Sau khi kháng chiến dành thắng lợi, Triệu Đình Nhã, Triệu Đình Anh và tất cả người nhà họ Triệu đều bị rơi vào nghịch cảnh, chịu đủ mọi sự sỉ nhục mà không thể biện minh. Diêm Tích Sơn bỏ rơi họ, Quốc dân Đảng muốn trừng phạt Hán gian, còn Đảng cộng sản đã dựa vào sức mạnh quân sự hùng mạnh nhằm đoạt lấy quyền thống trị quốc gia. Cho dù thế nào thì chuyện tốt đẹp đều không đến lượt nhà họ. Khi nhà họ Triệu rơi vào hoàn cảnh khó khăn, Diêm Tích Sơn, Quốc dân Đảng và Đảng cộng sản đều đừng hòng ra tay cứu vớt.
Đại Lợi thật chẳng dễ dàng. Thượng Hải không thể dung thân, còn Bắc Kinh cũng khó lòng mà trụ lâu, người nhà họ không còn tấc đất cắm dùi. Hàng trăm người nhà họ Triệu đã phải phiêu bạt tới 11 tỉnh thành trên khắp mọi miền, tan tác muôn nơi.
Đại Lợi cùng con gái nhỏ Triệu Kiện sống trong nỗi bất an sợ hãi.
Suy đi ngẫm lại thì vẫn phải dựa vào đôi tay của chính mình lao động kiếm sống vượt qua sóng gió. Đất Thượng Hải chỉ toàn nỗi đau thương, Bắc Kinh khó lòng mưu sinh, Thái Nguyên không dám quay về, còn Tây An thì sao? Đại Lợi quyết định lại một lần nữa tới nhà chị họ Triệu Cúc Sinh giàu lòng từ bi ở Tây An. Kể từ ngày sinh con ở tạm Tây An, thì giữa Đại Lợi và chị họ đã giữ mối tình nghĩa sâu đậm.
Mùa xuân năm 1950, Đại Lợi dẫn Triệu Kiện chạy tới Tây An.
Ngay lúc được gặp chị họ Cúc Sinh, hai người trào dâng niềm thương cảm ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Tình cảnh mẹ góa con côi bơ vơ không nơi nương tựa quả thực không gì đáng thương hơn. Triệu Cúc Sinh một mặt động viên em họ, một mặt nhờ vả những đồng hương ở Tây An giúp mẹ con Đại Lợi kiếm miếng cơm ăn.
Kể cũng kỳ lạ, chị họ Triệu Cúc Sinh sống ở Tây An đã lâu nên cũng quen biết được nhiều người, lần này đã tìm đến một người đồng hương có địa vị không phải dạng vừa, là tấm gương lao động công nghiệp tiêu biểu của Đảng cộng sản Trung Quốc thời kỳ đầu, tên là Triệu Chiêm Khôi. Vị này là người Định Tương, Sơn Tây, thời kháng chiến làm về ngành đúc trong xưởng công binh ở Diên An, là một người chăm chỉ, sống chất phác, đôn hậu. Hồi đó, khi Tưởng Giới Thạch hạ lệnh bao vây công kích khu vực biên thùy Thiểm Tây-Cam Túc-Ninh Hạ, mãnh tướng của Đảng cộng sản là Hạ Long, bấy giờ là Tổng tư lệnh phòng thủ khu vực biên thùy đã giao cho xưởng công binh ở Ôn Gia Câu gấp rút chế tạo mười vạn lựu đạn, để trang bị cho bộ đội đánh đuổi quân địch. Không ngờ, các cán bộ công đoàn của xưởng công binh, trong đó có Địch Đức Kiến, lại đột nhiên đưa ra vấn đề đãi ngộ đối với công nhân, đồng thời phản đối chế độ làm việc mười giờ một ngày, nếu không sửa đổi sẽ bãi công. Họ yêu cầu chính quyền quân đội ở Diên An phải bồi thường thỏa đáng cho công nhân, tạo nên sự kiện bãi công đầu tiên kể từ khi Đảng cộng sản lên nắm quyền cục bộ. Hạ Long suýt chút nữa đã bắn chết Địch Đức Kiến. Chính quyền quân đội Diên An một mặt phạt nặng không nương tay đối với những người như Địch Đức Kiến, một mặt xây dựng những tấm gương điển hình trong số công nhân, tăng cường công tác tư tưởng chính trị, dựa vào sức mạnh của tấm gương tốt để phục hồi hoạt động sản xuất đang rơi vào cảnh khó khăn. Nhật báo giải phóng của Diên An đã nhiệt liệt đăng bài viết về tấm gương lao động miệt mài của người công nhân quê Sơn Tây Triệu Chiêm Khôi. Mao Trạch Đông khi ấy đã lấy những tấm gương điển hình cho công tác tuyên truyền mang tính chiến lược. Nông thôn noi gương Ngô Mãn Hữu, nhà máy noi gương Triệu Chiêm Khôi, Thái Hành noi gương Lý Thuận Đạt, quân đội noi gương Trương Tư Đức, cán bộ noi gương Bạch Cầu Ân. Về sau còn bổ sung: Thanh niên noi gương Lưu Hồ Lan, Đổng Tồn Thụy, Hoàng Kế Quang, Khâu Thiếu Vân; thiếu niên noi gương Lưu Văn Học, công nghiệp noi gương Đại Khánh, nông nghiệp noi gương Đại Trại, toàn quốc noi gương quân giải phóng, khẩu hiệu nổi tiếng nhất đương nhiên chính là noi gương Lôi Phong… Tóm lại, phải để những gương tốt điển hình dẫn dắt, tập trung tiếng nói của nhân dân, thống nhất tư tưởng của nhân dân, tổ chức hành động cho nhân dân. Trong mỗi thời kỳ lịch sử, Đảng đều phải xây dựng nên một hoặc nhiều tấm gương sáng để làm tọa độ và hệ tham chiếu mới cho quần chúng phổ thông đi theo Đảng. Hiệu quả tổng thể mà nó mang lại đương nhiên rất tốt, cực kỳ tốt, đặc biệt tốt.
Đứng trước kẻ thù lớn, về việc noi gương Triệu Chiêm Khôi, Mao Trạch Đông đưa ra chỉ thị khá kiên quyết. Khi đó, sau khi đọc xong bài viết trên Nhật báo giải phóng, Mao Trạch Đông đã đích thân gọi điện cho Bí thư trung ương Đảng Đặng Phát, nói rằng: “Việc khen thưởng Triệu Chiêm Khôi đã làm rất tốt, đây không phải là vấn đề khen thưởng cho một cá nhân, mà là một việc làm giúp nâng cao sản xuất, cải tiến công việc của toàn bộ khu vực biên thùy và các căn cứ khác. Tôi thường nghe các anh nói rằng phải đi tìm Stakhanov, đồng chí Triệu Chiêm Khôi chính là Stakhanov của Trung Quốc. Các anh phải tổng kết những ưu điểm của cậu ấy, xây dựng gương sáng và lan tỏa đến các nhà máy và đơn vị sản xuất.” Kể từ đó, “Phong trào noi gương Triệu Chiêm Khôi” đã được phát động sôi nổi ở khu vực biên thùy các tỉnh Thiểm Tây-Cam Túc-Ninh Hạ.
Sau năm 1949, Triệu Chiêm Khôi đã trở thành tấm gương lao động toàn quốc lớp đầu tiên, đồng thời với tư cách là đại diện cho công nhân vùng Tây Bắc, ông đã tham gia hội nghị Hiệp thương chính trị toàn quốc lần thứ nhất khóa đầu, tiếp đến là đại biểu Đại hội nhân dân toàn quốc khóa một và khóa hai. Năm 1950, Triệu Chiêm Khôi vinh dự được bổ nhiệm làm Phó chủ tịch Tổng liên đoàn lao động khu vực Tây Bắc và Tổng liên đoàn lao động tỉnh Thiểm Tây, chức vụ thực tế là Phó bộ trưởng Bộ Lao động thuộc Ủy ban Quân sự và chính trị Tây Bắc. Cho tới sáu mươi năm sau, ngày hôm nay, Tổng liên đoàn lao động toàn quốc nước Trung Hoa bình chọn ra sáu mươi “Tấm gương lao động có sức ảnh hưởng nhất Trung Quốc mới”, nhằm thúc đẩy các hoạt động kỷ niệm ngày quốc khánh quy mô lớn, Triệu Chiếm Khôi vẫn vinh dự nằm trong số đó.
Triệu Chiêm Khôi sinh năm 1896, mất vào ngày 26.8.1973.
Vậy “Tấm gương lao động” kỳ cựu này có liên quan gì đến số phận của mẹ con Đại Lợi?
Sự tích về Triệu Chiêm Khôi lan truyền khắp chính đảng, quân đội và các tầng lớp xã hội ở vùng Tây Bắc, không ai mà không biết. Song người ta chỉ biết ông ấy miệt mài cống hiến cho Đảng, mà ít ai biết rằng, ông từng học việc trong các doanh nghiệp thời kỳ đầu của những nhà tư bản dân tộc Sơn Tây, ban đầu ông học đúc khuôn cát trong xưởng Đồng Viên thuộc nhà máy công binh Tây An, tay nghề kỹ thuật ngày một thành thục, sau đó ông đã có ba năm làm việc cho đường sắt Đồng Bồ tại công trình ở Giới Hưu, Sơn Tây. Nền tảng văn hóa của ông được vun đắp bằng sự trung thành với truyền thống dân gian, sự huấn luyện mà ông được tiếp nhận dựa trên quan niệm tôn sư trọng đạo, nên ông thường giao lưu qua lại với một số nhà tư bản Sơn Tây. Vào thời đó, mối quan hệ giữa chủ nhà máy và công nhân rất tốt đẹp và hòa hợp.
Năm 1938, quân Nhật xâm chiếm đường sắt Đồng Bồ, Sơn Tây, Triệu Chiêm Khôi bỏ việc tháo chạy tới Diên An. Về sau, Triệu Chiêm Khôi vẫn giữ chức vụ trong Cục Lao động thuộc Ủy ban Quân sự và chính trị Tây Bắc. Đồng hương Sơn Tây Triệu Cúc Sinh đã không tốn quá nhiều công sức khi cầu cứu sự giúp đỡ từ Triệu Chiêm Khôi. Vậy là Phó cục trưởng Cục Lao động Tây Bắc Triệu Chiêm Khôi đã nhiệt tình giới thiệu đồng hương trẻ tuổi Triệu Đại Lợi tới cơ quan của Cục Lao động Tây Bắc làm kế toán, chế độ đãi ngộ cũng không thấp.
Tôi phân tích lại như sau: Lúc đến Diên An, Triệu Chiêm Khôi đã là một người đàn ông hơn bốn mươi tuổi, ông ấy thực sự chưa hẳn là một chiến sỹ cách mạng cấp tiến, mà là người biết tuân thủ nguyên tắc của nhà máy, trung thực, đôn hậu, dựa vào bản lĩnh của bản thân để phát triển, chăm lo cho gia đình, về sau lên làm quan, thấy đồng hương Sơn Tây đang gặp khó khăn, cô nhi quả mẫu, ông ấy không thể thấy chết mà không cứu. Truyền thống tương thân tương ái đã ăn sâu vào tâm khảm, giờ đây đã phát huy tác dụng theo cách hết sức tự nhiên. Theo hồi ức của Triệu Kiện, cho tới những năm gần đây, mẹ cô vẫn giữ mối quan hệ qua lại với người nhà của Triệu Chiêm Khôi, cả đời này mẹ cô vẫn luôn ghi nhớ công ơn của gia đình họ.
Điều này rõ ràng đã đi theo hơi hướng của “Thuyết chấm dứt đấu tranh giai cấp”.
Đúng vậy, cái gọi là đấu tranh giai cấp không phải lúc nào cũng được bộc lộ ra một cách rõ nét trong xã hội Trung Quốc. Nếu cứ phải bộc lộ ra một cách quyết liệt, thử hỏi lễ nghĩa quốc gia ở đâu? Truyền thống đạo đức ở đâu? Lòng nhân nghĩa ở đâu? Xóa đói giảm nghèo ở đâu? Cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai giai cấp lớn trong hàng trăm hàng ngàn năm qua, nếu thiếu đi sự hòa hợp thì mọi học thuyết đều trở nên xa lạ.
Như vậy, Đại Lợi đã tham gia vào công tác cách mạng của Đảng cộng sản. Cô làm việc trong Cục Lao động tại cơ quan của Ủy ban Quân sự và hành chính Tây Bắc. Mỗi ngày, tan ca, cô lại đơn côi lẻ bóng trở về nhà chăm con gái nhỏ, cô cũng đã có quãng thời gian vui vẻ khi được học tập và sinh hoạt chung với những nhà cách mạng công nhân và nông dân từng tham gia chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Tiếc rằng, vị tiểu thư nhà giàu này chưa từng được trải qua bất kỳ sự huấn luyện nào của tổ chức Đảng cộng sản, cũng không quen với cuộc sống đấu tranh khốc liệt đầy gian khổ mang tính tập thể của các tổ chức Đảng, sự tồn tại của cô ấy tỏ ra hết sức lạc lõng. Chẳng hạn, những đồng chí cách mạng nữ thường mặc quân phục màu xám do tổ chức phát hay “Quân phục Lê nin”, quần ống rộng, vải thô, chỉ có một kiểu dáng, có người đeo dây thắt lưng vũ trang, có người lại giắt theo súng ngắn, còn Đại Lợi lại thường mặc xường xám, thậm chí còn đi giày da cao gót, mang tất dài, cài bờm màu sắc sặc sỡ…, cô hiện lên nổi bật dưới bầu trời trong xanh trong khu giải phóng. Đây không phải là giai cấp tư sản thì là giai cấp gì? Cộng thêm bối cảnh gia đình phức tạp của cô, cùng với quãng đời lưu lạc khắp nơi và từng làm việc tại khu vực chịu sự thống trị của Quốc dân Đảng, tất cả những điều này khiến cho những nhà cách mạng khó lòng chấp nhận, đặc biệt còn không được thẩm mỹ quan giàu tính chiến đấu của các nữ chiến sĩ cách mạng dung nạp. Nếu không phải do lão tiền bối Triệu Chiêm Khôi giới thiệu, nếu không được vị “Anh hùng đồng hương” này che chở, chỉ e cô ấy sớm đã bị liệt vào phe kẻ địch rồi, hoặc chí ít sẽ bị nghi ngờ là “Đặc vụ của Quốc dân Đảng”.
Đến năm 1954, Ủy ban Quân sự và chính trị Tây Bắc giải thể. Đại Lợi sau đó lần lượt làm việc cho Cục Lao động tỉnh Thiểm Tây, Đại học Giao thông Tây An và công ty Phụ tùng ô tô thuộc Sở Giao thông vận tải tỉnh. Cô vẫn làm công việc kế toán, song sự kỳ thị về mặt chính trị mà mọi người dành cho cô ngày càng nặng nề. Vào thời đại khắc nghiệt đó, không ai có thể thoát khỏi sự phán xét chính trị dai dẳng triền miên. Theo hồi ức của Đại Lợi, “Cuộc điều tra Ninh Vũ” ngày ấy được tiến hành ít nhất 18 đến 20 lần. May mắn thay, cô chỉ học tập tại Thái Nguyên, chưa từng sống ở Ninh Vũ, cũng chưa từng tham gia vào bất kỳ tổ chức nào của Quốc dân Đảng hay Diêm Tích Sơn, vì vậy mỗi lần nổi lên phong trào, mỗi lần thẩm xét cán bộ, mỗi lần điều tra, tuy luôn bị rơi vào tình thế nguy hiểm, song cô vẫn thoát nạn, do đó mà giữ được nguồn tiền lương để hai mẹ con sinh tồn.
Trước Cách mạng Văn hóa, Đại Lợi giữ chức kế toán cấp cao, tiền lương hàng tháng khoảng 70 đồng, đối với nhiều người, số tiền mà cô kiếm được gần như là tội ác, họ hết sức căm hờn hai mẹ con cô. Theo lời kể của Triệu Kiện: Đến khoảng năm 1965, tình hình kinh tế đã bớt khó khăn hơn, mẹ cô ngoài việc thích đọc sách báo thì còn thích ăn mặc đàng hoàng rồi một mình đi tới các cửa hàng bách hóa hay đi tản bộ, mỗi lần ra ngoài đều rất lâu mới quay về. Đương nhiên cô ấy hy vọng được sống tốt hơn. Đây là thói quen của kiểu người nào vậy? Tầng lớp trung nông và dân thành thị nghèo tuyệt đối không làm vậy! Họ kiên quyết phản đối điều này!
Các phong trào lớn dồn dập diễn ra, người ta trừng lên cặp mắt đỏ ngầu, tuy nói là tiến hành thẩm tra chính trị đối với cô, song thực chất là đang đố kỵ với kinh tế của cô. Nói cách khác, trong điều kiện chế độ công hữu hoàn toàn, vận mệnh chính trị và sự đãi ngộ kinh tế không thể tách rời, gần như trong cùng một cuộc đấu tranh. Trong suốt một thời gian dài, khi nghiên cứu về sự tàn khốc của các phong trào chính trị, bao gồm Cách mạng văn hóa, chúng ta thường chỉ chú trọng vào khuynh hướng chính trị và sự tranh đấu giữa các bang phái tập đoàn, chú ý tới sự đấu tranh của các hình thái tư tưởng, nhưng lại dễ dàng bỏ qua nhân tố lợi ích kinh tế. Trên thực tế, hai phe phái lớn trong phong trào tương sát khốc liệt không ngơi nghỉ có liên quan chặt chẽ tới lợi ích kinh tế của mỗi cá nhân dưới chế độ công hữu. Nếu ai thua thì phe đối lập sẽ giảm tiền lương, khiến gia đình họ lao đao. Sau các cuộc bạo động, đa phần đều yêu cầu được bồi thường kinh tế, chứ không phải là sửa chữa “Đường lối tư tưởng”. Tương tự, phong trào Cách mạng văn hóa cũng là sản phẩm của chế độ công hữu. Mức độc tàn khốc của nó được hòa trộn với thể chế kinh tế tập trung cao độ.
Hai mẹ con Triệu Đại Lợi sở dĩ vẫn có thể sống sót trong suốt thời gian dài của cuộc biến động, là hoàn toàn dựa vào số tiền lương kia. Điều khiến người ta phải cảm khái là, một người theo chủ nghĩa vô chính phủ, thời trẻ không tham gia bất kỳ tổ chức nào, thực sự là phước lớn trong nỗi bất hạnh. Thực tế, Đại Lợi về sau đã chịu sự kiểm soát vì bị nghi ngờ là đặc vụ, chuyện này thật đáng sợ. Nhớ lại năm đó, Quốc dân Đảng đã thúc đẩy mạnh mẽ nhiều hoạt động tổ chức ở các khu vực mà họ thống trị như Quý Châu, Vân Nam, Trùng Khánh, Hồ Nam, Quảng Tây, Chiết Giang, Phúc Kiến…, hô vang khẩu hiệu “Một tấc sơn hà một tấc máu, mười vạn thanh niên một vạn quân”, đã có bao thanh niên vứt bút tòng quân, tham gia vào các tổ chức như “Đoàn thanh niên chủ nghĩa tam dân” hay “Quân thanh niên”. Sau năm 1949, họ sẽ bị đoạt mạng bất cứ lúc nào hoặc khó lòng thoát khỏi nhà tù, việc nhiều năm phải đi cải tạo lao động còn phổ biến hơn.
Triệu Kiện có một ký ức bi thảm: Các bạn học tập trung nhau xem bộ phim Mưu trí chiếm Hoa Sơn và đã coi mẹ cô là bản sao của nữ đặc vụ trong phim. Việc này tuy hoang đường, song lại hết sức đau khổ, người ta bắt nạt, sỉ nhục, đối xử với cô như con gái của đặc vụ, đây là hiện thực.
Những cuộc thẩm tra chính trị trong suốt thời gian dài trước đó vẫn chưa lôi người ta ra để phê phán đấu tranh, nhưng khi cơn bão táp năm 1966 ập đến, mọi bức màn đã bị hất tung. Các cuộc phê đấu ở thành cổ Tây An diễn ra ngày càng điên cuồng. Thử nghĩ, trong phong trào đó, đã có hàng ngàn hàng vạn bậc cách mạng lão thành cùng vô số người xuất thân trong gia đình danh giá còn khó lòng thoát khỏi kiếp nạn, huống hồ thành phần phản động. Triệu Đại Lợi bị chỉ trích như cơm bữa, sống chẳng bằng chết. Bà cụ hồi tưởng: “Trong một cuộc họp phê phán đấu tranh, có một nhân viên vì chút việc nhỏ mà đã bị đánh đập dã man dưới đất, kết quả, sau cú ngã thứ ba, người này không còn bò dậy được nữa, bị đánh chết tươi ngay tại chỗ. Những kẻ giết người kia nhanh chóng thiêu xác, rồi đem rải tro cốt của người chết xuống con sông ở Tây An, khiến cho anh ta chết không có chỗ chôn.” Trong cuộc sát phạt bất quản ngày đêm, ký túc xá của Triệu Đại Lợi liên tục bị khám xét nhiều lần, cô bị tịch thu mấy bộ xường xám và quần áo đẹp, mấy chiếc tất dài, hai đôi giày cao gót. Họ còn mở một cuộc triển lãm “Tội ác” công khai. Cuối cùng, cô miễn cưỡng lấy lại được vài tấm ảnh cũ sớm đã bị người ta gạch dấu bằng bút đỏ, đánh mã số 52 và 53, còn những thứ khác đều bị tiêu hủy hết. Sự bạo lực của Hồng vệ binh ở Tây An vẫn còn nhẹ hơn so với Đại Hưng của Bắc Kinh, Đạo Huyện của Hồ Nam, Thái Hành Sơn mà tôi quen thuộc và cả những nơi tàn sát tập thể “Thành phần phản động”. Những con người ôm mối hận thù sâu sắc, rốt cục các người muốn làm gì?
Việc Đại Lợi có thể sống sót quả thực là một kỳ tích.
Cô không muốn bận tâm nhiều, chỉ nghĩ rằng mình tuyệt đối không được chết, tuyệt đối không được thừa nhận các loại tội danh, bởi lẽ cô vẫn còn một cô con gái đáng yêu, cô phải vì con mà sống tiếp.
Từ khi còn là một thiếu nữ, Đại Lợi đã khao khát tự do, hướng về cách mạng, theo đuổi tiến bộ, sùng bái độc lập, nghiêm khắc với bản thân, rộng lượng với người khác, tất cả những điều này lại đổi lấy một kết cục bi thương đến vậy. Ngay tới Ba Kim tiên sinh cũng phải chịu sự sỉ nhục, thập tử nhất sinh. Biết bao phần tử trí thức lớn nhỏ và nhà văn ưu tú đã phải bỏ mạng. Vẫn là câu nói đó: “Cách mạng đã nuốt chửng con gái tôi”.
Căn phòng dần tối, sắc trời đã muộn. Lời kể đượm buồn, cuộc đời của Đại Lợi khiến người ta khó lòng bình tâm: Hơn bảy mươi năm sóng gió, thế sự xoay vần, số phận trắc trở, cô độc chới với, đường đời chông chênh, song Đại Lợi vẫn không hề tỏ ra yếu đuối, khuất phục. Cô ấy thực sự là một người giữ vững niềm tin vào cuộc đời.
Bản thân cô ấy chứa đựng lịch sử chân thực hơn bất kể thứ gì.
Đúng vậy, Đại Lợi cả đời này chưa từng kết hôn. Triệu Kiện cũng chưa từng được gặp cha đẻ.
Giai nhân thời loạn.
Câu hỏi cuối cùng: Chúng ta đã được thấy bảy bức thư cũ mà Ba Kim tiên sinh gửi cho Đại Lợi, vậy thì, những lá thư mà Đại Lợi năm xưa viết cho Ba Kim tiên sinh có còn tồn tại trên cõi đời này hay không? Sẽ là điều hối tiếc lớn nếu thiếu đi lời giải đáp của Đại Lợi. Tôi biết rõ hy vọng này vô cùng nhỏ nhoi, song vẫn truy vấn hai mẹ con nhà họ Triệu. Họ trầm ngâm lắc đầu, ánh mắt mơ màng. Bảy mươi năm phong ba đã đi qua, số thư này đã mất, bản thảo cũng không còn, chỉ hy vọng những nhà nghiên cứu Ba Kim về sau sẽ lưu tâm.
Được sự đồng ý của hai mẹ con họ, tôi đã chụp lại được một vài tấm hình cũ trong tập ảnh của nhà họ Triệu. Những tấm ảnh này sẽ giúp cho câu chuyện được hoàn thiện hơn khi kể nó cho độc giả thời bình và cũng giúp cho chúng ta được cùng nhau đi tìm Đại Lợi của Ba Kim.
Triệu Kiện làm việc cho ngân hàng Xây dựng Tây An cho đến khi nghỉ hưu. Trong thành phố Tây An có không ít thị dân gốc Hà Nam. Hồi trẻ, Triệu Kiện đã kết hôn với một người đàn ông Hà Nam, sau đó sinh được một người con gái. Người con gái này chúng tôi chưa được gặp. Chúc cô ấy mọi điều tốt đẹp, hy vọng bi kịch của bà ngoại cô trong kiếp này sẽ không lặp lại nữa.
Tôi và Lý Bân cáo biệt mẹ con Đại Lợi. Lúc bước xuống lầu, khắp thành cổ Tây An xe cộ như nước, ánh đèn rực rỡ. Dòng người tan làm vội vã trở về nhà. Một người ăn xin trên phố đang kéo đàn nhị, lại chẳng phải bài Giang hà thủy mà là khúc nhạc thịnh hành Bước vào thời đại mới. Trong ánh đèn huyền ảo, khách bộ hành rảo bước thật nhanh.
Mùa thu năm 1964, theo lời mời của các nhà văn Sơn Tây, Ba Kim tiên sinh từng du ngoạn đến Thái Nguyên, Đại Đồng, thôn Đại Trại… Chẳng hay ông vẫn còn nhớ tới Mùa xuân ở Thái Nguyên năm 1936? Còn nhớ cô thiếu nữ tên là Đại Lợi sống ở “Số 20 phố Pha Tử” từng trao đổi thư từ với ông để giãi bày biết bao tâm tình hay không? Tất cả những điều này đều chưa được kiểm chứng.
Gần đây có thông tin cho hay, tiểu hành tinh được đặt theo tên của Ba Kim đang phiêu lãng trong vũ trụ mênh mang vô tận. Điều này khiến tôi liên tưởng đến một nhà văn Trung Quốc sau khi đã trải qua mọi khổ nạn, cuối cùng đã hoàn toàn được tự do.
Trời đất rộng lớn bao la, riêng ta đau lòng rơi lệ.
Hãy chúc phúc cho họ, những con người khao khát tự do.
Tháng 10 năm 2009, Thái Nguyên-Bắc Kinh