• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Bảy bức thư bị đánh mất
  3. Trang 22

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 21
  • 22
  • 23
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 21
  • 22
  • 23
  • Sau

19Kiên quyết không chịu làm vợ lẽ

Vị giám đốc tài chính khu vực Lan Châu thuộc Bộ Tài chính chính phủ quốc dân Nam Ánh Canh đã sắp xếp công việc trong ngân hàng Tứ Minh cho cô gái đồng hương đang lưu lạc nơi đất khách, ngay lập lức đã giải quyết được vấn đề sinh tồn nan giải của kẻ yếu. Chúng ta không dám suy đoán về cảm tưởng của Đại Lợi khi ấy ra sao. Trong lúc phỏng vấn, tôi cứ để bà cụ tùy ý kể chuyện, không muốn ngắt lời hay chất vấn. Tôi nghĩ phụ nữ trí thức đa phần đều thích tĩnh, không thích động. Vào thời ấy có một nữ nhà văn tên là Trầm Anh, người Duy Huyện, tỉnh Sơn Đông, cũng gây được chú ý sau Băng Tâm, Đinh Linh. Trầm Anh đã viết một đoạn văn giãi bày nỗi lòng để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc:

“Tôi không kiếm tìm niềm vui lớn lao, bởi vì khó tìm quá; tôi thích những niềm vui nhỏ bé. Tôi thích nghe nhạc, nhưng chưa từng nghĩ sẽ làm nhạc sĩ; tôi thích vẽ tranh, nhưng chưa từng nghĩ sẽ làm họa sĩ; tôi thích trồng hoa, nhưng chưa từng nghĩ sẽ là nghệ nhân làm vườn; tôi thích dịch thuật, nhưng chưa từng nghĩ sẽ làm phiên dịch viên. Đối với mọi thứ, tôi chỉ có hứng thú thưởng thức chứ không có khí phách nghiên cứu, càng không có đam mê sáng tạo”.

Bạn có thể xem lời thú nhận này của nữ giới là tâm tư của tầng lớp tiểu tư sản, còn tôi lại cảm thấy thật thân thiết và đáng tin cậy. Trong Bài ca thanh xuân của Dương Mạt, bản chất vốn có của nhân vật Lâm Đạo Tĩnh đại thể cũng như thế. Nghe nói Lâm Đạo Tĩnh trong bản thảo gốc còn ôn hòa và chân thực hơn nhiều, chứ đâu mạnh mẽ như chúng ta thấy. Tác phẩm đã được sửa đổi nhiều lần trước khi xuất bản, cuối cùng lại trở thành một bức họa tuyên truyền về người chiến sĩ cách mạng chiến đấu chống lại kẻ thù.

Những cô gái trí thức mới xuất thân trong gia đình giàu có, dù họ tràn đầy nhiệt huyết hướng tới cách mạng, kịch liệt phản đối quan niệm xưa cũ, song lại rất khó để trở thành người anh hùng đấu tranh cho chính nghĩa bất chấp đói lạnh giống như Lưu Hồ Lan. Bởi vậy, lời thú nhận của Trầm Anh mang tính phổ biến và chân thực hơn so với hình tượng nhà cách mạng nữ được khắc họa trong những tác phẩm văn học nghệ thuật mang tính khẩu hiệu tuyên truyền. Trầm Anh về sau đã dời tới Đài Loan.

Đại Lợi dành tình yêu sâu sắc cho những tác phẩm của Ba Kim, cũng được giác ngộ tư tưởng cách mạng mới, song chưa chắc có thể trở thành một chiến sĩ cách mạng đỏ. Cô chưa từng được tôi luyện trong hoàn cảnh máu lửa giống như Đinh Linh. Hồi vừa đảm nhiệm chức Sở trưởng Văn hóa nghệ thuật thuộc Bộ Tuyên truyền trung ương, trong buổi diễn thuyết công khai, Đinh Linh đã thẳng thắn khuyên nhủ lớp thanh niên: Phải tẩy não, chớ tiếp tục si mê những tác phẩm cũ của Băng Tâm, Ba Kim… Người đảng viên lâu năm của Đảng cộng sản này cho rằng, tác phẩm của Ba Kim không thể dẫn dắt con đường phía trước cho thanh niên. Trước tiên bà thừa nhận tác phẩm của Ba Kim “Cũng có thể hướng con người tới cách mạng”, sau đó lại chỉ trích gay gắt và cay đắng: “Thứ cách mạng đó trên không có lãnh đạo, dưới không có quần chúng, chỉ có vài con người giống như bằng hữu hay tình nhân cùng làm cách mạng, vậy thì có thể làm được thứ cách mạng gì chứ.” Do đó, “Đi theo anh ấy sẽ chẳng tiến lên được đâu. Ba Kim hiện giờ cũng đang sửa chữa tư tưởng phi thực tế của mình”.

Cũng chính Đinh Linh là người đã tích cực thúc giục Ba Kim lên đường đến tiền tuyến Triều Tiên, cải tạo tuyên truyền trong chiến trận. Trên thực tế, Đinh Linh và Ba Kim có mối quan hệ cực kỳ tốt đẹp. Chính vì thế mới càng khiến cho người ta cảm nhận được sức mạnh to lớn của cuộc đấu tranh tư tưởng lúc đương thời.

Như Đinh Linh đã nói, có lẽ những người như Đại Lợi phần lớn đều giống nhau, đọc những cuốn tiểu thuyết “cũng có thể hướng con người tới cách mạng” của Ba Kim, kết quả là “Đi theo anh ấy sẽ chẳng tiến lên được đâu”, đương nhiên sẽ “Làm được thứ cách mạng gì chứ”. Tâm khảm họ có lẽ gần gũi hơn với nhà văn Trầm Anh. Lô gic của các nhà cách mạng thời đó như sau: “Phần tử trí thức của thời đại cũ” chỉ cần sự tự do cho tinh thần cá nhân, chỉ chú trọng vào việc xây dựng tình cảm đạo đức của bản thân, họ không thể dung hòa với tinh thần cách mạng đấu tranh quyết liệt của tầng lớp bần nông, do đó cũng rất khó để duy trì sự nhất quán lâu dài với cách mạng đỏ, vì vậy việc “tẩy não”, “gọt giũa” và cải tạo tư tưởng cho bộ phận này là vô cùng cần thiết và cấp bách.

Sau năm 1950, sự công kích dữ dội và đấu tranh phê phán đối với “Phần tử trí thức thời đại cũ” diễn ra liên tục, ngày càng trở nên khốc liệt, cho đến khi họ hoàn toàn phủ nhận mình trong nỗi đọa đày, sau đó thì tàn sát lẫn nhau với các nhóm tương tự…

Có lẽ câu chuyện đã bị đẩy đi quá xa.

Đại Lợi dừng chân tại ngân hàng Tứ Minh chi nhánh Lan Châu. Một trái tim yếu đuối, trải qua vạn dặm đường xa đầy hiểm nguy, giờ đây đã dần trở nên yên bình. Theo tư liệu ghi chép, máy bay quân sự của quân Nhật hiếm khi quấy phá Lan Châu, dường như chỉ bay tới một hai lần, tổn thất không lớn lắm.

Xa rời chiến tranh, tiến gần đến tình ái. Bỗng một ngày, bên cạnh Triệu Đại Lợi xuất hiện bóng hình của đàn ông. Đó là một người Ninh Ba, họ Trương, nhân viên cấp cao của ngân hàng, nói giọng Thượng Hải, chẳng rõ người này có quan hệ thế nào với nhóm người Ninh Ba điều hành ngân hàng, chỉ biết anh ta giữ chức Phó giám đốc tại chi nhánh Lan Châu. Chúng ta hãy tạm gọi người này là Trương Quân.

Cũng như nhiều đàn ông Thượng Hải khác, Trương Quân là người rất chu đáo, không chỉ giỏi nghiệp vụ ngân hàng, mà còn đa tài đa nghệ, có thể chơi đàn hát ca, diễn tấu phong cầm, ngoài ra còn có vốn hiểu biết về y học, chú trọng đến việc chăm chút sức khỏe. Trương Quân có tướng mạo sáng sủa, thân hình linh hoạt, khác hẳn với những công tử con nhà giàu ở Thượng Hải.

Trương Quân xuất hiện giữa sa mạc mênh mang, sông dài phủ ánh hoàng hôn, trở thành một dải cầu vồng tươi sáng trước mắt thiếu nữ.

Trương Quân đã nảy sinh tình ý mãnh liệt với Đại Lợi. Chỉ cần có Đại Lợi ở đó thì cuộc sống ở vùng Tây Bắc của anh ta không còn tẻ nhạt nữa.

Mối tình Tây Bắc đã bắt đầu như thế đó. Điều này cũng không có gì đáng ngạc nhiên, mọi người chúc họ hạnh phúc mỹ mãn. Họ cũng tràn đầy niềm vui sướng khi đã tìm thấy tình yêu ở miền đất xa xôi.

Cũng chính vào thời điểm này, Ba Kim tiên sinh đang phiêu bạt ở vùng Tây Nam, cũng đã sánh đôi với Tiêu San ở Quý Châu.

Trương Quân và Đại Lợi hỗ trợ lẫn nhau, cùng nhau bước hết đoạn đường khốn khó trước khi kháng chiến dành thắng lợi. Ngảy 15.8.1945, quân Nhật cuối cùng đã đầu hàng vô điều kiện, nhân dân Trung Quốc đã dành được thắng lợi cuối cùng của cuộc chiến tranh này, họ nâng chén ăn mừng, cuộc vui thâu đêm, họ hướng về tương lai tươi đẹp trong tiếng hát, chuẩn bị kế hoạch cáo biệt Tây Bắc, quay về Thượng Hải phồn hoa để bắt đầu cuộc sống mới.

Bi kịch sắp xảy đến. Trong những ngày tháng cũ, Đại Lợi từng đau khổ nếm trải mùi vị của sự ly tán, ai mà biết được rằng, cuộc ly tán dài hơn và gian nan hơn thế vẫn còn ở phía trước.

Năm 1946, trụ sở của ngân hàng Tứ Minh từ Trùng Khánh chuyển về Thượng Hải. Trương Quân được điều về Thượng Hải đảm nhiệm chức vụ mới.

Hồi trước, Trương Quân đơn độc tới vùng Lan Châu xa xôi, nay thắng lợi trở về Thượng Hải đã có thêm người vợ trẻ đẹp Đại Lợi, trở thành một cặp vợ chồng. Không, Đại Lợi đã mang thai được vài tháng, sinh mệnh nhỏ trong bụng ngày một lớn dần; phải nói là ba thành viên trong một gia đình cùng nhau chuyển đến Thượng Hải mới đúng. Sinh mệnh nhỏ ngày ấy hiện giờ đang ngồi trước mặt chúng tôi. Kể tới đây, cô Triệu Kiện khẽ gượng cười, nỗi niềm xót xa.

Cả gia đình họ vượt quãng đường xa trắc trở. Tuy hao cạn sức lực, song Đại Lợi vẫn tràn đầy niềm vui, cô chưa từng tới Thượng Hải, mà chỉ qua lại thư từ với một nhà văn nổi tiếng ở đó vào tám năm trước. Cô muốn cất cao giọng để nói với Thượng Hải rằng: Sông Hoàng Phố xinh đẹp, tôi đến rồi đây! Còn Trương Quân lại tỏ thái độ khác hẳn ngày thường, tâm trạng nặng nề, cả ngày ảo não, kiệm lời, dường như đang ưu sầu tính kế sinh nhai.

Dù là hài kịch hay bi kịch, bức màn kia sớm muộn cũng phải vén lên.

Đây là một bi kịch, không có thuốc cứu giải.

Nào ngờ, Trương Quân đã có một gia đình không thể đảo lộn ở Thượng Hải! Trương Quân từ nhỏ đến lớn, từ lúc đi học đến lúc trưởng thành đều nhận được sự chăm lo của gia đình người cậu. Hôm nay, Trương Quân đã trở thành một người giàu có, người cậu dĩ nhiên hết sức vui sướng, hơn nữa còn muốn dựa dẫm, nên sớm đã tìm vợ cho cháu trai, chính là cô con gái quý giá của nhà họ, đã mòn mỏi chờ đợi Trương Quân nhiều năm. Chuyện này khiến Trương Quân hết sức rối bời. Dường như sẽ không công bằng nếu nói Trương Quân đã giấu giếm Đại Lợi suốt bấy lâu nay, bởi lẽ Trương Quân chưa từng chung sống với “người vợ” này một ngày nào. Trương Quân có lẽ cho rằng, lần này quay về Thượng Hải sẽ không khác gì một cuộc nổi loạn, gạt bỏ đi hôn nhân cũ của gia tộc, thế nhưng gia đình người cậu tuyệt đối không cho phép anh ta làm vậy. Người ta sớm đã đem gạo nấu thành cơm, đâu dễ mà ly hôn cho được, không những vậy còn đem đứa con nhỏ của nhà em trai về sống cùng rồi. Còn về Đại Lợi, có lẽ họ cho rằng, Trương Quân chẳng qua là dẫn về một cô gái có học thức, cô ta không có gốc gác, cũng chẳng có quyền thế ở Thượng Hải, thì có thể làm được gì chứ? Hoặc là cô ta hạ mình làm vợ lẽ để mà sống cho yên ổn, hoặc là phải cuốn gói cút xéo, làm phụ nữ mới độc lập, chẳng ai ngăn cản đâu.

Đối mặt với cuộc hôn nhân bế tắc này quả thực đã khiến Đại Lợi ngột ngạt đến tức thở. Trương Quân không chống lại được thế lực của gia tộc cũ, còn tỏ ra vô cùng yếu mềm. Đại Lợi kiệt quệ trong bất lực, cô không bao giờ có thể ngờ được rằng, bản thân mình tử nhỏ đã đọc sách mới, mang tư tưởng chống đối và thoát ly khỏi gia tộc, đấu tranh cho tự do, chống lại nam quyền, mưu cầu độc lập, vậy mà cuối cùng lại rơi sâu hơn vào vũng bùn lầy nhơ bẩn của chế độ phong kiến gia trưởng. Ngước mặt lên trời mà thét gào, đau không thiết sống, có thêm đứa trẻ trong bụng, nỗi khó khăn tăng lên muôn phần. Có người nói rằng, đây là bi kịch của riêng phụ nữ sống trong xã hội Trung Quốc cũ. Suy nghĩ này thật quá đơn giản, bi kịch này chỉ diễn ra ở Trung Quốc thời đại đó hay sao? Con đường giải phóng phụ nữ đích thực không biết sẽ phải kéo dài đến bao giờ?

Triệu Đại Lợi, cô gái trí thức am hiểu những tác phẩm của Ba Kim, giờ đây đang cho thấy dũng khí cực kỳ to lớn thề không chịu khuất phục của mình. Cô tuyệt đối không chịu cúi đầu thỏa hiệp với một gia tộc cũ, cô kiên quyết không chịu làm phận vợ lẽ an nhàn hưởng thụ.

Sau khi thương lượng với Trương Quân bất thành, Đại Lợi quyết định rời khỏi bến Thượng Hải, tiếp tục bước đường phiêu bạt, dù cho cô mang thai Triệu Kiện đã được năm tháng.

Cô ấy sẽ đi về đâu?

Cô ấy không quen biết ai, chỉ đành một lần nữa quay đầu về nhà chị gái ở Thiên Thủy, Cam Túc.

Trương Quân tuy biết rõ Đại Lợi đang mang trong bụng đứa con của mình, là trái ngọt chứng giám cho tình yêu của hai người, song lại không còn lựa chọn nào khác. Trương Quân ngậm ngùi nói: “Em đã quyết định quay về Cam Túc, vậy anh sẽ đưa tiễn em chuyến này!”

Vẫn là chuyến đi trắc trở vượt quãng đường xa. Lúc đến thì cả gia đình tràn đầy tình yêu, còn lúc rời đi đã trở nên xa lạ, đầy nỗi oán hận.

Khi xe đến Thiên Thủy thì đã là hoàng hôn, Trương Quân mệt mỏi nghỉ ngơi trong nhà trọ. Còn Đại Lợi một mình thất thểu về nhà chị gái.

Chị gái Triệu Xảo Sinh nhìn bụng em gái, sau khi nghe lời giãi bày bi thương thì đã bộc phát ra tiếng gào thét căm hờn của một phụ nữ Sơn Tây. Cô quay người lao thẳng tới nhà trọ tìm Trương Quân để nói cho ra nhẽ: “Tên khốn, tại sao lại làm vậy?”

Trương Quân tỏ vẻ đau buồn, cũng không biết đã nói những gì.

Ở Trung Quốc, bất kỳ một vụ tranh chấp nào gây ra bởi luân lý đạo đức hay quan niệm cũ và mới, ban đầu thường diễn ra hết sức gay gắt, đến cuối cùng sẽ biến thành một hình thức bồi thường kinh tế nào đó. Triệu Xảo Sinh nổi giận chỉ trích Trương Quân, giảng giải lý lẽ, kết quả cũng lại như vậy mà thôi. Đôi bên sau khi nguôi giận đã tính toán chi phí nằm viện và sinh đẻ, cuối cùng Trương Quân đồng ý bù đắp 50 đồng tiền tây mỗi tháng và sẽ chu cấp trong năm tháng.

Triệu Xảo Sinh yêu cầu tăng thêm, Trương Quân nói: Hết rồi, tôi chỉ mang theo bấy nhiêu tiền trên người. Còn sau này à? Cũng chưa dám chắc, sẽ cố gắng hết sức tùy theo tình hình.

Trong nỗi tuyệt vọng, mối nhân duyên giữa Trương Quân và Đại Lợi xem như chấm dứt từ đây. Chỉ trách than hôn nhân tuy đã hết, song nỗi đau thì sẽ còn ở lại mãi mãi. Kể từ đó, Đại Lợi ở vậy, một mình vất vả nuôi nấng Triệu Kiện khôn lớn. Hai mẹ con họ đến nay vẫn nương tựa vào nhau sống qua ngày.

Còn Triệu Kiện trong suốt cuộc đời cũng chưa từng được gặp cha đẻ của mình.

Triệu Kiện không phải được sinh ra ở Thiên Thủy. Khi đó, gia đình chị gái chuẩn bị chuyển dịch tiền vốn của nhà máy dệt Thiên Thủy tới Thượng Hải. Gia đình họ đang gấp rút dời tới Thượng Hải để xử lý nhiều việc. Chị gái phải đi xa, em gái lại sắp sinh đẻ nhưng không có người chăm sóc. Không còn cách nào khác, hai chị em nhớ tới người chị họ con nhà chú ở Tây An, tên là Triệu Cúc Sinh, cuộc sống khá ổn định. Đại Lợi lại cùng chị gái tất tưởi đến Tây An để nhờ vả người nhà chăm lo chuyện sinh đẻ. Không lâu sau, Triệu Kiện được sinh ra trong một bệnh viện ở Tây An, người chị họ Triệu Cúc Sinh đã đón Đại Lợi về nhà mình sinh sống. Chờ tới khi gia đình chị gái chính thức chuyển đến Thượng Hải, lúc đi qua Tây An, họ đã đưa hai mẹ con Đại Lợi cùng tới Thượng Hải.

Tại sao lại trở về Thượng Hải? Đúng vậy, sau kháng chiến có rất nhiều nhà tư bản dân tộc đã lần lượt kéo tới Thượng Hải phát triển, đó thực sự là quãng thời gian hoàng kim.

Thái Nguyên, Tây An, Cam Túc, Thượng Hải, Đại Lợi không hiểu tại sao cuộc đời mình lại không thể rời bỏ được bốn nơi ấy? Tại sao lại không thể thoát ly khỏi mạng lưới quan hệ của gia tộc?

Khi hai chị em Xảo Sinh và Mai Sinh vừa đến Thượng Hải thì đã có hai người anh họ Ninh Vũ ra mặt đón tiếp. Một người trong đó chính là Chủ tịch Hội đồng quản trị mới nhậm chức của ngân hàng Tứ Minh.

Sau khi đi được một đường vòng lớn, Đại Lợi lại một lần nữa vào làm việc cho ngân hàng Tứ Minh.

Chị gái Xảo Sinh muốn tìm Trương Quân tính sổ, song Đại Lợi lại kiên quyết ngăn cản, cô muốn dựa vào chính mình lao động kiếm sống.

Vật đổi sao dời, phong vân xoay chuyển. Trên đài phát thanh ngày ấy người ta thường được nghe thấy những khẩu hiệu vang dội của nông dân các tỉnh Sơn Tây, Hà Bắc, Sơn Đông và vùng Đông Bắc nổi dậy đòi cải cách ruộng đất, vùng lên đấu tranh. Khẩu hiệu ấy thanh thế ngút trời, lại tàn khốc vô tình, khiến cho ba thế hệ của hai nhà họ Triệu và họ Nam tim đập chân run, trở tay không kịp. Ngay sau đó, tin tức về những thắng lợi vang dội của quân đội Đảng cộng sản Trung Quốc trên khắp các chiến trường ở các vùng Hoa Bắc, Đông Bắc, Bình Tân và trên cả nước được dồn dập báo đi. Những bản tin phát thanh hàng ngày với sức mạnh ghê ghớm đã giáng một đòn mạnh vào con tim hãi hùng của vô số nhà tư bản Thượng Hải.

Ngân hàng Tứ Minh vốn kinh doanh tiền tệ quốc dân, lúc này đột nhiên phải chuyển sang phát hành loại tiền giấy kiểu mới. Bấy giờ nếu muốn kiểm kê chi phiếu thì đến thần tiên cũng không làm nổi. Đây rõ ràng là một sự thất bại khó lòng che giấu.

Đầu mùa hè năm 1949, khắp nơi vang lên tiếng pháo. Quân đội của Đảng cộng sản Trung Quốc đổ bộ sông Trường Giang, chiếm lĩnh Nam Kinh. Các nhân vật xung quanh Đại Lợi kinh hoàng thốt lên: Quân giải phóng đến rồi! Còn Đại Lợi lại tỏ ra hết sức bình tĩnh, thậm chí trong lòng cô còn vô cùng vui sướng. Bà cụ nói trong cuộc phỏng vấn: “Quân giải phóng có gì mà đáng sợ chứ? Họ chính là quân cách mạng quốc dân từng kháng Nhật ở Sơn Tây! Hồi ấy tôi đã đọc Tuyên ngôn của Đảng cộng sản nên được biết, nhà tư bản ắt phải có tài sản, nắm giữ tài sản lớn mới gọi là nhà tư bản, giai cấp tư sản ắt phải có tài sản, nắm giữ tài sản lớn nên mới hình thành giai cấp. Người như tôi, ngoài vài bộ quần áo cũ và đèo bòng thêm đứa con, thì chẳng còn gì nữa. Ngay tới tài sản nhà cửa còn chẳng có, đương nhiên tôi không phải là nhà tư bản, chắc chắn không phải! Tôi chẳng có gì cả, tôi chỉ là một nhân viên ngân hàng bình thường, tôi sợ gì chứ?”

Sáng sớm ngày 27.5, trong cơn mưa phùn mịt mùng, Đại Lợi và các đồng nghiệp của ngân hàng cùng nhau xuống phố nồng nhiệt chào đón quân đội của Đảng cộng sản tiến vào Thượng Hải. Điều thú vị là, chính vào lúc đó, Ba Kim tiên sinh, người mà Đại Lợi yêu mến nhất cũng ở trong đám đông nghênh đón “Quân đội của Đảng cộng sản”, hai người chứng kiến cảnh bộ đội hào hùng tiến vào thành phố vào cùng một thời gian và không gian. Họ không gặp đối phương, hoặc thậm chí chạm mặt thì cũng rất khó để nhận ra nhau. Đúng vậy, Ba Kim chưa từng gặp Đại Lợi, cũng chưa từng được nhìn qua ảnh, còn Đại Lợi khi ấy đã trở thành một thiếu phụ gần ba mươi tuổi. Mười mấy mùa xuân thu đã đi qua, quãng đường đời trắc trở phức tạp của cô cùng với những việc làm của đời cha chú, làm thế nào để giãi bày với tác gia được đây?

Quần chúng hân hoan. Cô bé Triệu Kiện đã lên ba, lẫn trong đám đông cùng người lớn hát ca. Trong cuốn Chuyện kể Ba Kim, Trần Đan Thần tiên sinh đã viết về cảnh tượng đó như sau: “Quần chúng dõi theo và nghênh đón bóng hình của những chiến sỹ mặc quân phục vàng đã bạc màu bằng ánh mắt hiếu kỳ và thân thiết… Ba Kim và Hoàng Thường cũng ở trên phố hòa vào đám đông. Đây là lần đầu tiên anh được trông thấy quân giải phóng”.

Đại Lợi không hề nổi bật trong đám đông nghênh đón.

Cảnh tượng này khiến người ta phải suy ngẫm: Thế lực cũ của Trung Quốc đã từng rất hùng mạnh, hiện thực vô cùng tàn khốc, trong cuộc đấu tranh gian khổ đẫm máu kéo dài hàng chục năm, những nhà cách mạng theo chủ nghĩa vô chính phủ lại tỏ ra yếu mềm và bất lực. Rõ ràng, họ khó mà sánh được với kỷ luật tổ chức rắn như thép và những phương châm chiến lược hiệu quả ở các thời kỳ khác nhau của Đảng cộng sản. Lý Tồn Quang tiên sinh trong khi nghiên cứu về Ba Kim đã phân tích thế này: “Trước và sau ‘Phong trào Ngũ Tứ’, hàng chục nhóm chủ nghĩa vô chính phủ phân bố khắp nơi đã lần lượt giải tán do tổ chức của họ tan rã, tư tưởng và hành động bất nhất. Rất nhiều người sùng bái chủ nghĩa vô chính phủ cũng dần phân hóa chuyển hướng, đi theo Quốc dân Đảng, gia nhập Đảng cộng sản hoặc rút khỏi võ đài chính trị, một số ít thì về các vùng quê dạy học. Đối với Ba Kim, con đường ‘Đấu tranh thực tế’ vốn mơ hồ hư ảo mà ông lựa chọn lại khó lòng bước qua trong hiện thực. Lòng tin cố chấp cùng tính cách ương ngạnh khiến ông không cam tâm hợp tác với Quốc dân Đảng, cũng khó mà bước vào con đường nghiên cứu học thuật hay làm ăn kinh doanh. Trong khi đó, những nhược điểm của giai cấp tiểu tư sản và phần tử trí thức, sự ảnh hưởng sâu sắc về tư tưởng của chủ nghĩa vô chính phủ lại khiến ông không thể, cũng không muốn lựa chọn con đường cách mạng mới. Thực là muốn tiến không được mà muốn lùi cũng chẳng xong. Ba Kim chìm sâu vào nỗi đau khổ.” Sự phân tích này vô cùng xác đáng. Hoàn cảnh của Ba Kim đã như vậy, Đại Lợi có lẽ cũng chẳng khác gì. “Không thể, cũng không muốn lựa chọn con đường cách mạng mới”- Câu nói này bao hàm thật nhiều ý nghĩa.

Quân giải phóng tiến vào Thượng Hải, các nhà tư bản dân tộc lần lượt rút lui. Chỉ trong một đêm, số vốn lớn do quan chức đầu tư vào ngân hàng Tứ Minh đã bị chính phủ mới cưỡng chế tịch thu, sung vào công quỹ. Các ngân hàng bắt đầu cắt giảm nhân viên với số lượng lớn, ngân hàng Tứ Minh đã phải sa thải hơn sáu mươi người, trong số đó cũng có Triệu Đại Lợi-một người lao động bình thường. Bà cụ hồi tưởng: “Tôi đã đứng ra nói với mọi người rằng, chúng ta không thể giải tán như thế này được, cần phải đoàn kết lại đấu tranh với nhà tư bản”. Khi ấy, Đại Lợi đã mô phỏng theo trứ tác của Ba Kim để viết ra “Bản thông báo tới toàn thể nhân viên” kêu gọi mọi người kiên trì làm việc, đòi việc làm và tiền lương từ nhà tư bản. Cô đã xung phong dẫn dắt những đồng nghiệp khác tới văn phòng chính quyền thành phố Thượng Hải, yêu cầu chính quyền can thiệp vào quản lý cấp cao của ngân hàng, không được tùy ý sa thải nhân viên. Tiếc thay, chính quyền thành phố lại trả lời rằng: “Ngân hàng Tứ Minh là ngân hàng tư nhân, chúng tôi tạm thời không thể quản lý vấn đề nội bộ của họ”. Đồng thời, còn nhiệt tình nói với Đại Lợi: “Nếu cô muốn, chúng tôi hy vọng có thể thu nhận cô tham gia vào công tác cách mạng, chúng tôi có thể giới thiệu cô tới một đơn vị mới để làm việc, chúng tôi rất cần người như cô!” Cơ hội này vốn vô cùng hiếm hoi, song Đại Lợi lại nghĩ rằng, các đồng nghiệp vẫn đang trong hoàn cảnh khó khăn, mình chỉ nghĩ đến bản thân mà bỏ đi như vậy sao? Cô đã cự tuyệt lời đề nghị và tuột mất cơ hội quý giá. Cuối cùng, Đại Lợi được nhận ba tháng tiền lương của ngân hàng, coi như là khoản trợ cấp thôi việc. Không còn cách nào khác, cô đành dẫn theo con gái Triệu Kiện, lết đôi chân đã mệt mỏi rã rời, lại lần nữa trở về bên cạnh chị gái.

Thời thế biến động, hầu hết tài sản của nhà chị gái đều bị tịch thu, chẳng còn giữ lại được bao nhiêu.

Ở Thượng Hải vốn có khá nhiều những ông chủ người Sơn Tây điều hành các công ty thương mại, trong số đó có không ít người nhà họ Triệu, trước tình hình kinh doanh ảm đạm, Đảng cộng sản lại đàn áp đầu cơ, kiểm soát hết sức nghiêm ngặt, ngay khi tuyến đường sắt Bắc Kinh-Thượng Hải hoạt động trở lại, những ông chủ Sơn Tây này liền lập tức ôm tiền bạc, tất tưởi trở về quê hương.

Người cha từng du học đại học Cambridge của chị em nhà họ Triệu đành ở lại Cam Túc làm một nhà giáo thực thụ, nào dám quay về quê nhà.

Quê nhà Ninh Vũ chỉ còn lại bà nội của nhà họ Triệu, về sau tháo chạy tới Thái Nguyên, rồi mất trong cuộc bạo động năm 1949.

Biệt phủ số 20 phố Pha Tử, Thái Nguyên nhanh chóng bị chuyển nhượng cho xưởng công binh Sơn Tây. Chính vào thời điểm này, người anh thứ ba của Đại Lợi đã báo cho cô hay, toàn bộ sách vở thư từ còn giữ lại đều đã bị đốt sạch.

Người anh thứ hai của Triệu Đại Lợi du học ở Nhật Bản, phải tạm lánh ở nước ngoài chưa thể quay về, cho tới năm 1954, nhận được sự tiếp ứng của Hội Chữ thập đỏ mới có thể trở về nước.

Chị em nhà họ Triệu hoang mang không biết phải đi về đâu. Họ vội vã rời Thượng Hải chạy tới Bắc Kinh, tạm thời nhờ cậy các bậc trưởng bối như Nam Quế Hinh, Phó Tác Nghĩa…

Năm 1949 đã đánh dấu một biến động dữ dội và hết sức nghiệt ngã đối với gia tộc họ Triệu. Trách than thế thái vô tình, đã rơi vào cảnh ngộ như vậy, thân ai người ấy tự lo, tan tác muôn nẻo.

Nói tới đây, bà cụ Đại Lợi trầm mặc hồi lâu, không cất nên lời.

Triệu Đại Lợi, chung quy lại cũng không phải là Lâm Đạo Tĩnh.

20. Cùng nhau đi tìm đại lợi

Sau khi kháng chiến dành thắng lợi, Triệu Đình Nhã, Triệu Đình Anh và tất cả người nhà họ Triệu đều bị rơi vào nghịch cảnh, chịu đủ mọi sự sỉ nhục mà không thể biện minh. Diêm Tích Sơn bỏ rơi họ, Quốc dân Đảng muốn trừng phạt Hán gian, còn Đảng cộng sản đã dựa vào sức mạnh quân sự hùng mạnh nhằm đoạt lấy quyền thống trị quốc gia. Cho dù thế nào thì chuyện tốt đẹp đều không đến lượt nhà họ. Khi nhà họ Triệu rơi vào hoàn cảnh khó khăn, Diêm Tích Sơn, Quốc dân Đảng và Đảng cộng sản đều đừng hòng ra tay cứu vớt.

Đại Lợi thật chẳng dễ dàng. Thượng Hải không thể dung thân, còn Bắc Kinh cũng khó lòng mà trụ lâu, người nhà họ không còn tấc đất cắm dùi. Hàng trăm người nhà họ Triệu đã phải phiêu bạt tới 11 tỉnh thành trên khắp mọi miền, tan tác muôn nơi.

Đại Lợi cùng con gái nhỏ Triệu Kiện sống trong nỗi bất an sợ hãi.

Suy đi ngẫm lại thì vẫn phải dựa vào đôi tay của chính mình lao động kiếm sống vượt qua sóng gió. Đất Thượng Hải chỉ toàn nỗi đau thương, Bắc Kinh khó lòng mưu sinh, Thái Nguyên không dám quay về, còn Tây An thì sao? Đại Lợi quyết định lại một lần nữa tới nhà chị họ Triệu Cúc Sinh giàu lòng từ bi ở Tây An. Kể từ ngày sinh con ở tạm Tây An, thì giữa Đại Lợi và chị họ đã giữ mối tình nghĩa sâu đậm.

Mùa xuân năm 1950, Đại Lợi dẫn Triệu Kiện chạy tới Tây An.

Ngay lúc được gặp chị họ Cúc Sinh, hai người trào dâng niềm thương cảm ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Tình cảnh mẹ góa con côi bơ vơ không nơi nương tựa quả thực không gì đáng thương hơn. Triệu Cúc Sinh một mặt động viên em họ, một mặt nhờ vả những đồng hương ở Tây An giúp mẹ con Đại Lợi kiếm miếng cơm ăn.

Kể cũng kỳ lạ, chị họ Triệu Cúc Sinh sống ở Tây An đã lâu nên cũng quen biết được nhiều người, lần này đã tìm đến một người đồng hương có địa vị không phải dạng vừa, là tấm gương lao động công nghiệp tiêu biểu của Đảng cộng sản Trung Quốc thời kỳ đầu, tên là Triệu Chiêm Khôi. Vị này là người Định Tương, Sơn Tây, thời kháng chiến làm về ngành đúc trong xưởng công binh ở Diên An, là một người chăm chỉ, sống chất phác, đôn hậu. Hồi đó, khi Tưởng Giới Thạch hạ lệnh bao vây công kích khu vực biên thùy Thiểm Tây-Cam Túc-Ninh Hạ, mãnh tướng của Đảng cộng sản là Hạ Long, bấy giờ là Tổng tư lệnh phòng thủ khu vực biên thùy đã giao cho xưởng công binh ở Ôn Gia Câu gấp rút chế tạo mười vạn lựu đạn, để trang bị cho bộ đội đánh đuổi quân địch. Không ngờ, các cán bộ công đoàn của xưởng công binh, trong đó có Địch Đức Kiến, lại đột nhiên đưa ra vấn đề đãi ngộ đối với công nhân, đồng thời phản đối chế độ làm việc mười giờ một ngày, nếu không sửa đổi sẽ bãi công. Họ yêu cầu chính quyền quân đội ở Diên An phải bồi thường thỏa đáng cho công nhân, tạo nên sự kiện bãi công đầu tiên kể từ khi Đảng cộng sản lên nắm quyền cục bộ. Hạ Long suýt chút nữa đã bắn chết Địch Đức Kiến. Chính quyền quân đội Diên An một mặt phạt nặng không nương tay đối với những người như Địch Đức Kiến, một mặt xây dựng những tấm gương điển hình trong số công nhân, tăng cường công tác tư tưởng chính trị, dựa vào sức mạnh của tấm gương tốt để phục hồi hoạt động sản xuất đang rơi vào cảnh khó khăn. Nhật báo giải phóng của Diên An đã nhiệt liệt đăng bài viết về tấm gương lao động miệt mài của người công nhân quê Sơn Tây Triệu Chiêm Khôi. Mao Trạch Đông khi ấy đã lấy những tấm gương điển hình cho công tác tuyên truyền mang tính chiến lược. Nông thôn noi gương Ngô Mãn Hữu, nhà máy noi gương Triệu Chiêm Khôi, Thái Hành noi gương Lý Thuận Đạt, quân đội noi gương Trương Tư Đức, cán bộ noi gương Bạch Cầu Ân. Về sau còn bổ sung: Thanh niên noi gương Lưu Hồ Lan, Đổng Tồn Thụy, Hoàng Kế Quang, Khâu Thiếu Vân; thiếu niên noi gương Lưu Văn Học, công nghiệp noi gương Đại Khánh, nông nghiệp noi gương Đại Trại, toàn quốc noi gương quân giải phóng, khẩu hiệu nổi tiếng nhất đương nhiên chính là noi gương Lôi Phong… Tóm lại, phải để những gương tốt điển hình dẫn dắt, tập trung tiếng nói của nhân dân, thống nhất tư tưởng của nhân dân, tổ chức hành động cho nhân dân. Trong mỗi thời kỳ lịch sử, Đảng đều phải xây dựng nên một hoặc nhiều tấm gương sáng để làm tọa độ và hệ tham chiếu mới cho quần chúng phổ thông đi theo Đảng. Hiệu quả tổng thể mà nó mang lại đương nhiên rất tốt, cực kỳ tốt, đặc biệt tốt.

Đứng trước kẻ thù lớn, về việc noi gương Triệu Chiêm Khôi, Mao Trạch Đông đưa ra chỉ thị khá kiên quyết. Khi đó, sau khi đọc xong bài viết trên Nhật báo giải phóng, Mao Trạch Đông đã đích thân gọi điện cho Bí thư trung ương Đảng Đặng Phát, nói rằng: “Việc khen thưởng Triệu Chiêm Khôi đã làm rất tốt, đây không phải là vấn đề khen thưởng cho một cá nhân, mà là một việc làm giúp nâng cao sản xuất, cải tiến công việc của toàn bộ khu vực biên thùy và các căn cứ khác. Tôi thường nghe các anh nói rằng phải đi tìm Stakhanov, đồng chí Triệu Chiêm Khôi chính là Stakhanov của Trung Quốc. Các anh phải tổng kết những ưu điểm của cậu ấy, xây dựng gương sáng và lan tỏa đến các nhà máy và đơn vị sản xuất.” Kể từ đó, “Phong trào noi gương Triệu Chiêm Khôi” đã được phát động sôi nổi ở khu vực biên thùy các tỉnh Thiểm Tây-Cam Túc-Ninh Hạ.

Sau năm 1949, Triệu Chiêm Khôi đã trở thành tấm gương lao động toàn quốc lớp đầu tiên, đồng thời với tư cách là đại diện cho công nhân vùng Tây Bắc, ông đã tham gia hội nghị Hiệp thương chính trị toàn quốc lần thứ nhất khóa đầu, tiếp đến là đại biểu Đại hội nhân dân toàn quốc khóa một và khóa hai. Năm 1950, Triệu Chiêm Khôi vinh dự được bổ nhiệm làm Phó chủ tịch Tổng liên đoàn lao động khu vực Tây Bắc và Tổng liên đoàn lao động tỉnh Thiểm Tây, chức vụ thực tế là Phó bộ trưởng Bộ Lao động thuộc Ủy ban Quân sự và chính trị Tây Bắc. Cho tới sáu mươi năm sau, ngày hôm nay, Tổng liên đoàn lao động toàn quốc nước Trung Hoa bình chọn ra sáu mươi “Tấm gương lao động có sức ảnh hưởng nhất Trung Quốc mới”, nhằm thúc đẩy các hoạt động kỷ niệm ngày quốc khánh quy mô lớn, Triệu Chiếm Khôi vẫn vinh dự nằm trong số đó.

Triệu Chiêm Khôi sinh năm 1896, mất vào ngày 26.8.1973.

Vậy “Tấm gương lao động” kỳ cựu này có liên quan gì đến số phận của mẹ con Đại Lợi?

Sự tích về Triệu Chiêm Khôi lan truyền khắp chính đảng, quân đội và các tầng lớp xã hội ở vùng Tây Bắc, không ai mà không biết. Song người ta chỉ biết ông ấy miệt mài cống hiến cho Đảng, mà ít ai biết rằng, ông từng học việc trong các doanh nghiệp thời kỳ đầu của những nhà tư bản dân tộc Sơn Tây, ban đầu ông học đúc khuôn cát trong xưởng Đồng Viên thuộc nhà máy công binh Tây An, tay nghề kỹ thuật ngày một thành thục, sau đó ông đã có ba năm làm việc cho đường sắt Đồng Bồ tại công trình ở Giới Hưu, Sơn Tây. Nền tảng văn hóa của ông được vun đắp bằng sự trung thành với truyền thống dân gian, sự huấn luyện mà ông được tiếp nhận dựa trên quan niệm tôn sư trọng đạo, nên ông thường giao lưu qua lại với một số nhà tư bản Sơn Tây. Vào thời đó, mối quan hệ giữa chủ nhà máy và công nhân rất tốt đẹp và hòa hợp.

Năm 1938, quân Nhật xâm chiếm đường sắt Đồng Bồ, Sơn Tây, Triệu Chiêm Khôi bỏ việc tháo chạy tới Diên An. Về sau, Triệu Chiêm Khôi vẫn giữ chức vụ trong Cục Lao động thuộc Ủy ban Quân sự và chính trị Tây Bắc. Đồng hương Sơn Tây Triệu Cúc Sinh đã không tốn quá nhiều công sức khi cầu cứu sự giúp đỡ từ Triệu Chiêm Khôi. Vậy là Phó cục trưởng Cục Lao động Tây Bắc Triệu Chiêm Khôi đã nhiệt tình giới thiệu đồng hương trẻ tuổi Triệu Đại Lợi tới cơ quan của Cục Lao động Tây Bắc làm kế toán, chế độ đãi ngộ cũng không thấp.

Tôi phân tích lại như sau: Lúc đến Diên An, Triệu Chiêm Khôi đã là một người đàn ông hơn bốn mươi tuổi, ông ấy thực sự chưa hẳn là một chiến sỹ cách mạng cấp tiến, mà là người biết tuân thủ nguyên tắc của nhà máy, trung thực, đôn hậu, dựa vào bản lĩnh của bản thân để phát triển, chăm lo cho gia đình, về sau lên làm quan, thấy đồng hương Sơn Tây đang gặp khó khăn, cô nhi quả mẫu, ông ấy không thể thấy chết mà không cứu. Truyền thống tương thân tương ái đã ăn sâu vào tâm khảm, giờ đây đã phát huy tác dụng theo cách hết sức tự nhiên. Theo hồi ức của Triệu Kiện, cho tới những năm gần đây, mẹ cô vẫn giữ mối quan hệ qua lại với người nhà của Triệu Chiêm Khôi, cả đời này mẹ cô vẫn luôn ghi nhớ công ơn của gia đình họ.

Điều này rõ ràng đã đi theo hơi hướng của “Thuyết chấm dứt đấu tranh giai cấp”.

Đúng vậy, cái gọi là đấu tranh giai cấp không phải lúc nào cũng được bộc lộ ra một cách rõ nét trong xã hội Trung Quốc. Nếu cứ phải bộc lộ ra một cách quyết liệt, thử hỏi lễ nghĩa quốc gia ở đâu? Truyền thống đạo đức ở đâu? Lòng nhân nghĩa ở đâu? Xóa đói giảm nghèo ở đâu? Cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai giai cấp lớn trong hàng trăm hàng ngàn năm qua, nếu thiếu đi sự hòa hợp thì mọi học thuyết đều trở nên xa lạ.

Như vậy, Đại Lợi đã tham gia vào công tác cách mạng của Đảng cộng sản. Cô làm việc trong Cục Lao động tại cơ quan của Ủy ban Quân sự và hành chính Tây Bắc. Mỗi ngày, tan ca, cô lại đơn côi lẻ bóng trở về nhà chăm con gái nhỏ, cô cũng đã có quãng thời gian vui vẻ khi được học tập và sinh hoạt chung với những nhà cách mạng công nhân và nông dân từng tham gia chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Tiếc rằng, vị tiểu thư nhà giàu này chưa từng được trải qua bất kỳ sự huấn luyện nào của tổ chức Đảng cộng sản, cũng không quen với cuộc sống đấu tranh khốc liệt đầy gian khổ mang tính tập thể của các tổ chức Đảng, sự tồn tại của cô ấy tỏ ra hết sức lạc lõng. Chẳng hạn, những đồng chí cách mạng nữ thường mặc quân phục màu xám do tổ chức phát hay “Quân phục Lê nin”, quần ống rộng, vải thô, chỉ có một kiểu dáng, có người đeo dây thắt lưng vũ trang, có người lại giắt theo súng ngắn, còn Đại Lợi lại thường mặc xường xám, thậm chí còn đi giày da cao gót, mang tất dài, cài bờm màu sắc sặc sỡ…, cô hiện lên nổi bật dưới bầu trời trong xanh trong khu giải phóng. Đây không phải là giai cấp tư sản thì là giai cấp gì? Cộng thêm bối cảnh gia đình phức tạp của cô, cùng với quãng đời lưu lạc khắp nơi và từng làm việc tại khu vực chịu sự thống trị của Quốc dân Đảng, tất cả những điều này khiến cho những nhà cách mạng khó lòng chấp nhận, đặc biệt còn không được thẩm mỹ quan giàu tính chiến đấu của các nữ chiến sĩ cách mạng dung nạp. Nếu không phải do lão tiền bối Triệu Chiêm Khôi giới thiệu, nếu không được vị “Anh hùng đồng hương” này che chở, chỉ e cô ấy sớm đã bị liệt vào phe kẻ địch rồi, hoặc chí ít sẽ bị nghi ngờ là “Đặc vụ của Quốc dân Đảng”.

Đến năm 1954, Ủy ban Quân sự và chính trị Tây Bắc giải thể. Đại Lợi sau đó lần lượt làm việc cho Cục Lao động tỉnh Thiểm Tây, Đại học Giao thông Tây An và công ty Phụ tùng ô tô thuộc Sở Giao thông vận tải tỉnh. Cô vẫn làm công việc kế toán, song sự kỳ thị về mặt chính trị mà mọi người dành cho cô ngày càng nặng nề. Vào thời đại khắc nghiệt đó, không ai có thể thoát khỏi sự phán xét chính trị dai dẳng triền miên. Theo hồi ức của Đại Lợi, “Cuộc điều tra Ninh Vũ” ngày ấy được tiến hành ít nhất 18 đến 20 lần. May mắn thay, cô chỉ học tập tại Thái Nguyên, chưa từng sống ở Ninh Vũ, cũng chưa từng tham gia vào bất kỳ tổ chức nào của Quốc dân Đảng hay Diêm Tích Sơn, vì vậy mỗi lần nổi lên phong trào, mỗi lần thẩm xét cán bộ, mỗi lần điều tra, tuy luôn bị rơi vào tình thế nguy hiểm, song cô vẫn thoát nạn, do đó mà giữ được nguồn tiền lương để hai mẹ con sinh tồn.

Trước Cách mạng Văn hóa, Đại Lợi giữ chức kế toán cấp cao, tiền lương hàng tháng khoảng 70 đồng, đối với nhiều người, số tiền mà cô kiếm được gần như là tội ác, họ hết sức căm hờn hai mẹ con cô. Theo lời kể của Triệu Kiện: Đến khoảng năm 1965, tình hình kinh tế đã bớt khó khăn hơn, mẹ cô ngoài việc thích đọc sách báo thì còn thích ăn mặc đàng hoàng rồi một mình đi tới các cửa hàng bách hóa hay đi tản bộ, mỗi lần ra ngoài đều rất lâu mới quay về. Đương nhiên cô ấy hy vọng được sống tốt hơn. Đây là thói quen của kiểu người nào vậy? Tầng lớp trung nông và dân thành thị nghèo tuyệt đối không làm vậy! Họ kiên quyết phản đối điều này!

Các phong trào lớn dồn dập diễn ra, người ta trừng lên cặp mắt đỏ ngầu, tuy nói là tiến hành thẩm tra chính trị đối với cô, song thực chất là đang đố kỵ với kinh tế của cô. Nói cách khác, trong điều kiện chế độ công hữu hoàn toàn, vận mệnh chính trị và sự đãi ngộ kinh tế không thể tách rời, gần như trong cùng một cuộc đấu tranh. Trong suốt một thời gian dài, khi nghiên cứu về sự tàn khốc của các phong trào chính trị, bao gồm Cách mạng văn hóa, chúng ta thường chỉ chú trọng vào khuynh hướng chính trị và sự tranh đấu giữa các bang phái tập đoàn, chú ý tới sự đấu tranh của các hình thái tư tưởng, nhưng lại dễ dàng bỏ qua nhân tố lợi ích kinh tế. Trên thực tế, hai phe phái lớn trong phong trào tương sát khốc liệt không ngơi nghỉ có liên quan chặt chẽ tới lợi ích kinh tế của mỗi cá nhân dưới chế độ công hữu. Nếu ai thua thì phe đối lập sẽ giảm tiền lương, khiến gia đình họ lao đao. Sau các cuộc bạo động, đa phần đều yêu cầu được bồi thường kinh tế, chứ không phải là sửa chữa “Đường lối tư tưởng”. Tương tự, phong trào Cách mạng văn hóa cũng là sản phẩm của chế độ công hữu. Mức độc tàn khốc của nó được hòa trộn với thể chế kinh tế tập trung cao độ.

Hai mẹ con Triệu Đại Lợi sở dĩ vẫn có thể sống sót trong suốt thời gian dài của cuộc biến động, là hoàn toàn dựa vào số tiền lương kia. Điều khiến người ta phải cảm khái là, một người theo chủ nghĩa vô chính phủ, thời trẻ không tham gia bất kỳ tổ chức nào, thực sự là phước lớn trong nỗi bất hạnh. Thực tế, Đại Lợi về sau đã chịu sự kiểm soát vì bị nghi ngờ là đặc vụ, chuyện này thật đáng sợ. Nhớ lại năm đó, Quốc dân Đảng đã thúc đẩy mạnh mẽ nhiều hoạt động tổ chức ở các khu vực mà họ thống trị như Quý Châu, Vân Nam, Trùng Khánh, Hồ Nam, Quảng Tây, Chiết Giang, Phúc Kiến…, hô vang khẩu hiệu “Một tấc sơn hà một tấc máu, mười vạn thanh niên một vạn quân”, đã có bao thanh niên vứt bút tòng quân, tham gia vào các tổ chức như “Đoàn thanh niên chủ nghĩa tam dân” hay “Quân thanh niên”. Sau năm 1949, họ sẽ bị đoạt mạng bất cứ lúc nào hoặc khó lòng thoát khỏi nhà tù, việc nhiều năm phải đi cải tạo lao động còn phổ biến hơn.

Triệu Kiện có một ký ức bi thảm: Các bạn học tập trung nhau xem bộ phim Mưu trí chiếm Hoa Sơn và đã coi mẹ cô là bản sao của nữ đặc vụ trong phim. Việc này tuy hoang đường, song lại hết sức đau khổ, người ta bắt nạt, sỉ nhục, đối xử với cô như con gái của đặc vụ, đây là hiện thực.

Những cuộc thẩm tra chính trị trong suốt thời gian dài trước đó vẫn chưa lôi người ta ra để phê phán đấu tranh, nhưng khi cơn bão táp năm 1966 ập đến, mọi bức màn đã bị hất tung. Các cuộc phê đấu ở thành cổ Tây An diễn ra ngày càng điên cuồng. Thử nghĩ, trong phong trào đó, đã có hàng ngàn hàng vạn bậc cách mạng lão thành cùng vô số người xuất thân trong gia đình danh giá còn khó lòng thoát khỏi kiếp nạn, huống hồ thành phần phản động. Triệu Đại Lợi bị chỉ trích như cơm bữa, sống chẳng bằng chết. Bà cụ hồi tưởng: “Trong một cuộc họp phê phán đấu tranh, có một nhân viên vì chút việc nhỏ mà đã bị đánh đập dã man dưới đất, kết quả, sau cú ngã thứ ba, người này không còn bò dậy được nữa, bị đánh chết tươi ngay tại chỗ. Những kẻ giết người kia nhanh chóng thiêu xác, rồi đem rải tro cốt của người chết xuống con sông ở Tây An, khiến cho anh ta chết không có chỗ chôn.” Trong cuộc sát phạt bất quản ngày đêm, ký túc xá của Triệu Đại Lợi liên tục bị khám xét nhiều lần, cô bị tịch thu mấy bộ xường xám và quần áo đẹp, mấy chiếc tất dài, hai đôi giày cao gót. Họ còn mở một cuộc triển lãm “Tội ác” công khai. Cuối cùng, cô miễn cưỡng lấy lại được vài tấm ảnh cũ sớm đã bị người ta gạch dấu bằng bút đỏ, đánh mã số 52 và 53, còn những thứ khác đều bị tiêu hủy hết. Sự bạo lực của Hồng vệ binh ở Tây An vẫn còn nhẹ hơn so với Đại Hưng của Bắc Kinh, Đạo Huyện của Hồ Nam, Thái Hành Sơn mà tôi quen thuộc và cả những nơi tàn sát tập thể “Thành phần phản động”. Những con người ôm mối hận thù sâu sắc, rốt cục các người muốn làm gì?

Việc Đại Lợi có thể sống sót quả thực là một kỳ tích.

Cô không muốn bận tâm nhiều, chỉ nghĩ rằng mình tuyệt đối không được chết, tuyệt đối không được thừa nhận các loại tội danh, bởi lẽ cô vẫn còn một cô con gái đáng yêu, cô phải vì con mà sống tiếp.

Từ khi còn là một thiếu nữ, Đại Lợi đã khao khát tự do, hướng về cách mạng, theo đuổi tiến bộ, sùng bái độc lập, nghiêm khắc với bản thân, rộng lượng với người khác, tất cả những điều này lại đổi lấy một kết cục bi thương đến vậy. Ngay tới Ba Kim tiên sinh cũng phải chịu sự sỉ nhục, thập tử nhất sinh. Biết bao phần tử trí thức lớn nhỏ và nhà văn ưu tú đã phải bỏ mạng. Vẫn là câu nói đó: “Cách mạng đã nuốt chửng con gái tôi”.

Căn phòng dần tối, sắc trời đã muộn. Lời kể đượm buồn, cuộc đời của Đại Lợi khiến người ta khó lòng bình tâm: Hơn bảy mươi năm sóng gió, thế sự xoay vần, số phận trắc trở, cô độc chới với, đường đời chông chênh, song Đại Lợi vẫn không hề tỏ ra yếu đuối, khuất phục. Cô ấy thực sự là một người giữ vững niềm tin vào cuộc đời.

Bản thân cô ấy chứa đựng lịch sử chân thực hơn bất kể thứ gì.

Đúng vậy, Đại Lợi cả đời này chưa từng kết hôn. Triệu Kiện cũng chưa từng được gặp cha đẻ.

Giai nhân thời loạn.

Câu hỏi cuối cùng: Chúng ta đã được thấy bảy bức thư cũ mà Ba Kim tiên sinh gửi cho Đại Lợi, vậy thì, những lá thư mà Đại Lợi năm xưa viết cho Ba Kim tiên sinh có còn tồn tại trên cõi đời này hay không? Sẽ là điều hối tiếc lớn nếu thiếu đi lời giải đáp của Đại Lợi. Tôi biết rõ hy vọng này vô cùng nhỏ nhoi, song vẫn truy vấn hai mẹ con nhà họ Triệu. Họ trầm ngâm lắc đầu, ánh mắt mơ màng. Bảy mươi năm phong ba đã đi qua, số thư này đã mất, bản thảo cũng không còn, chỉ hy vọng những nhà nghiên cứu Ba Kim về sau sẽ lưu tâm.

Được sự đồng ý của hai mẹ con họ, tôi đã chụp lại được một vài tấm hình cũ trong tập ảnh của nhà họ Triệu. Những tấm ảnh này sẽ giúp cho câu chuyện được hoàn thiện hơn khi kể nó cho độc giả thời bình và cũng giúp cho chúng ta được cùng nhau đi tìm Đại Lợi của Ba Kim.

Triệu Kiện làm việc cho ngân hàng Xây dựng Tây An cho đến khi nghỉ hưu. Trong thành phố Tây An có không ít thị dân gốc Hà Nam. Hồi trẻ, Triệu Kiện đã kết hôn với một người đàn ông Hà Nam, sau đó sinh được một người con gái. Người con gái này chúng tôi chưa được gặp. Chúc cô ấy mọi điều tốt đẹp, hy vọng bi kịch của bà ngoại cô trong kiếp này sẽ không lặp lại nữa.

Tôi và Lý Bân cáo biệt mẹ con Đại Lợi. Lúc bước xuống lầu, khắp thành cổ Tây An xe cộ như nước, ánh đèn rực rỡ. Dòng người tan làm vội vã trở về nhà. Một người ăn xin trên phố đang kéo đàn nhị, lại chẳng phải bài Giang hà thủy mà là khúc nhạc thịnh hành Bước vào thời đại mới. Trong ánh đèn huyền ảo, khách bộ hành rảo bước thật nhanh.

Mùa thu năm 1964, theo lời mời của các nhà văn Sơn Tây, Ba Kim tiên sinh từng du ngoạn đến Thái Nguyên, Đại Đồng, thôn Đại Trại… Chẳng hay ông vẫn còn nhớ tới Mùa xuân ở Thái Nguyên năm 1936? Còn nhớ cô thiếu nữ tên là Đại Lợi sống ở “Số 20 phố Pha Tử” từng trao đổi thư từ với ông để giãi bày biết bao tâm tình hay không? Tất cả những điều này đều chưa được kiểm chứng.

Gần đây có thông tin cho hay, tiểu hành tinh được đặt theo tên của Ba Kim đang phiêu lãng trong vũ trụ mênh mang vô tận. Điều này khiến tôi liên tưởng đến một nhà văn Trung Quốc sau khi đã trải qua mọi khổ nạn, cuối cùng đã hoàn toàn được tự do.

Trời đất rộng lớn bao la, riêng ta đau lòng rơi lệ.

Hãy chúc phúc cho họ, những con người khao khát tự do.

Tháng 10 năm 2009, Thái Nguyên-Bắc Kinh