so với nhà hàng xóm thì chúng ta có thể cảm thấy bất mãn với nó.
Nói chung, điều chúng ta muốn sẽ bị ảnh hưởng bởi điều mà những người xung quanh ta muốn. Thỉnh thoảng chúng ta muốn thứ gì đó vì những người khác cũng muốn nó. Ví dụ, giả sử chúng ta mua một chiếc SUV vì ta thấy nó khá phổ biến với những người trong giới kinh doanh của chúng ta. Đây được gọi là hiệu ứng bandwagon (theo phong trào, số đông). Đôi khi, chúng ta ngừng ham muốn thứ gì đó vì nhiều người khác muốn nó. Chúng ta có thể dừng mua một nhãn hiệu quần áo nào đó mà ta từng mua suốt nhiều năm. Không phải chất lượng hay phong cách quần áo đã thay đổi, vấn đề của chúng ta là có quá nhiều người – chính xác là, quá nhiều hạng người xấu – đang mua chúng. Đây được gọi là hiệu ứng “kẻ hợm hĩnh”.
Tại sao chúng ta lại quan tâm đến những thứ mà người khác kiếm được hay sở hữu? Vì chúng ta có xu hướng xem cuộc đời như một cuộc cạnh tranh giành địa vị xã hội diễn ra liên tục. Địa vị tuyệt đối của ta không hề bị ảnh hưởng khi người khác giành được một vị trí nào đó, nhưng mức độ địa vị tương đối thì sẽ bị ảnh hưởng: họ sẽ vượt lên so với chúng ta. Do đó, cuộc cạnh tranh về địa vị là một trò chơi có tổng bằng 0: Khi ai đó thắng thì kẻ khác phải thua.
Nếu ai đó tiếp tục hỏi lý do tại sao chúng ta cảm thấy bị thôi thúc phải cạnh tranh giành địa vị xã hội thì hãy nhìn vào quá khứ tiến hóa của chúng ta: tổ tiên chúng ta, những ai coi trọng địa vị xã hội thì nhiều khả năng thu hút được một người bạn tình và do đó có nhiều khả năng sinh sản hơn những kẻ không trọng địa vị. Cụ thể là, một con đực thống trị về mặt xã hội có khả năng tiếp cận giao phối được nhiều bạn tình hơn một con đực nằm ở dưới đáy hệ thống thứ bậc xã hội.
Đối thủ lớn nhất của chúng ta trong cuộc cạnh tranh về địa vị có xu hướng là những người thân cận nhất với chúng ta, về phương diện địa lý hoặc địa vị xã hội. Nói cách khác, sự quen thuộc sinh ra lòng đố kỵ. Một người có nhiều khả năng ganh tỵ với đồng nghiệp, hàng xóm hoặc họ hàng của anh ta hơn là một tỷ phú mà anh ta chưa từng gặp mặt. Vị tỷ phú này sở hữu bảy ngôi nhà, mười hai chiếc xe hơi hạng sang và hai chuyên cơ nhưng cũng chẳng làm anh ta bận tâm. Điều khiến anh ta khó chịu là một đồng nghiệp được làm việc trong văn phòng có cửa sổ mà anh ta lại không có, hay hàng xóm có một bồn tắm nước nóng to hơn nhà anh ta, và một người họ hàng vừa mới tậu xe hơi mới, còn xe hơi của anh ta thì đã tồi tàn. (Về phương diện này, H. L. Mencken định nghĩa giàu có là “bất kỳ mức thu nhập nào mà nhiều hơn ít nhất 100 đô-la một năm so với thu nhập của chồng chị gái của vợ người đó”.)
Chẳng hạn, một người đàn ông ganh tỵ với ai đó vì chiếc xe hơi thì anh ta không nhất thiết phải muốn hãm hại người này. Anh ta có thể vui vẻ nhìn người khác sở hữu chiếc xe và rồi than phiền rằng nếu thế giới này công bằng thì anh ta cũng sẽ có một chiếc như thế. Nếu một người đàn ông, vì lòng đố kỵ mà muốn hãm hại người chủ xe, anh ta có thể đạt được mục tiêu này bằng hai cách. Hoặc là có thể ăn cắp chiếc xe và biến nó thành của mình, hoặc là có thể phá hỏng chiếc xe và do đó nguồn cơn của lòng đố kỵ được loại bỏ. Trong cả hai trường hợp này, anh ta sẽ trở thành kẻ phạm tội vì lòng đố kỵ, loại tội ác tạo thành một tập hợp con thú vị của kiểu tội phạm do mù quáng.
Ở một trường hợp khác, chúng ta ganh tỵ với chiếc xe hơi của ai đó, và không phải do lỗi của chúng ta mà là chiếc xe đã bị phá hủy trong một vụ tai nạn. Khi ấy, ta có thể trải nghiệm cảm giác schadenfreude – vui mừng trước mất mát của người khác. Theo lời của La Rochefoucauld: “Tất cả chúng ta đều có đủ sức mạnh để chịu đựng những sóng gió của người khác,”1 và “Sự phá sản của một người hàng xóm được thưởng thức bởi bạn bè và kẻ thù”.2 Cùng với đó, Ambrose Bierce định nghĩa hạnh phúc là “một thứ cảm giác khoan khoái, dễ chịu nảy sinh từ việc nghĩ đến nỗi bất hạnh của người khác”.3 Nhưng cảm giác dễ chịu được đề cập thường xen lẫn với nỗi đau đớn, vì những cảm xúc ganh tỵ gây ra cảm giác schadenfreude có thể hủy hoại hạnh phúc của một người. Theo Schopenhauer: “Một người tham lam, đố kỵ và có ác tâm, ngay cả khi anh ta là người giàu nhất thế giới thì vẫn khốn khổ như thường.”4
1. La Rochefoucauld, châm ngôn 19
2. La Rochefoucauld, châm ngôn 521.
3. Bierce, 106.
4. Schopenhauer, “Trí tuệ đời người,” 15.
Bên cạnh việc ganh tỵ với người khác, bản thân chúng ta có thể trở thành đối tượng của lòng ganh tỵ của ai đó. Khi điều này xảy ra, chúng ta tương đối bất lực trong việc xoa dịu cảm giác của họ. Ví dụ, giả sử một người họ hàng ganh tỵ với chúng ta vì chiếc xe hơi mà ta đang sở hữu, và giả sử chúng ta cố gắng xoa dịu bằng cách tặng anh ta chiếc xe mà anh ta quá đỗi ước ao. Liệu lòng tốt của chúng ta có chinh phục được anh ta hay không? Có lẽ không. Nếu có, nó sẽ làm tình hình tồi tệ hơn. Kẻ ganh tỵ sẽ xem lòng tốt của chúng ta như sự chiếu cố, và nếu ganh tỵ với chúng ta vì đủ giàu có để sở hữu được chiếc xe này thì anh ta sẽ còn ganh tỵ nhiều hơn: việc đủ tài chính để tặng cho anh ta chiếc xe đó chứng tỏ rằng chúng ta còn giàu hơn so với những gì anh ta tưởng. Điều duy nhất sẽ chấm dứt được lòng ganh tỵ của anh ta khả năng cao là khi chúng ta bị phá sản, đến lúc đó anh ta sẽ chuyển từ ganh tỵ sang thương hại hay thậm chí là coi thường chúng ta. Nhà xã hội học người Đức Helmut Schoeck đã làm một nghiên cứu toàn diện về ganh tỵ. Ông phát hiện ra: “Ganh tỵ mang tính phổ quát hơn nhiều so với những gì con người cho đến nay dám thừa nhận hay thậm chí là nhận ra.”1 Nhưng mặc dù lòng đố kỵ là phổ biến ở khắp nơi nhưng nó phần lớn là vô hình. Quả thật, có lẽ nó là cảm xúc được ngụy trang tài tình nhất trong mọi cảm xúc nơi con người. Theo La Rochefoucauld: “Chúng ta thường tự hào về những đam mê tội lỗi nhất của mình, nhưng ganh tỵ là một thứ cảm xúc nhút nhát và ngại ngùng mà chúng ta không bao giờ dám thừa nhận.”2 Hay theo lời của Herman Melville: “Mặc dù nhiều người bị buộc tội giết người vì hy vọng được giảm nhẹ hình phạt mà đã nhận tội cho những hành động khủng khiếp, nhưng đã có ai từng nghiêm túc thú nhận tội ganh tỵ chưa? Có một thứ gì đó trong cảm giác ganh tỵ mang tính phổ quát khiến con người thấy hổ thẹn hơn cả những vụ trọng tội.”3 Bởi vậy, một ai đó vì lòng ganh tỵ xui khiến anh ta phạm tội sát nhân thì sau đó, anh ta nhiều khả năng sẽ thú nhận tội sát nhân hơn là thú nhận lòng ganh tỵ đã kích thích hành vi ấy. Trong nghiên cứu của mình, Schoeck cố gắng tìm kiếm những trường hợp mà “người ganh tỵ công khai thừa nhận sự ganh tỵ của anh ta và thú nhận rằng đã hãm hại người khác vì động cơ ganh tỵ”. Và ông chỉ tìm thấy duy nhất một trường hợp như vậy!4 (Chúng ta cần lưu ý rằng Schoeck thực hiện nghiên cứu về ganh tỵ vào những năm 1960, khi mà mọi người ít sẵn sàng công khai thừa nhận những sai lầm cá nhân hơn hiện nay). Kết luận của Schoeck là: “Sự ganh tỵ không giải thích được tất cả mọi thứ, nhưng nó soi sáng nhiều điều hơn mọi người đã chuẩn bị cho đến giờ để thú nhận hay thậm chí nhìn ra.”5 Không nhận ra lòng ganh tỵ, chúng ta sẽ không hiểu được nhiều khía cạnh trong hành vi con người. Điều này chấm dứt cuộc thảo luận của chúng ta về đời sống bí mật của ham muốn. Đến đây, độc giả nên hiểu rõ mức độ không thể kiểm soát của ham muốn, mà chúng mới kiểm soát chúng ta. Quả thực, chúng ta có xu hướng ít kiểm soát được những ham muốn có tác động lớn nhất lên cuộc sống của ta, chẳng hạn, phải chọn loại ngũ cốc nào cho bữa sáng, nhưng không chọn được chuyện yêu hay không, và chọn người ta yêu.
1. Schoeck, 4.
2. La Rochefoucauld, châm ngôn 27.
3. Melville, 46.
4. Schoeck, 31.
5. Schoeck, 6.
Độc giả cũng nên hiểu rõ mức độ mà những thứ ta muốn được quyết định bởi ham muốn đạt được địa vị xã hội của chúng ta, rằng nếu chúng ta là người cuối cùng trên Trái đất này thì những ham muốn của chúng ta sẽ khác đi đáng kể.
Để hiểu rõ hơn về lý do tại sao chúng ta hình thành ham muốn, hãy hướng sự chú ý của mình sang những điều mà khoa học đã nói về ham muốn của chúng ta. Trong Phần 2 của cuốn sách này, đầu tiên tôi sẽ vạch ra cấu trúc của ham muốn và giới thiệu một số thuật ngữ mà tôi nghĩ sẽ làm cho cuộc thảo luận của chúng ta được dễ dàng hơn. Sau đó tôi sẽ xem xét những nguồn gốc của ham muốn, tâm lý học về ham muốn và quá trình tiến hóa mà nhờ đó chúng ta đạt được khả năng ham muốn.
Bắt đầu phần tiếp theo, độc giả sẽ nhận thấy một sự thay đổi trong giọng điệu của cuốn sách này. Một số độc giả có thể mong tôi bỏ qua phần khoa học về ham muốn và thay vào đó là đi thẳng đến lời khuyên về cách làm chủ ham muốn. Các bạn hãy yên tâm là lời khuyên sắp đến, trong Phần 3. Trong lúc ấy, tôi tin rằng bất cứ ai mong ước làm chủ được ham muốn sẽ làm tốt khi xem xét lời khuyên của khoa học về chuyện này. Suy cho cùng, để chiến thắng kẻ thù – trong trường hợp này là những ham muốn bất hảo – chúng ta cần hiểu được kẻ thù và thông tin mà khoa học đưa ra, dù chưa đầy đủ và chắc chắn là có sai lầm về một số phương diện, nhưng vẫn là điều tốt nhất mà chúng ta có.